- Bút ký - Tạp văn
- “Quan trí” - Bút ký của Lê Thanh Huệ
“Quan trí” - Bút ký của Lê Thanh Huệ
Văn chương TP. Hồ Chí Minh: “Quan trí” – bút ký của nhà văn Lê Thanh Huệ – là chân dung đầy thuyết phục về Kiến trúc sư – Thạc sĩ Lưu Đình Khẩn, một người từng để lại dấu ấn mạnh mẽ trong công cuộc quy hoạch, xây dựng và phát triển tỉnh Long An những năm hậu chiến. Bằng giọng văn lặng sâu, quan sát sắc sảo và tư duy phản biện, tác giả đưa người đọc đi qua hành trình khai mở “tư duy đô thị” từ một cán bộ kỹ thuật tâm huyết – người hiểu rằng: dân trí rất quan trọng, nhưng quan trí mới là động lực tạo đà cho sự phát triển. Một bài ký không chỉ là chân dung cá nhân, mà còn là suy ngẫm lớn về con đường hóa rồng của một vùng đất.
Thạc sỹ, kiến trúc sư Lưu Đình Khẩn cho rằng: vấn đề “dân trí” rất quan trọng, nhưng “quan trí” quan trọng hơn nhiều.
Vào ngày cuối đông 1985, Tôi gặp Anh Lưu Đình Khẩn (quê ở xã Hưng Long, huyện Bình Chánh, thành phố Hồ Chí Minh) – Kiến trúc sư, lúc đó là Phó giám đốc Xí nghiệp khảo sát thiết kế xây dựng tỉnh Long An. Mùa đông phương nam là mùa khô. Nắng chan hòa rải khắp phố phường. Thị xã Tân An nhuốm màu sông nước, nép mình dưới bóng cây của hai bờ sông Vàm Cỏ Tây, xanh mướt hai bờ dừa nước dầm mình ngày hai lần trong con nước triều lên xuống, như nhịp sống có vẽ thầm lặng nhưng cũng rất hối hả của người dân Miền Tây. Lúc đó, Thành phố Tân An là một thị xã nhỏ, lại nhỏ hơn vì bóng cây trùm khắp phố phường. Nhà nhỏ, vài ngôi nhà cao 2 hoặc 3 tầng, cũ kỹ, được xây dựng từ thời Nam kỳ thuộc Pháp. Thi thoảng, có được một ngôi nhà kiến trúc tương đối hiện đại xây từ trước ngày giải phóng cũng nhuốm màu thời gian. Nhà ở dưới bóng dừa, đồng lúa xanh tràn vào, bao vây phố thị từ ba bề, cùng sông Vàm Cỏ Tây trong xanh và con kênh Bảo Định hòa vào màu xanh cây trái.
Hôm đó, tại Công trình Nhà văn hóa thiếu nhi Long An, anh Khẩn và anh Nguyễn Thanh Nguyên (sau này là phó chủ tịch UBND tỉnh Long An) phải ra tận công trường, vẽ vào sổ nhật ký thi công từng móng, cột nhà cho kịp tiến độ, một công việc chứa đầy rủi ro: tự mình làm, mình chịu, không như thiết kế, có người kiểm tra, có cơ quan thẩm quyền thẩm định, phê duyệt.
Khởi công ngày 05/12/1985, thiết kế năm 1985, bằng khung tiệp cũ, tòa nhà dài 48m rộng 28 m, bố trí đủ từ hội trường đến các phòng chức năng để các em thiếu nhi vui chơi và học… phải cần 2 tầng… không đủ kinh phí, phải thay đổi thiết kế nhiều lần, đến cuối năm 1987 công trình khánh thành, đón bao lứa thiếu nhi vào sinh hoạt, vui chơi cho đến ngày công trình mới mọc lên thay thế.
***
Giáo sư tiến sỹ toán học Nguyễn Ngọc Trân (phải) và Thạc sỹ kiến trúc sư Lưu Đình Khẩn (trái) đi khảo sát Đồng Tháp Mười ngày 03/02/2013. Ảnh:Lê Thanh Huệ.
