TIN TỨC

Nhà thơ Trần Đôn và “hành trình” Rong chơi 2

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2025-06-10 20:22:49
mail facebook google pos stwis
1306 lượt xem

Ở tuổi U80, nhà thơ Trần Đôn vẫn dồi dào sức sáng tạo, vừa hoàn thành tập thơ Rong chơi 2 – một “hành trình” thi ca “đi dọc đất nước, dọc cuộc đời” đầy chiêm nghiệm. Qua bài viết dưới đây, tác giả Nguyễn Quế đã dẫn dắt độc giả khám phá thế giới thơ mộc mạc, chân thật nhưng thấm đẫm ân tình và trách nhiệm của Trần Đôn, từ tình cảm cội nguồn đến nỗi niềm sẻ chia với đời.
 

NGUYỄN QUẾ

Tôi gặp lại nhà báo, nhà văn, nhà thơ Trần Đôn một ngày không lâu sau lần họp mặt văn nghệ sỹ đầu xuân 2025. Ở ngưỡng U80, ông vẫn khỏe khoắn và dồi dào sức sáng tạo. Bên cạnh những giờ phút sống an nhiên cùng gia đình, người thân và bạn bè, ông dành cho thơ văn tình yêu tha thiết. Nối tiếp “cuộc” Rong chơi diễn ra chưa lâu, Trần Đôn vừa hoàn thành “hành trình” Rong chơi 2 một cách ngoạn mục. Ông tâm sự, với hơn 60 tác phẩm của tập thơ này, ông đã làm chuyến “đi dọc đất nước, dọc cuộc đời” như một trải nghiệm sâu sắc và thủ vị.
 

Trước hết, với “hành trình” Rong chơi 2, Trần Đôn đã dành những trang thơ đầy ắp niềm thành kính và biết ơn đối với các thế hệ nguồn cội của mình. Trong tác phẩm Mừng thọ ngoại, ông đã viết nên những câu thơ đầy xúc cảm:

“Mừng ngoại nay đã ngoại chín mươi

Nuôi con dạy cháu thảy nên người

Tâm luôn trong sáng, tinh thần khỏe

Trí tựa mây vờn thể chất tươi

Đức để ngàn năm con cháu hưởng

Nhân gieo kiếp kiếp vạn người thương

Mừng ông trường thọ cùng con cháu

Vui hưởng vinh hoa, phúc mãn đường”.

Với thể thất ngôn bát cú và ngôn ngữ được chọn lọc, bài thơ đã tạo nên một không khí thật trang trọng. Công ơn “nuôi con dạy cháu” nên người cùng tâm, trí, đức, nhân cao đẹp của người ông được tác giả liệt kê và đặt ở đầu bốn câu thơ như một sự tôn vinh sâu sắc, làm nổi bật các phẩm chất cao quý của bậc tiền bối.

Khác với Mừng thọ ngoại, bài thơ Mừng ba thượng thọ được viết theo thể lục bát truyền thống với âm điệu nhẹ nhàng, uyển chuyển. Tuy nhiên, qua những câu thơ giàu xúc cảm, tác giả đã khắc họa rõ nét tấm lòng hiếu thảo đối với người cha yêu kính của mình:

“Mừng ba thượng thọ chín mươi

Bóng ba che mát cuộc đời cháu con

Cầu xin trời phật ban ơn

Đưa Ba vượt khỏi đoạn đường trăm năm

Chúc ba trí sáng tâm trong

Vui cùng con cháu, thong dong tuổi già”.

Bên cạnh tình cảm sâu nặng dành cho người thân trong gia đình, Rong chơi 2 còn là những cuộc trở về đầy hoài niệm và sự tri ân sâu sắc đối với bao vùng đất và con người mà nhà thơ vốn rất đỗi yêu thương. Đó là những phút giây Tự tình Châu Thới sơn đầy cảm xúc khi ông đứng trên đỉnh ngọn núi có ngôi chùa nổi tiếng vốn là danh thắng quốc gia giữa vùng đồng bằng rộng lớn của quê hương mình nhìn ra miền đất giàu trầm tích lịch sử - văn hóa xung quanh:

“Đứng đây ta nhìn chiến khu D

Chợt nhớ Mã Đà cơn sốt rét

Nhớ đất ThườngTân thương tướng Huỳnh

Nghe hồn Vĩnh Lợi rợn đao binh

 

Đứng đây ta thấy Tam Gíác Sắt

Địa đạo ngổn ngang tiếng khóc cười

Giặc dữ kinh hồn quên “thiết giáp”

Nhân dân rạng rỡ nụ cười tươi…”.

