TIN TỨC

Má tôi - Ký của Bích Ngân

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2025-05-31 09:18:38
mail facebook google pos stwis
347 lượt xem

Cụ Bà Phạm Thị Mãnh, mẫu thân nhà văn Bích Ngân, vừa từ trần ngày 30 tháng 5 năm 2025 tại quê nhà Cà Mau. Văn chương TP. Hồ Chí Minh trân trọng đăng lại bài viết từng in trên báo Người Lao Động Xuân Giáp Thìn 2024 – nơi nhà văn Bích Ngân bằng những dòng hồi ức thấm đẫm yêu thương đã khắc họa chân dung người mẹ tảo tần, giàu đức hy sinh và nhân hậu.
Mời quý vị và các bạn cùng đọc lại bài viết xúc động này như một nén tâm nhang tưởng niệm và tri ân.

BÍCH NGÂN

Sáng ngày cuối năm, dịp nghỉ Tết dương lịch mấy chị em cùng về thăm má. Má tuổi cao. Em gái út sống bên má cũng đã năm mươi. Ba đứa con lớn và gia đình riêng mỗi đứa đều định cư Sài Gòn.

Hai năm nay má không còn khỏe. Các con ở xa lúc má đau bệnh mới vội vã quay về và cũng vội vã trở lên Sài Gòn khi má vừa khỏe lại. Đứa nào cũng vướng víu việc chung việc riêng và đứa nào cũng thấy ray rứt bởi thời gian dành cho đấng sinh thánh quá ít. Rồi chị em ngoéo tay nhau, ai có thể thu xếp việc là về ngay với má...

Chiếc xuồng lé đé nước của má

Tôi lên xe. Giường nằm. Duỗi chân, nằm dài. Qua cửa kính thấy nhà cửa, cỏ cây, đồng ruộng, sông ngòi. Qua cửa kính, những con đường miền Tây, đường bộ, đường sông, đường qua những chiếc cầu lớn nhỏ gợi lại trong tôi biết bao hình ảnh buồn vui gắn với tuyến đường này và nhớ nhất là những chuyến phà chạy rì rì ngày đêm đưa hành khách đợi chờ phờ phạc từ bên này bờ để được sang bên kia bờ và ngược lại, của dòng sông Tiền, sông Hậu. Giờ chỉ ít phút là xe vượt qua sông Tiền, sông Hậu trên những chiếc cầu với những sợi dây cáp giăng giăng tương tựa hình những cánh quạt nan xòe rộng.  

Dù chỉ nhìn mặt sông mênh mang lấp lánh mây trời, loáng thoáng hình bóng vừa mơ hồ vừa rõ nét như thước phim ký ức được chiếu lại, lại đưa tôi về với tuổi thơ.

Tôi như thấy lại, gặp lại tuổi thơ của mình, tuổi thơ của đứa trẻ lớn lên trong chiến tranh. Và dường như sự dồn đuổi của ký ức, của yêu thương khiến tôi nhớ, dĩ nhiên không thể nhớ thật rõ mọi thứ nhưng có những hình ảnh, những từng tình tiết vẫn còn nguyên vẹn như không phải đã lùi xa hơn 50 năm.

Ba tôi thoát ly gia đình tham gia kháng chiến. Mảnh đất cha ông mà ngoại tôi, má tôi, cậu dì tôi lớn lên và sinh sống lại lọt vào vùng tạm chiếm, nơi đó trở thành ấp chiến lược của chính quyền miền Nam Việt Nam Cộng hòa. Là vợ của “Việt cộng” nên má tôi phải đùm túm mấy đứa con nhỏ, mùng mền, xoong nồi rời nhà cửa, bỏ đất đai, lặng lẽ ra đi trong đêm. Tôi còn nhớ mang máng tiếng mái chèo khuya trên mặt sông loang loáng ánh lân tinh dưới bầu trời rải rác những vì sao.

Má tôi được chính quyền vùng kháng chiến giúp cất ngôi nhà sàn mái lá bằng lá dừa nước. Ngôi nhà sàn cất dưới tán cây rừng và quay mặt ra mặt sông tại một ngã ba sông ở ấp Bàu Hầm. Một mình má chèo những chuyến xuồng chở tre, trúc, sậy…từ đâu đó tôi không rõ, bằng chiếc xuồng lé đé nước, bà chèo xuồng cả ngày trời mới về tới nhà. Và khuya sớm một mình, với vật liệu có được, má tôi cặm cụi bện đó làm đăng. Rồi một cái đó được đặt xuống dòng sông để bắt tôm bắt cá.