Long An là tỉnh chiếm 1/3 diện tích Đồng Tháp Mười, có quỹ đất rất lớn còn hoang hóa do phèn chua mặn. Để có đất nông nghiệp, cha ông ta phải cải tạo canh tác vài trăm năm. Một số đoàn khoa học Nhật Bản tính toán: mất 50 năm nghiên cứu rửa phèn chua mặn mới thành đất nông nghiệp. Theo Nghị quyết của Tỉnh ủy, Ủy ban tỉnh mở những nông trường trồng lúa, quy mô và hiện đại, kể cả dùng máy bay trực thăng gieo sạ lúa, nhưng không đạt được mục đích. Không chịu bó tay, người dân Long An tìm mọi cách và cuối cùng là đào kênh dẫn nước ngọt về ém phèn, trồng lúa thành công. Kênh mương được đào, đường sá mở theo, quyết tâm, sự nỗ lực của Đảng bộ, chính quyền và người dân đã biến cả vùng đất hoang hóa chuyển mình thức dậy trong giấc mơ dài đổi đời. Những ai từng sống ở trong vùng cỏ năng, rừng tràm nguyên sinh với mùa nước nổi dài hàng tháng, giờ về lại Đồng Tháp Mười, không còn tin ở mắt mình trước những đồng lúa trải dài bên những con kinh mới đào và những vuông tràm dân trồng. Vào những trưa hè, dưới bóng cây, nhìn những bông tràm trắng muốt đu đưa trong điệu hát ru xào xạc của gió và lá; người dân Đồng Tháp Mười có thể mộng đến những thành phố sẽ xây ở giữa miền hoang hóa và say sưa ngủ quên trong giấc mơ về những thay đổi của miền đất này.
Không có đỉnh cao nào không có triền dốc xuống. Tốc độ tăng trưởng Long An chậm dần. Năm 1991 là 7,9%, đến năm 1993, còn lại 6,9%. Tỷ trọng công nghiệp chỉ có 20%. Nếu đầu tư cho cây lúa 10 năm, năng suất không tăng được gấp đôi. Khai hoang hết Đồng Tháp Mười và toàn bộ diện tích hoang hóa cũng không tăng được gấp rưỡi diện tích trồng trọt và tổng sản lượng lúa.
Sau 19 năm kể từ ngày giải phóng, Tân An chỉ nâng cấp được nhà máy nước, xây dựng một sân vận động, một bể bơi, một nhà văn hóa thiếu nhi, Rạp 30/4, Nhà nghỉ Công đoàn, trung tu được Đường Nguyễn Đình Chiểu, nâng cấp được Đường Cần Đốt với tổng chiều dài không tới chục cây số. Nhưng so với sự xuống cấp của cơ sở hạ tầng, vốn đầu tư chưa đáp ứng được yêu cầu cấp thiết. Bằng chứng rõ ràng về sự tụt hậu so với tình hình chung của cả nước là sau chiến tranh, thị xã Tân An có vị trí quan trọng, cửa ngỏ phía tây Sài Gòn, ít bị chiến tranh tàn phá, đến thời điểm đó, là một trong những thị xã nhỏ nhất về cơ sở hạ tầng. Một người ra đi khỏi thị xã Tân An cách đây 20 năm, lúc ấy, quay lại, dẫu có đôi chút ngỡ ngàng, nhưng không lạc lối. Nói quá đi: chúng ta không đô thị hóa được nông thôn mà đang dần nông thôn hóa thị xã và các thị trấn khác trong tỉnh.