Với Một sáng Tân Uyên, khi cùng đoàn người về thăm vùng đất giàu truyền thống cách mạng đang vươn mình trong công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa, ông không khỏi bồi hồi xúc động xen lẫn niềm tự hào sâu lắng:

“Chúng tôi,

Có những người chưa biết Tân Uyên

Có những người chưa đến Tân Uyên

Và những người đổ máu ở Tân Uyên

Cùng về đây một ngày tháng bảy

Sáng - bầu trời Vĩnh Lợi rộng thênh thang

 

Tháng của mùa mưa bão

Trời lại xanh trong một sáng hiền hòa

Cầu Bà Kiêng chìm trong huyên náo

Đất anh hùng đón khách tao nhân”.

Từ niềm xúc động sâu sắc ấy, ông tự nhủ lòng:

“Ai đã qua một thời gian khó

Mới thấy tự hào đất nước hôm nay”.

Về thăm Di tích nhà tù Phú Lợi, Trần Đôn đã cảm tác bài thơ Củ khoai ngày họp mặt, qua đó, ông không quên nhắc tới một thời gian nan thử thách đã qua với  những kỷ niệm đẹp đẽ lan tỏa từ cuộc sống vô cùng bình dị nhưng nặng ân tình, thủy chung son sắt của nhân dân và các chiến sỹ cách mạng:

“Khi xưa nhờ nó lớn lên

Bền gan vững chí dựng nên cơ đồ

Dẻo thơm từng giọt mồ hôi

Nhân dân dành dụm để nuôi chúng mình”.

Từ sâu thắm lòng mình, nhà thơ chân tình mời những người chiến sỹ năm xưa đã hy sinh cả cuộc đời mình cho Tổ quốc trở về chung niềm vui ngày họp mặt:

Bây giờ đất nước hồi sinh

Củ khoai vẫn cứ như mình với ta

Các anh đã ở nơi xa

Mời về chung hưởng hương hoa thái bình”.

Cảm động biết bao khi tác giả xem giây phút sum họp giữa những người một thời cùng chung trận tuyến chống quân thù và những dĩa muối, củ khoai được bày ra trong ngày họp mặt là “hương hoa thái bình”! Bởi củ khoai từng là “đặc sản” thấm đượm biết bao mồ hôi, xương máu của nhân dân và là biểu tượng cao đẹp cho tình quân dân cá nước suốt những năm dài gian khó của cuộc kháng chiến, và giá trị của nó vẫn mãi bất biến trong lòng mỗi con người đi ra từ cuộc chiến tranh “gian lao mà anh dũng” ấy.

Trong một dịp về thăm Nghĩa trang Quốc gia Vị Xuyên, đứng trước hàng ngàn ngôi mộ liệt sỹ hy sinh trong cuộc chiến bảo vệ biên giới thiêng liêng của Tổ quốc, trái tim nhà thơ không khỏi nhói đau. Ông thầm nói với hương hồn các liệt sỹ:

“Các anh gác đầu về núi

Hoàng Liên Sơn chiều tối ngậm ngùi

Chúng tôi từ Bình Dương tới

Rưng rưng những nén tâm hương…

 

Chúng tôi những người còn sống

Nguyện làm đất nước rạng ngời

Trả ơn những người đã khuất

An lòng nhắm mắt anh ơi!”.