Cá tôm lúc đó nhiều vô số. Có con nước “dậy tôm”, “dậy cá” mỗi lần má gồng lưng kéo cái đó lên xuồng, chiếc xuồng suýt chìm vì trọng lượng cá tôm trong cái đó. Không ít lần, cá ngác nguyên bầy dẫn nhau chui vào chiếc đó. Má tôi khó nhọc kéo cái đó đầy cá lên. Rồi má tôi buộc sợi dây vào từng con cá và chèo xuồng đưa tôi và đứa em trai tôi cùng lũ cá sang bên kia bờ sông. Tôi và thằng em vừa lên bảy, kéo lệch sệch những con cá ngác vừa to vừa dài đi đến từng nhà ở đầu trên xóm dưới để tặng cho họ. 

Sống giữa mênh mông sông nước nhưng má tôi không biết bơi. Trên chiếc xuồng nhỏ, lúc nào cũng có cái can nhựa rỗng, cái can nhựa màu trắng, nó làm chiếc phao cho má tôi, một cán bộ của Hội phụ nữ, một nông dân, một nữ hộ sinh, một bà đỡ đẻ mà người dân một vùng sông nước quen gọi má tôi “Bà mụ Tư” hay “Bà mụ Tư Mãnh” dù ngày đó má mới hơn ba mươi tuổi.     

Má vừa làm công tác đoàn thể vừa làm người đỡ đẻ cho khắp một vùng sông nước. Ngôi nhà sàn biệt lập bên ngã ba sông nép mình dưới cánh rừng âm u. Và cũng vì biệt lập lại ở ngay ngã ba sông mà ngôi nhà của má thành điểm dừng chân của nhiều đoàn quân giải phóng và cũng là địa điểm lọt vào ống nhòm từ phía trực thăng. Nhà má hai lần bị bom thiêu cháy và hai lần má làm lại nhà trên nền nhà cũ.

Chiếc xuồng nhỏ với mái chèo của mình, má tôi không chỉ đi đến nhiều nơi, nhiều gia đình để đón rước những sinh linh chào đời, bà còn nhiều lần chèo xuồng chở tử thi, những người dân vô tội bị bom pháo tước đi sinh mạng, ra đến chợ Cà Mau để cùng bà con đấu tranh trực diện với chính quyền Việt Nam Cộng hòa lúc đó hiện diện tại An Xuyên, thành phố Cà Mau hôm nay.

Chín tuổi, tôi làm chị hai đứa em trai, đứa lên bảy, đứa lên hai. Mà đâu chỉ làm chị. Có lúc tôi còn làm mẹ của đứa em lên hai. Thức đêm hôm, ẳm bồng, chiều chuộng, hát ầu ơ, ăn uống, giặt giũ. Nhưng tôi không cảm thấy vất vả. Bởi tôi muốn chia sẻ nhọc nhằn với má và tôi yêu thương các em tôi. Chúng cũng như tôi, cứ nơm nớp sợ. Sợ sông sâu. Sợ dòng chảy siết. Sợ rừng rậm. Sợ rắn, sợ rết, sợ muỗi, sợ con bù mắc…rồi sợ đêm đen, sợ ma, những con ma với vô số hình dạng gớm giếc có thể nhảy xổ ra bất kể lúc nào. Sợ tiếng máy bay quần đảo trên đầu. Sợ bom rơi. Sợ đạn lạc. Sợ cha mình không còn được trở về, sợ không dám nói ra nỗi sợ lúc nào như cũng bóp nghẹt trái tim trong lòng ngực non nớt, là sợ không nghe thấy tiếng mái chèo của má. Sợ con sóng dữ nhấn chìm chiếc xuồng lé đé nước của má…