Trong căn nhà cấp 4 của khu tập thể chật hẹp Nhà nước phân cho gia đình anh Khẩn, nghe Tôi tâm sự, anh trầm ngâm:
Đầu tư vào nông nghiệp, nhất là trồng lúa, cần nhiều đất đai, nhưng chỉ giải quyết được công ăn việc làm rất ít, nguồn lợi không bao nhiêu mà có thể vô tình hủy hoại môi sinh do những biện pháp tăng năng suất bằng phân hóa học, thuốc trừ sâu, thậm chí tàn phá rừng. Hàng hóa nông sản được xuất đi với giá rẽ để đổi lấy hàng hóa công nghiệp với giá quá đắt. Càng xuất khẩu nhiều nông sản càng làm giàu cho các nước phát triển. Đầu tư vào nông nghiệp để giải quyết thiếu đói, tự túc lương thực là cần thiết. Nhưng để làm giàu, theo thời gian, sẽ mất tính thực tế. Nơi nào chỉ chú trọng đầu tư cho sản xuất nông nghiệp thì có tốc độ tăng trưởng chậm. Một hecta đất khai phá chỉ giải quyết được việc làm cho 3 đến 4 nông dân, trong khi cũng diện tích đó, nếu làm công nghiệp, dịch vụ giải quyết cho hơn 100 nhân công và thu lợi nhiều hơn. Do đó phải đầu tư vào công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ. Công nghiệp, dịch vụ luôn gắn liền với đô thị hóa. Đô thị hóa là xu thế tất yếu của những nước còn nghèo, lạc hậu và tốc độ phát triển còn rất chậm như chúng ta. Đô thị hóa sẽ tạo môi trường cho nền kinh tế thị trường và công nghiệp phát triển, từ đó thúc đẩy tốc độ đô thị hóa. Vấn đề “dân trí” rất quan trọng, nhưng “quan trí” quan trọng hơn nhiều. Làm sao để lãnh đạo tỉnh sớm nhận ra: không thể chỉ tiến về Đồng Tháp Mười và khai phá mãi mà phát triển được. Phải mở thêm hướng phát triển công nghiệp, phát triển đô thị để phát triển tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ có cơ hội phát huy thế mạnh của nó. Vừa giải quyết công ăn việc làm, tận dụng công lao động nông nhàn, giải quyết thất nghiệp vừa tăng thu ngân sách, từ đó mà đầu tư phát triển về chất cho một nền nông nghiệp chất lượng cao. Chúng ta cũng cần có chiến lược phát triển đô thị. Thực tế, có nhiều nước xây dựng những đô thị lớn, quá tập trung dân cư, nhưng không hướng tới sự phát triển bền vững và công bằng xã hội, chỉ thiên về làm giàu cho số ít người, đã phát sinh sự nghèo nàn cho số đông dân chúng, tạo khoảng cách giàu nghèo dể dẫn đến mất ổn định xã hội. Chiến lược đô thị hóa phải nhằm đến sự phát triển, tạo môi trường cho nền kinh tế thị trường hoạt động. Quỹ thời gian còn lại trước thềm thế kỷ XXI rất eo hẹp, đòi hỏi phải nhanh chân.
Những giải pháp còn sơ khai ở mức ý tưởng của anh, được tôi viết thành bài báo “Thử tìm lời giải bài toán thoát nghèo cho Long An”. Chú Tư Vân (Lê Vân) Tổng biên tập Báo Long An đọc lướt qua bản thảo và bảo: “Đây là vấn đề nhạy cảm, đi ngược lại Nghị quyết Tỉnh ủy, nhưng lập luận vững chắc, tâm huyết...”. Bài báo được in trong số Báo xuân Long An Ất Hợi 1995. Chúng tôi thật bất ngờ, nhiều cán bộ cấp tỉnh đã đọc bài báo đó và nó được thấm dần vào các Nghị quyết, cách điều hành, trí tuệ, tiền bạc, sức lao động của nhân dân Long An để có Thành phố Tân An và các thị tứ khác, cả những thị tứ mới ra đời, như những viên ngọc sáng long lanh bên những dòng kênh giữa biển lúa Đồng Tháp Mười mênh mông, để Long An đã trở thành tỉnh đi đầu 9 tỉnh Miền Tây về sản lượng công nghiệp.
Năm 2000, anh Khẩn được đề bạt làm Quyền Giám đốc và 2001 là Giám đốc Sở Xây Dựng Long An. Làm giám đốc Sở, anh vẫn tham gia thiết kế kiến trúc. Anh bảo: làm kỹ thuật chỉ nên đủ sống. Anh tạo điều kiện cho Hội kiến trúc sư mở văn phòng thiết kế để hội viên có điều kiện đóng góp trí tuệ, công sức lao động, có thêm thu nhập chính đáng, góp thêm nhiều công trình đẹp cho Long An. Hồi đó, vẽ bằng máy vi tính (với phần mềm Auto Cad) rất hiếm. Anh mở một lớp, mời thầy Hà Việt Hùng, giảng viên trường Đại học kiến trúc về dạy cho các họa viên, kiến trúc sư, kỹ sư Long An. Tôi được anh cho học dự thính. Anh Khẩn giỏi tiếng Anh, nhìn câu lệnh trên màn hình và làm theo là có thể vẽ thành thạo, nên anh không học.
Lúc mới điều hành Sở Xây dựng, anh làm việc quá sức, lăn ra bệnh. Tôi đến thăm anh. Ngồi ở bệnh viện, mọi thứ đều trắng; nhìn ra ngoài trời đêm, bóng cây xanh thẩm ngả màu đen, chúng tôi nói về môi trường khốc liệt của đô thị bao quanh cây cối, nhưng chúng vẫn sống xanh tươi và bàn cách phải tồn tại trong môi trường công việc căng thẳng. Khuôn mặt xanh xao của anh rạng ngời lên khi nói đến công việc.