Mang tình yêu nồng thắm đối với quê hương, đất nước, Trần Đôn đã đến với nhiều vùng đất thân yêu của Tổ quốc. Ở đâu ông cũng tha thiết lắng nghe tiếng vọng từ quá khứ hào hùng của cha ông, đắm mình trước cảnh trí tươi đẹp của thiên nhiên hay những công trình lịch sử - văn hóa nổi tiếng. Từ những trải nghiệm ấy, ông gửi nỗi niềm vào những trang thơ. Đó là những rung động dạt dào trước cảnh đẹp Vũng Tàu, là những suy tư Trên đỉnh Mã pì lèng cao chất ngất, là bao xúc cảm sâu lắng Trên đường về Việt Bắc, hay Bên Hồ Gươm vang vọng lời núi sông ngàn năm. Đó còn là những nỗi niềm thiết tha trong Đêm Long Xuyên, là sự nuối tiếc Lỡ hẹn Cao Văn Lầu, là sự cảm phục xen lẫn nỗi ưu tư Bên mộ Hàn Mạc Tử

Bên cạnh việc tưởng nhớ và biết ơn sâu sắc các thế hệ cha anh đã đổ máu xương cho độc lập, tự do của Tổ quốc, Trần Đôn còn mang nặng lòng tri ân đối với những người đã dày công dạy dỗ mình. Mỗi khi gặp Người thầy đầu tiên, trong lòng nhà thơ lại dạt dào bao cảm xúc. Ông nhớ mãi kỷ niệm ngày đầu tiên đi học bảy mươi năm về trước. Thầy giáo của ông lúc ấy còn rất trẻ, cũng lần đầu tiên đi dạy. Thầy trò gặp nhau, cả hai đều bỡ ngỡ. Rồi “Dòng sông đời chảy mãi/ Trôi mỗi người một nơi”. Bảy mươi năm sau, ngày hội ngộ, tình cảm của ông đối với người thầy vẫn mãi nặng sâu. Hãy nghe ông nói về tình cảm cao đẹp ấy:

“Mỗi năm giờ gặp lại

Cảm xúc vẫn dạt dào

Run run bàn tay nắm

Mái đầu bạc như nhau

 

Mừng thầy còn mạnh khỏe

Dù tuổi hạc đã cao”.

Với tấm lòng giàu yêu thương, xúc động, Trần Đôn luôn vương vấn với cảnh cũ, người xưa, và mỗi lần như vậy, trái tim nhà thơ lại trào dâng bao ân tình sâu nặng. Chỉ một chi tiết nhỏ trong cuộc sống cũng làm ông xao xuyến, bâng khuâng. Ngang qua trường cũ, thấy ngôi trường đã xây mới tinh tươm, nhưng khi nhìn tấm bia hiện lên trước mắt, ông không khỏi thốn thức, nghĩ suy:

“Gần bảy mươi năm vẫn ngôi trường đó

Bao bể dâu che lấp một khởi đầu”.

Hình ảnh ngôi trường cũ với bao kỷ niệm một thời hiện về trong ký ức ông, không thể phai mờ. Đối với ông, những kỷ niệm ấy thật đẹp đẽ, thật đáng quý, và  ông đã nói lên tiếng lòng mình:

Cảm ơn cuộc đời còn lại tấm bia

Cảm ơn trường xưa cái tên thân thuộc

Dẫu bây giờ có lồng lộng cao sang

Tôi vẫn mơ về mái trường năm cũ”.

Trước mắt nhà thơ, cuộc sống xung quanh tuy đã có nhiều thay đổi, niềm vui và hạnh phúc đã hiện hữu muôn nơi, nhưng đâu đó vẫn còn không ít vất vả, khó khăn. Với tấm lòng độ lượng, bao dung, nhà thơ đã trải lòng mình để thông cảm, sẻ chia với những mảnh đời cơ cực, bất hạnh. Ông đau đớn, Băn khoăn trước đời thừa:

“Chiều rồi

Mà những người chạy chợ

Vẫn bầm gan - tím ruột

Tiếng rao nhỏ dần như hết pin”.

Tình yêu thương Trần Đôn dành cho cuộc đời này thật rộng lớn và sâu lắng. Có lẽ vì vậy, nhà thơ luôn trân quý thời gian. Ông băn khoăn tự hỏi: Ta đã già chưa?

“Ta đã già chưa - tuổi bảy lăm

Hồng hoang lãng đãng khói sương nhầm”.

Ông cảm thấy tiếc nuối khi ngày tháng trôi mau. Như một sự tổng kết từ những trải nghiệm sâu sắc trước cuộc sống, trong thi phẩm Hết giờ, ông viết những câu thơ đầy trắc ẩn:

“Trăm năm mấy độ ấm nồng

Mấy vòng hạnh phúc, mấy bồng bềnh mơ”.