Bà mụ Tư

Bàu Hầm, địa danh mà mãi sau này, di chuyển nhiều nơi và định cư tại Sài Gòn hơn ba mươi năm qua, có lẽ là cái tên hằn sâu vào trí nhớ của tôi. Bàu Hầm, nơi ngôi nhà sàn biệt lập của má trở thành nơi tìm đến của biết bao gia đình có người đàn bà chuyển bụng sắp sinh. Bất kể giờ giấc, bất chấp đêm hay ngày, nắng hay mưa, nước ròng hay nước lớn, kể cả máy bay quần đảo trên đầu, má luôn sẵn sàng. Nếu sản phụ ở xa và trở dạ vào ban đêm, má kéo cả ba đứa con lóc nhóc theo cùng. Có lần, đến đâu đó ở vùng Khai hoang đồng không mông quạnh, căn chòi mà người đàn bà đang rên la trong cơn đau đẻ chỉ có chiếc giừng tre duy nhất, tôi phải kéo hai đứa em ra ngoài, ôm chúng trong bóng đêm với bầy muỗi đói, hồi hộp chờ tiếng khóc của đứa trẻ được chào đời.

Có lần má được người nhà của sản phụ rước đi từ sáng sớm nên má để lũ con ở nhà. Không ngờ lại gặp ca đẻ khó, đến đêm khuya má mới về nhà. Lúc má về đến nhà, thằng em út mới hai tuổi đang lên cơn sốt. Má luôn bình tĩnh trước mọi tình huồng và là một chiến binh quả cảm. Má tiêm cho thằng con mũi thuốc nhưng nó vẫn sốt cao và co giật. Dù là một nữ hộ sinh cừ, trong lúc cơn co giựt thằng bé không dứt, má tôi chỉ vào con mèo mướp, má bảo tôi và đứa em kế, bắt nó lại, đè nó xuống, bà sẽ mổ lấy cái mật. Mật mèo mát có tác dụng làm dịu cơn nóng. Tôi nghe lời má. Tiến về phía con mèo. Trong ánh đèn dầu với quầng sáng mờ mờ, tôi thấy ánh mắt sáng như ánh sao của nó. Ánh sao nơi mắt mèo làm tôi lùi lại. Tôi vội kéo thằng em kế xuống xuồng, bơi qua sông sâu. Vừa bơi vừa réo vang cả khúc sông tên người đàn bà cắt lễ nổi tiếng của xóm. Khi đưa được bà cắt lễ về tới bến sông trước nhà, tôi nghe tiếng em tôi: “Chế hai ơi, má làm em bớt nóng rồi!”, nước mắt lã chã, tôi nhào tới ôm đứa em bé bỏng vào lòng.

Khi em tôi dịu được cơn nóng, dưới bến sông lại có tiếng xuồng khua cùng tiếng gọi hớt hãi: “Chế Tư Mãnh ơi, mau mau cứu vợ em!”

Hôm chị em tôi về thăm má, nhắc lại chuyện má làm bà mụ năm xưa. Bà bà tần ngần rồi lần tay đếm đi đếm lại một hồi rồi nói: “Má đỡ đẻ chắc có có hơn 300 đứa. Có 7 đứa thò cái chân ra trước” 

Cây đàn măng đô lin ca má

Suốt năm tháng tuổi thơ, chị em chúng tôi ít khi được má đung đưa chiếc võng và hát ru như bao nhiêu người mẹ khác. Bù lại, tôi và các em được nghe má đánh đàn. Những bản nhạc chị em tôi ngấm từ tấm bé và vẫn nhớ như in dáng ngồi của má khi ôm đàn khi gãy dây đàn, có lúc má hát theo tiếng đàn, những khúc hát đi cùng năm tháng: Lá xanh, Bên bờ Hiền Lương, Nhạc rừng, Lên Ngàn, Bài ca hy vọng, Qua sông, Con thuyền không bến, Suối Mơ…

Cây đàn măng đô lin của má không rõ má có được từ lúc nào và tiếng đàn lúc sôi nổi giòn giã, lúc réo rắt thiết tha của má dường như là mặc nhiên từ má, của má, của người đàn bà mà sự kiên cường mạnh mẽ buộc phải có để vượt thoát nghịch cảnh, chu toàn việc riêng việc chung, bằng tất cả nghị lực của trái tim yêu thương và cho đi sự yêu thương, tất cả còn được gởi gắm vào tiếng đàn…

Dù là ngôi nhà vách lá trước kia và sau này là nhà vách tường, cây đàn măng đô lin của má vẫn treo trên vách, trên tường, trong tầm tay của má. Cái giá nhạc đơn sơ cũng đặt trước mặt má. Quyển sổ chép nhạc của má với nét chữ không thể lẫn với nét chữ của bất cứ ai. Nét chữ từ bàn tay vừa dịu dàng vừa rắn rỏi của bà mụ đỡ đẻ. 