Hồi đó, Sở xây dựng thẩm định, phê duyệt thiết kế của ngành giao thông, do đó Tôi thường phải làm việc với bộ phận thẩm định của Sở. Hễ thấy Tôi đến Sở, Anh gọi vào phòng. Câu chuyện chúng tôi chủ yếu là các ý tưởng về quy hoạch của Long An. Anh học xong thạc sỹ kiến trúc về quy hoạch đô thị và say sưa với các ý tưởng. Tôi mê mãi những công trình giao thông đi qua vùng đất yếu, phải xây dựng sao cho rẻ. Và đa số những buổi trò chuyện có việc quen thuộc: Tôi mở bản vẽ để anh Khẩn xem, Anh mang bút chì hý hoáy vẽ thêm, bớt cho dự án.
Biết được mối quan hệ thân thiết của chúng tôi, anh Trần Văn Đôn, giám đốc Công ty khảo sát thiết kế và anh Nguyễn Mậu Ngọ - Phó giám đốc Sở Giao thông thường giao cho tôi “quan hệ” với anh Khẩn để được sự ủng hộ của Sở Xây dựng trong bảo vệ, phê duyệt các dự án. Tôi đến phòng làm việc của Anh trao đổi công việc. Chúng tôi vui lắm. Anh hiểu vấn đề và góp nhiều ý kiến có giá trị. Tôi hiểu được và biến hóa nó vào dự án. Sau đó, Tôi lắng nghe các dự định, các ý tưởng về quy hoạch, kiến trúc, quản lý. Do tôi không phải là cấp dưới của Anh, làm thêm nghề báo, nghề văn nên tôi có cách nhìn riêng, những ý kiến phản biện, dù đúng, dù sai thì cũng không như suy nghĩ của Anh, mà theo suy nghĩ của một người dân, gọi là “dân trí”. Anh là “quan trí” đang rất cần sự phản biện, không cần những ý kiến giống mình.
Long An đi đầu về bù giá vào lương, khai phá Đồng Tháp Mười, rồi phát triển nhanh công nghiệp. Nếu nhìn vào khu công nghiệp đầu tiên ở Long An là những nhà máy đã nhuốm màu năm tháng nằm 2 bên Quốc lộ 1 đi qua khu vực Gò Đen, Bến Lức, Cầu Ván, Thủ Thừa. Nhưng ít ai biết, ý tưởng quy hoạch đó anh Khẩn đã từng đề xuất để lại hành lang đủ rộng để… 100 năm sau, khi phát triển đoạn Quốc lộ 1 thành Đại lộ Long An từ Sài Gòn về Thành phố Tân An cũng không phải giải tỏa các nhà máy.
Năm 1995, Anh làm quy hoạch Đường Hùng Vương. Khu đất lầy lội ở cạnh sân vận động với 4 dàn đèn cao vút, khi lên đèn, rực sáng thị xã ngay cạnh ruộng rau muống dơ bẩn và các ao cá có nhiều cầu cá mất vệ sinh. Khu vực đó được hình thành từ chủ trương đổi đất lấy hạ tầng. Sau đó, Anh cùng tham gia đề xuất ý tưởng quy hoạch khu công viên bên kia sông Bảo Định vốn trước đó là ruộng lúa với chục căn nhà lá nối liền nhau bằng những con đường bờ ruộng, trơn, lầy lội khi mưa về.
***
Thời Nhà Nguyễn, kinh tế nông nghiệp tự cung tự cấp, nguồn lực có hạn, quan hệ xã hội bó gọn trong thôn ấp, việc khai thác lợi thế sông nước và địa hình tự nhiên; chủ yếu bằng lao động thủ công dùng sức dân đã tạo ra hệ thống giao thông thủy bộ có quy mô nhỏ, đáp ứng được nhu cầu vận tải và giao lưu của thời khai đất mở nước. Cũng do lợi thế sông nước, đường bộ ít phát triển.
Đến thời Nam Kỳ thuộc Pháp, Nhà nước thực dân phát triển giao thông vận tải với mục đích bóc lột thuộc địa. Đây là giai đoạn giao thông phát triển rực rỡ với quy hoạch khoa học, hợp lý; hơn 100 năm qua, vẫn chưa lạc hậu, đã tạo nên hệ thống xương sống mạng lưới giao thông thủy bộ; góp phần phát triển kinh tế cho bộ phận tư bản dân tộc, các nhà kỹ nghệ, tiểu thương; giúp cho giao thương và văn hóa phát triển vượt bậc.