Tuy nhiên, nỗi niềm ưu tư ấy hoàn toàn không mang màu sắc tự ti, tiêu cực, mà là sự nhìn nhận, đánh giá nghiêm túc hiện thực để từ đó tác giả muốn mình và những người xung quanh bứt phá, vươn lên mạnh mẽ hơn trong cuộc sống.

Cũng như hầu hết các sáng tác trước đây của Trần Đôn, Rong chơi 2 là tâm tình   của một nhà thơ giàu yêu thương, xúc động và có trách nhiệm trước cuộc sống. Đọc Rong chơi 2, ta ít gặp những câu thơ bóng bẩy, mĩ miều, mặc dù tác giả đã thể hiện khả năng sử dụng ngôn ngữ và các biện pháp tu từ khá linh hoạt. Tuy vậy, qua những câu thơ mộc mạc, giản dị, chân thật, và nhiều lúc là những phát biểu trực diện, người đọc thấy rõ vẻ đẹp tâm hồn người viết, qua đó cảm nhận được những thông điệp ông muốn gửi gắm trong các sáng tác của mình.

Chính vì những lẽ trên đây, Rong chơi 2 chắc chắn sẽ mang lại những điều bổ ích cho bạn đọc.

Bài viết liên quan

Xem thêm
Triệu Kim Loan - Khúc độc thoại xanh của hồng gai
Bài viết sâu sắc dưới đây của nhà văn Kao Sơn dành cho buổi ra mắt sách Chữ gọi mùa trăng - Tập thơ thứ 7 đánh dấu chặng đường chín muồi của nhà thơ Triệu Kim Loan
Xem thêm
Quan niệm của Xuân Diệu về thơ từ những câu chuyện đời thường
Sinh thời, theo thống kê của Mã Giáng Lân, thi sĩ Xuân Diệu đã có hơn 500 buổi bình thơ trước công chúng. Đây là hoạt động nghệ thuật mà hiếm có nhà thơ, nhà văn nào ở Việt Nam và cả trên thế giới có thể sánh được. Không chỉ trong nước, chính “ông Hoàng thơ tình” Xuân Diệu đã có công quảng bá thi ca Việt Nam ra thế giới, giúp độc giả nước ngoài biết đến Nguyễn Du, Nguyễn Trãi, Tú Xương, Hồ Xuân Hương…
Xem thêm
Hành trình nước - Bước chuyển mình của kẻ sĩ chu du
Với Hành trình nước, Vũ Mai Phong cho phép người đọc thám hiểm một cõi tâm hồn mình, để chiêm nghiệm, để cảm nhận sự chuyển hóa kỳ diệu của nước - từ giọt sương nhỏ bé hóa thành đại dương bao la, từ tâm hồn cá nhân hòa vào tính thiêng của Tổ quốc.
Xem thêm
Gió Phương Nam 4 - Những lời thơ chân thực
Trang thơ “Gió Phương Nam 4” dễ dàng gợi lại những bước chân đồng đội năm xưa – bước chân thời chiến, bước chân thời bình, mang theo niềm vui, nỗi nhớ và cả những nỗi buồn sâu lắng.
Xem thêm
“Bến nước kinh Cùng” - Bến đợi của ký ức và tình người…
“Giữa bao vội vã, còn mấy ai lắng lòng với những phận người quê mộc mạc?” - Chính từ trăn trở ấy, “Bến nước kinh Cùng” của nhà văn Nguyễn Lập Em được tìm đến như một lời nhắc nhở tha thiết, đưa ta trở về với đất và người Nam Bộ, nơi tình quê và tình người thấm đẫm trong từng trang viết.
Xem thêm
Người thơ xứ Quảng: “Ảo hương lãng đãng bên trời cũ”
Nhà thơ Xuân Trường - tên thật Nguyễn Trường - là một tâm hồn phiêu bạt. Ông sinh ngày 12/12/1949 (theo giấy khai sinh) nhưng thực tế là năm 1945 (tuổi Ất Dậu), tại xã Đại Phong, huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam.
Xem thêm
Nước sông Sa Lung chưng cất bầu rượu thơ