Ba tôi vĩnh viễn ra đi đã gần 12 năm. Tất cả dường như vẫn không có gì thay đổi. Ngôi nhà nhỏ đơn sơ vẫn nằm trong khuôn viên rộng. Má cho sửa sang lại nhà. Chủ yếu là làm lại cái sân. Từ nền xi măng má cho lót gạch và cái sân cũng được mở rộng hơn để cho các cô các chị ở phường xóm đến tập văn nghệ, tập dưỡng sinh mỗi sớm mỗi chiều. Má cho sơn lại tường và cửa. Màu sơn tươi đến chói mắt. Và má cho gỡ rèm xuống, để lúc đôi chân không còn khỏe, khi ngồi trên giường ngủ bà vẫn có thể nhìn ngắm được những gương mặt thân quen cùng những hoạt động bền bỉ diễn ra trên sân nhà.

Suốt bao năm má sống với niềm vui tận tụy lo cho mọi người trong khả năng có được của mình. Đàn, hát, tổ chức và duy trì sinh hoạt tập dưỡng sinh, văn nghệ, bảo ban, chăm sóc nhau không chỉ về tinh thần.

Sau hai lần bệnh nặng, sức khỏe má đã không thể tham gia các hoạt động văn thể mỹ như trước đây. Tuy vậy, bốn giờ rưởi sáng, các cô các chị vẫn giữ nếp sinh hoạt lâu nay, vẫn tập những bài tập dưỡng sinh theo tiếng nhạc, theo bài hát từ “dàn âm thanh” đã mòn dấu tay của má, trên khoảng sân của má, và trong sự chăm chút lặng lẽ của má.

Mấy ngày chị em tôi về thăm má trôi qua thật nhanh. Má bước đi khó nhọc để ra cổng nhà tiễn các con lên xe.

Ngoái lại, má vẫn đứng nhìn theo chiếc xe chở các con về lại Sài Gòn, lòng tôi nhoi nhói niềm thương. Trên chuyến xe đầu năm, tôi bấm vào phím chữ điện thoại:

Tạm biệt mẹ, lại sống trong cách trở

Tự dối lòng không khoảng cách trái tim

Mẹ già yếu, chiếc xuồng con chở khẳm

Gió thổi liên hồi từ phía thời gian.



Má tôi và tôi với tấm ảnh chụp một biểu trưng của vở kịch “Ông Ba Gật” mà ba tôi, ông Trịnh Hồng Phương (bút danh: Nguyễn Hải Tùng, Hội viên Hội nghệ sĩ Sân khấu Việt Nam) là tác giả - tác phẩm được truy lãnh Giải thưởng Văn học nghệ thuật Phan Ngọc Hiển của UBND tỉnh Cà Mau.


Thành phố Thủ Đức, ngày 4/1/2024

(Bài đăng báo Người Lao động Xuân Giáp Thìn 2024)