Thời kỳ Mỹ xâm lược miền Nam, mạng lưới giao thông ít phát triển về lượng, chỉ duy trì phục vụ chiến tranh. Đây là thời kỳ phát triển về chất, với những ứng dụng khoa học công nghệ từ Mỹ, rõ nhất là giai đoạn 1964 ÷ 1972, các công nghệ mới như đường bê tông nhựa, cầu bê tông tiền áp…được triển khai từ quốc gia đứng đầu thế giới về kinh tế và khoa học kỹ thuật. Trong hoàn cảnh khốc liệt của chiến tranh, việc duy trì, cải tạo, nâng cấp một số tuyến đường đã góp phần hình thành nền kinh tế thị trường và tiếp nhận các giá trị, thành quả khoa học kỹ thuật, quản lý kinh tế của nước phát triển nhất thế giới cho xây dựng giao thông và tư duy kinh tế.
Năm 1975 đến năm 2005, khi làm mới và mở rộng các tuyến đường trên vùng đất yếu, Công ty tư vấn giao thông Long An đã sử dụng những biện pháp kỹ thuật đơn giản, hợp lý, phù hợp với thực tế của địa phương như phân kỳ đầu tư, thi công trong điều kiện chờ lún tự nhiên …v…v… làm giảm tối đa kinh phí và phù hợp với năng lực thi công… Góp phần tạo ra những tuyến đường có chất lượng vừa phải, phù hợp với điều kiện kinh tế tỉnh nhà.
Tháng 10/2006, anh Khẩn được điều về làm Giám đốc Sở Giao thông Vận tải Long An cùng với cương vị Tỉnh ủy viên. Tình hình lúc đó, giao thông Long An đã qua giai đoạn phát triển về lượng với những tuyến đường xương sống mới mở ra giữa Đồng Tháp Mười, đa số có mặt đường sỏi đỏ. Đất nước vào thời kỳ khó khăn về vốn. Tỉnh nhà đã chuyển hướng đầu tư xây dựng các khu công nghiệp, cùng với phát triển nông nghiệp và dịch vụ để mong muốn có sự phát triển nhanh hơn. Nhu cầu phát triển đòi hỏi những tuyến đường có mặt đường nhựa. Nghĩa là cần sự phát triển về chất.
Anh thuyết phục Ban lãnh đạo đơn vị cùng bắt tay vào thay đổi diện mạo của Sở Giao thông. Từ ngôi nhà Văn phòng Sở, 2 tầng và xây dựng như một trường học thời bao cấp; Anh sửa chữa, chấm phá lại mặt tiền lại thành trụ sở hiện đại.
Về tổ chức, bộ máy lãnh đạo lúc đó đa số là những người lớn tuổi và tuy nhiều kinh nghiệm nhưng chưa sẵn sàng, chưa thật sự tin tưởng công nghệ thông tin có thể hỗ trợ quản lý tốt. Anh đã cùng với lãnh đạo Sở trẻ hóa được đội ngũ cán bộ chủ chốt; áp dụng được tin học vào nhiều lãnh vực công việc, sử dụng mạng internet, mạng nội bộ để thông tin thật nhanh đến với mọi người, tăng hiệu quả quản lý và minh bạch hóa trong các mặt công tác của ngành. Một số cán bộ trẻ ngành giao thông đã tiến bộ rất nhiều qua rèn luyện và trưởng thành trong thời gian này. Anh muốn tôi về làm việc tại Ban quản lý dự án để cơ cấu làm giám đốc giúp anh trong khâu xây dựng cơ bản. Lãnh đạo của tôi (lúc đó Nguyễn Trung Sỹ là Phó tổng giám đốc Ban quản lý dự án 85; cũng là bạn cùng lớp ở đại học) đang gặp quá nhiều khó khăn, cần tôi chung sức nên tôi không thể về nhận vị trí công tác cao hơn...