Nhà thơ Nguyễn Hữu Thắng lớn lên bên dòng sông Sa Lung xanh trong. Có phải dòng sông Sa Lung là dòng sông thơ ca của đất Rồng - Vĩnh Long?. Tuổi thơ anh vô tư ngụp lặn vẫy vùng bơi lội tắm mát trong dòng sông ấy, nên anh rất yêu thơ, tập tành sáng tác thơ và thành công thơ khá sớm.
Xem thêm
Cung ngà xưa – Tiếng vọng ký ức trong miền tiếp nhận hôm nay
Đặt trong bối cảnh văn hóa, “cung ngà” còn gợi đến truyền thống âm nhạc dân tộc, nơi tiếng đàn, tiếng sáo từng là phương tiện gắn kết cộng đồng. Người miền Trung – đặc biệt là Huế và xứ Quảng – vốn sống trong không gian khắc nghiệt, thường tìm đến âm nhạc như một nơi trú ngụ tinh thần. Vì vậy, bài thơ không chỉ là ký ức cá nhân, mà còn mang dấu vết của ký ức tập thể.
Xem thêm
“Công chúa Ngọc Anh – bể khổ kiếp nhân sinh”
Văn học lịch sử vốn được xem là mảng khó viết bởi vừa đảm bảo tính chính xác vừa phải tạo được tính hấp dẫn lôi cuốn. Người viết văn học lịch sử không thể xuyên tạc, tô vẽ hay làm méo mó đi nội dung câu chuyện. Chính vì khó viết nên văn học lịch sử luôn là đề tài thu hút nhiều người đọc, bởi đó là cơ hội để người đọc và người sáng tác chiêm nghiệm lại quá khứ, suy ngẫm về tương lai, trăn trở về những hưng thịnh của thời đại, là một dòng chảy làm tái sinh những giai thoại dựa trên sự kiện lịch sử. Người viết văn học lịch sử là người phục dựng lại những bí ẩn còn chìm sâu trong bức màn thời gian, làm sáng tỏ những giá trị nghệ thuật mang tính truyền thống hay tín ngưỡng.
Xem thêm
Nhẹ nhàng bài ca cuộc sống nơi “Những cơn mưa thu” của Thanh Tám
Thanh Tám, Hội viên Hội Văn học nghệ thuật Lai Châu là cây viết truyện ngắn khá quen thuộc với bạn đọc. Một số truyện ngắn của Thanh Tám đã được đăng tải trên các trang báo sang trọng Báo Văn nghệ, Trang báo điện tử Vanvn.vn của Hội Nhà văn Việt Nam. Một trong những truyện ngắn của em, tôi tin rằng nhiều người thiện cảm, đó là truyện ngắn Những cơn mưa thu. Một câu chuyện gọn gàng, xinh xắn, gợi trong lòng độc giả những ấm áp, yêu thương như giọng văn nhẹ nhàng, truyền cảm của tác giả vậy.
Xem thêm
Tượng đài một anh hùng
Trường ca Tiếng chim rừng và đất lửa Tây Ninh (NXB Quân đội nhân dân, 2025) của tác giả Châu La Việt đã kiến tạo thành công nhiều biểu tượng về cuộc kháng chiến chống Mỹ một cách hệ thống, đa dạng về cấu trúc, sâu sắc về ý nghĩa, giàu có về tín hiệu thẩm mỹ.
Xem thêm
Cô gái Quảng Trị với nồng cay tiêu Cùa
Đọc 14 bài bút ký của nữ nhà báo Đào Khoa Thư, trong tập bút ký “Mùa bình thường” in chung với nhà báo Đào Tâm Thanh, do Nxb Thuận Hóa ấn hành tháng 7 năm 2025, tôi thật sự khâm phục cách viết khoáng hoạt của cô gái trẻ. Không gian được đề cập là mảnh đất quê nhà thân thương và những đất nước mà cô đặt chân đến để học tập, công tác, giao lưu, trải nghiệm. Lời văn tươi mới tràn đầy cảm xúc, lối viết chân thực, cởi mở, ngắn gọn cho ta thấy bao điều mới mẻ. Đọc lần lượt từng bài bút ký, thật thích thú với bao điều hấp dẫn qua từng câu chuyện kể về cuộc sống đời thường và các sự kiện diễn ra rất bổ ích.