Bài viết liên quan

Xem thêm
Chuyện tình trắc trở của hai nghệ sĩ nổi tiếng quê Quảng Trị
Nhân đọc tập bút ký: “Đời như tiểu thuyết” của Trương Đức Minh Tứ
Xem thêm
Cả một trời thương - Tản văn Vừ Thị Mai Hương
Đến Hà Giang, bạn sẽ thấy. Hà Giang đẹp trong veo như nắng sớm bản Phùng, hiên ngang kiên cường như đá núi Đồng Văn và dịu dàng như ánh chiều rơi trên dòng Nho Quế. Hà Giang, như một nàng tiên bí ẩn mà cả đời bạn sẽ không bao giờ hiểu được hết, sẽ không bao giờ đi được đến tận cùng.
Xem thêm
Hậu Sơn Tinh, Thủy Tinh
“Hậu Sơn Tinh, Thủy Tinh” – bài phiếm đàm của Phạm Minh Mẫn, từ một truyền thuyết quen thuộc, đã mở ra nhiều liên tưởng bất ngờ.
Xem thêm
Khát vọng hòa bình – Ký của Nguyễn Minh Ngọc
Từ một nữ sinh Châu Sa giàu nghị lực đến vị Bộ trưởng Ngoại giao của Chính phủ Cách mạng lâm thời, rồi Phó Chủ tịch nước, cuộc đời bà là bản hùng ca về trí tuệ, bản lĩnh và khát vọng hòa bình của dân tộc Việt Nam.
Xem thêm
Văn hóa công trình
Nguồn: Báo Văn nghệ - Hội Nhà Văn Việt Nam số 34 (3417) ra thứ bảy ngày 23/8/2025.
Xem thêm
Tổ quốc trên hết
Tùy bút của Đại tá, nhà thơ TRẦN THẾ TUYỂN
Xem thêm
Xứ nhãn du ký – Bài viết của Phan Anh
Theo con đường trên mặt đê phía tả ngạn sông Hồng chúng tôi xuôi về phố Hiến để đến với vùng đất nổi tiếng một thời của xứ đàng ngoài mà từng được người đời truyền tụng là tiểu Tràng An và đi liền cùng với câu ca “Thứ nhất Kinh kỳ, thứ nhì Phố Hiến”.
Xem thêm
Bữa cơm ân tình giữa lòng thủ đô
Trong khuôn khổ chuyến đi về thủ đô tham dự Kỉ niệm 8 năm thành lập và sơ kết 6 tháng đầu năm 2025 của CỘNG ĐỒNG TÌNH NGUYỆN VIỆT NAM, rất nhiều sự kiện đã diễn ra và đều vô cùng ý nghĩa, trong đó có sự kiện Hoàng Xuân được ăn bữa cơm thân mật cùng với Giáo sư, Anh hùng Lao động, Nhà khoa học Nguyễn Anh Trí.
Xem thêm
Đêm thơ “tứ thuỷ” – Ký của Trần Thế Tuyển
Đại tá, nhà thơ Trần Thế Tuyển vừa gửi qua Zalo cho Văn chương TP.HCM bài viết nóng hổi về Đêm thơ “Tứ Thuỷ” diễn ra ở Tuy Hoà tối 17/8/2025.
Xem thêm
Nhớ mãi Bác cả Trọng
Vẫn biết đó là quy luật muôn đời của tạo hoá, nhưng khi nghe tin “Bác cả Trọng” – Đại tá, nhà báo Phạm Đình Trọng, nguyên Trưởng Ban đại diện phía Nam Báo Quân đội nhân dân về với tổ tiên, chúng tôi không khỏi bàng hoàng…
Xem thêm
Cầu siêu giữa đại ngàn
Bài viết dưới đây của Đại tá nhà văn Trần Thế Tuyển ghi lại những cảm xúc sâu lắng của một người lính già tại lễ cầu siêu đặc biệt giữa đại ngàn Trường Sơn, nơi hội tụ nghĩa tình đồng đội và lòng tri ân sâu sắc.
Xem thêm
Miền ký ức giữa rừng đước Cần Giờ
Hướng tới ngày Thương binh Liệt sĩ 27/7, Văn chương TP. Hồ Chí Minh xin giới thiệu bài viết của nhà văn Đậu Thanh Sơn về vùng đất Cần Giờ – nơi từng là căn cứ địa của Trung đoàn 10 Đặc công Rừng Sác.
Xem thêm
Cua và tôm - Tản văn Trần Thế Tuyển
Bây giờ theo sắp xếp địa danh mới, gọi chung là lục tỉnh Miền Tây. Trước khi sáp nhập, chúng tôi có chuyến hành hương cửu tỉnh đồng bằng sông Cửu Long và ngộ ra nhiều điều – mừng có, lo có!
Xem thêm
Tản mạn “Đêm trừ tịch”
Tản văn của Đại tá nhà thơ Trần Thế Tuyển
Xem thêm
Gặp gỡ Trường Sa – yêu hơn Tổ quốc mình
Một hành trình giàu cảm xúc của nhà báo nhà văn Phương Huyền
Xem thêm
Không thể - Trần Thế Tuyển
Không thể – một khúc nhớ lặng lẽ nhưng chan chứa yêu thương và tri ân của Đại tá, nhà báo Trần Thế Tuyển dành cho Đại tá, nhà báo Phạm Đình Trọng
Xem thêm
Ngòi bút thi sĩ giữ lửa nghề báo: Một trăm năm mãi xanh
Chuyên mục Tiếng nói nhà văn của báo Văn nghệ, số 25, ngày 21/6/2025
Xem thêm