Anh tổ chức lại ngành theo hướng quản lý Nhà nước không ôm đồm những phần việc dân sự làm tốt hơn. Chuyển phần biên chế thừa về làm dịch vụ công để phục vụ doanh nghiệp và nhân dân như: thành lập Trung tâm điều hành vận tải, Trung tâm quản lý đường bộ, đường sông; Trung tâm đào tạo giao thông vận tải, …
Anh đề xuất với Tỉnh ủy và UBND tỉnh phân cấp các lãnh vực của ngành cho các huyện nếu địa phương quản lý tốt hơn…
Trong giai đoạn khó khăn về vốn, Anh đề xuất với UBND tỉnh hình thức giao thầu, đấu thầu trả chậm để xây dựng mới, cải tạo, nâng cấp được một số tuyến đường, đạt mục tiêu 100% xã có đường ô tô về đến trung tâm. Nhựa hóa các tuyến đường nối các khu công nghiệp các trục tỉnh lộ quan trọng, các tuyến đường liên xã. Xã hội hóa các nguồn vốn cho phát triển và hoạt động giao thông với chủ trương Nhà nước và nhân dân cùng làm như đã xây dựng tuyến đường Phước Xuyên…
Công tác duy tu sửa chữa thường xuyên, Anh cũng sử dụng sức mạnh cạnh tranh giữa các công ty Nhà nước và tư nhân, bảo đảm phục vụ tốt người và phương tiện lưu thông trên các tuyến đường.
Công tác quản lý vận tải, anh tổ chức Bộ phận phụ trách quản lý phương tiện, người lái, sát hạch theo hướng minh bạch hóa, phục vụ tốt. Cải tiến công tác thi cử, quy trình cấp phát bằng lái, nhằm hạn chế tiêu cực, phục vụ tốt người dân. Sở tổ chức thêm các tuyến xe buýt tần suất nhanh và các tuyến xe buýt nội tỉnh, liên tỉnh.
Từ ngày 03 đến 05/02/2013, anh Khẩn tổ chức chuyến đi khảo sát các huyện Đồng tháp Mười và huyện Svay Rieng của Căm Pu Chia cho Giáo sư tiến sĩ toán học Nguyễn Ngọc Trân nhằm đánh giá nguyên nhân nhiều năm lũ lớn không xuất hiện ở Đồng bằng Sông Cửu Long. Sau 8 năm xa Đồng Tháp Mười, tôi ngỡ ngàng trước sự đổi thay của đất Tháp Mười. Nhà cửa bằng bê tông cốt thép thay thế nhà bằng vật liệu địa phương. Điện, đường, trường, trạm… Thị trấn Vĩnh Hưng không còn những căn nhà cấp 4 trên nền đất đắp bên những con đường sỏi đỏ mà trở thành thị trấn hiện đại, khang trang nằm bên dòng kinh xanh…. Anh Khẩn quan tâm đến mức nước lũ đang có chiều hướng giảm xuống. Nước xuống, sẽ hạ được cao độ mặt đường, tiết kiệm được rất nhiều kinh phí. Đây là vấn đề phát triển giao thông gắn liền với dự báo ảnh hưởng biến đổi khí hậu để có hướng phát triển trong tương lai gần, điều ít được nước ta quan tâm, trừ các Nhà thầu tư vấn nước ngoài thiết kế công trình giao thông Việt Nam mới đủ trình độ đề cập đến tác động do biến đổi khí hậu.
Anh khởi xướng viết cuốn “Lịch sử Ngành Giao Thông vận tải Long An”. Để khách quan, đề cương anh duyệt kết thúc cuốn sử vào năm 2005, tức là trước thời gian Anh về Sở giao thông công tác.
Năm 2016, Anh xin nghĩ hưu sớm một năm (anh sinh năm 1957) để nhường chỗ cho lớp trẻ phát triển; dành thời gian dạy đại học ở Trường Đại học Văn Lang – thành phố Hồ Chí Minh, truyền thụ kiến thức và lòng yêu nghề cho sinh viên.
***
Năm 2018, kỷ niệm 70 năm thành lập Hội Kiến trúc sư Việt Nam; Hội bầu chọn 10 kiến trúc sư nổi tiếng nhất Việt Nam. Danh sách có Kiến trúc sư Ngô Viết Thụ, tác giả đồ án kiến trúc Dinh Độc Lập. Trong danh sách đó có Kiến trúc sư Lưu Đình Khẩn và được vinh danh: “…là một trong những nhà tư vấn thiết kế nổi tiếng nhất nước ta. Ông đã công tác tại nhiều nơi khác nhau. Như Xí nghiệp Thiết kế sở Xây dựng Long An, Sở Xây dựng Long An, Hội Kiến trúc sư Việt Nam… Ở mỗi vị trí, ông đều để lại những dấu ấn đậm nét với tài năng cũng như cái tâm khi làm việc của mình.”