Xem thêm
Đọc thơ Phương Viên – Ba khúc tình, rụng và gặp gỡ
Bằng giọng văn tinh tế, giàu cảm xúc và với kiến văn sâu rộng, tác giả đã khẳng định: thơ Phương Viên là nơi “chữ rụng mà hồn nở hoa”, một giọng thơ biết lặng đi để người đọc còn nghe tiếng của yêu thương và hồi sinh. Văn chương TP. Hồ Chí Minh xin giới thiệu bài viết này tới bạn đọc.
Xem thêm
Hạt bụi lênh đênh – Từ đất Ý hóa kiếp thân thương dưới trời nam
Rơi ra từ căn phòng bài trí trang trọng của một tòa lâu đài cổ kính. “HẠT BỤI” kia đã chọn kiếp “LÊNH ĐÊNH” để rồi một ngày lưu dấu hồn trần nơi “quê người đất khách”. Hẳn là trong sự lựa chọn “nghịch thường” đó, hàm chứa một điều lớn lao địa cửu thiên trường nơi thân mệnh mong manh cánh chuồn. HẠT BỤI LÊNH ĐÊNH – ngay từ nhan đề… đã cho thấy sắc tính Á Đông thông dụng. Điều đặc biệt ở đây. Nó được viết bởi ELENA PUCILLO TRƯƠNG một nhà văn, một nhà Khoa học/ học giả Ngữ Văn của Tây Phương – Ý.
Xem thêm
Hoài niệm quê hương trong thơ Nguyễn Quang Thuyên
Nguyễn Quang Thuyên vốn là “dân xây dựng” - Giám đốc Vinaconex 3 Phú Thọ , quê Tam Nông, Phú Thọ. Ai từng gặp anh thời điểm hiện tại sẽ có thiện cảm bởi nụ cười có duyên, thân thiện. Ấy là Nguyễn Quang Thuyên của hôm nay, hay chí ít cũng là cảm nhận của tôi, rằng nhiều năm trước, gặp anh sẽ ngỡ anh khó tính, có sự bụi bặm phong trần của nghề nghiệp, có vẻ lạnh lùng và cảm giác khó gần. Anh là “dân ngoại đạo” nhưng đã 10 tập thơ được xuất bản. Tập thơ “Đưa em về quê nội”, NXB Hội Nhà văn 2024 của anh vừa đạt giải A của Hội Liên hiệp văn học nghệ thuật Phú Thọ (Giải thưởng hàng năm, năm 2024).
Xem thêm
Khoảng trống trong thơ đương đại
Sang giai đoạn thơ hiện đại, đặc biệt từ thời kỳ Đổi Mới (1986) đến nay, dưới ảnh hưởng của thơ tự do, thơ thị giác, thơ hậu hiện đại,… khoảng trống được vận dụng đa dạng hơn: là dấu hiệu cấu trúc, chiến lược gợi mở ý nghĩa, cũng là phương tiện giải cấu trúc câu chữ. Việc nhận diện, phân loại và giải thích cơ chế thẩm mỹ của khoảng trống vì vậy cần được đặt trong dòng chảy lịch sử rộng hơn – từ các quy phạm cổ điển đến những cách tân hiện đại – nhằm làm rõ lý do và cơ chế khiến “sự im lặng” trở thành tiếng nói quan trọng trong thơ.
Xem thêm
Triệu Kim Loan – nỗi mình bộc bạch cùng trăng
Một bài viết chân thành, giàu rung cảm của Ngô Minh Oanh về tập thơ Chữ gọi mùa trăng của Triệu Kim Loan.
Xem thêm
Phan Nhật Tiến - Thời cầm bút nói về thời cầm súng
Bài viết của Trần Hóa về tập thơ mới của Phan Nhật Tiến
Xem thêm
Nắng xanh pha hương giọt mật đầy
Văn Chương TP.HCM xin giới thiệu bài của Tuấn Trần.
Xem thêm
Cảm nhận tác phẩm “Mật ngữ đen trắng”
Bài viết của nhà thơ Huỳnh Tấn Bảo từ Bà Rịa - Vũng Tàu
Xem thêm