TIN TỨC

Tiếp biến văn hóa và sự đổi mới thơ Việt

Người đăng : phunghieu
Ngày đăng: 2024-12-04 17:19:46
mail facebook google pos stwis
850 lượt xem

Mỗi dân tộc sống với một hoàn cảnh riêng trong trường kỳ lịch sử có một sắc thái tâm lý riêng biểu hiện khá rõ trong nền văn hóa, trong văn học-nghệ thuật của mình tạo nên một vẻ đẹp truyền thống ổn định. Dẩu vậy, trên cái nền ổn định đó trong dòng chảy lịch sử đều có những giao lưu với các nền văn hóa khác tạo những đổi mới của sự tiếp biến văn hóa. Cái mới, sự cách tân cũng sinh ra từ đây, theo cách nói của Paul Hoover (Mỹ) “Cái mới trong nghệ thuật luôn là cái được nhập từ một nền văn hoá khác”. Văn hóa nói chung và văn học-nghệ thuật Việt Nam nói riêng phát triển cũng trong quy luật này. 

Trong dòng chảy của tiếp biến văn hóa, các khuynh hướng đổi mới của nghệ thuật hiện đại nói chung và thơ ca nói riêng tuy mức độ có khác nhưng đều diễn ra trên cái nền cơ bản văn hóa Đông phương, với những nét đặc thù của lịch sử văn hóa Việt Nam.  

Xã hội Phương Tây, có thể vào những thời điểm nhất định các vấn đề nội dung xã hội, nội dung nhân đạo, dân chủ của nghệ thuật nói chung và thơ ca nói riêng coi như đã rõ ràng, thống nhất, đã tạo một đường “pit” cho nghệ thuật. Cái mới chủ yếu là sự tìm tòi phương thức sáng tạo, cho nên họ hướng mạnh vào hình thức, vào các phương thức biểu hiện, còn ở Phương Đông, đặc biệt ở các nước từ chiến tranh bước ra, từ nghèo nàn lạc hậu đi lên, còn nhiều sức ép bên trong cũng như bên ngoài, nhiều cải cách về nội dung xã hội về đời sống tinh thần đang ở giai đoạn phân tranh. Cái phân khu “ngoại vi “mà văn chương Việt đứng vào trong nền văn chương thế giới hình thành và phát triển (thuộc Văn hóa Hậu thuộc địa mà các nhà nghiên cứu thế giới thường nhắc đến) có một quy luật riêng, cái riêng này tạo nên bản sắc văn hóa Việt Nam trên con đường giao lưu “tiếp biến” để xây dựng một nền văn hóa của mình.

Việt Nam trong trường kỳ lịch sử do cuộc đấu tranh sinh tồn giữ vững bờ cõi, nền văn hóa, do ảnh hưởng mạnh của Tam Giáo, truyền thống trong văn chương chức năng giáo dục có phần nặng hơn.  Các yêu cầu “tải đạo”, “ngôn chí”, “tâm linh” là kim chỉ nam cho văn học một thời (nổi bật đó là cái đạo làm người, cái chí cứu nước, cái tâm linh tưởng vọng tổ tiên của người dân bản địa), ngày nay vẫn còn khả dụng và chính nó góp phần làm nên cái bản sắc văn hóa Việt Nam đương đại. Trên căn cốt của nền văn hóa xứ mình tiếp thu những tinh hoa các nền văn hoá xứ người mà đổi mới, phát triển!

Quả thật, sự đổi mới của văn học thời kỳ nào cũng không thể quên yếu tố truyền thống bên cạnh sự cách tân, truyền thống dân tộc được tích hợp với cái mới qua giao lưu tiếp biến văn hóa xứ người tạo thành sự sáng tạo, sự cách tân của văn học nước nhà. Ngay sau khi đất nước thống nhất GS Nguyễn Khánh Toàn đã có một nhận định sâu sắc về vấn đề này:

“…chúng ta cũng cần hiểu biết nhiều, học hỏi và tiếp thu những tinh hoa của nền văn hóa của các dân tộc, mở rộng tầm nhìn để có một quan niệm đầy đủ về cái lâu đài tráng lệ mà cả loài người đã dày công xây đắp trong mọi thế kỳ. Từ lâu giao lưu văn hóa đã thành cái nếp hầu như là một quy luật có tác động qua lại, một điều kiện tồn tại và phát triển của văn minh thế giới qua sự tiếp xúc thường xuyên và liên tục giữa các dân tộc  có lúc đục, lúc trong, khi tan, khi hợp, lúc xung đột, khi chan hòa. Vì thế giao lưu văn hóa là một nhu cầu của nhân dân các dân tộc có xu hướng xích lại gần nhau để hiểu biết nhau hơn và xây dựng một mối tình hữu nghị làm cơ sở cho tình đoàn kết trong cuộc đấu tranh vì những mục tiêu chung độc lập, tự do, ấm no, hạnh phúc.” (Nguyễn Khánh Toàn - Tổng tập văn học Việt Nam -  Lời tựa -  Nhà xuất bản Khoa Học Xã Hội - Hà Nội - 1980-trang 38)

Quá trình phát triển Văn hóa Việt Nam trong đó có nghệ thuật, đặc biệt thơ ca, trải qua nhiều lần tiếp biến văn hóa với các nền văn hóa khác đã có nhiều thay đổi.

 Lần 1 với Văn hóa Trung Hoa: Trong nhiều thế kỷ giao lưu văn hóa, văn chương Việt, tiếp biến với nền văn học Hoa Hạ, tích hợp nhiều yếu tố tạo một đặc sắc gần gũi về cả nội dung “thi ngôn chí” lẫn hình thức nghệ thuật “đăng đối giàu điển tích, điển cố”. Tuy nhiên các cụ trong những thành tựu cuả mình đã biết chọn lọc hấp thụ cái phần tinh hoa của xứ người, có sự thấu đáo tương đồng về cái cơ sở, cái nền móng xã hội, cái tâm lý dân tộc. Các cụ trong những thành tựu cuả mình đã biết chọn lọc hấp thụ cái phần tinh hoa của xứ người, tiếp thu tính nhân văn, tình yêu, hòa bình, đạo lý đề cao cốt cách người quân tử, nhưng vẫn giữ cái phần riêng tự cường dân tộc cùng những sắc thái của văn hóa làng thôn. Thơ Cổ điển Việt Nam gần gũi Đường thi về thi pháp nhưng khác nhiều về nội dung yêu nước, tự cường dân tộc. Cũng như bên cạnh cái đăng đối, giàu ẩn dụ, ngôn ngữ vẫn giữ bản sắc đa âm điệu của tiếng Việt.

Lần 2 với Văn hóa Pháp:  Hai trăm năm tiếp cận, giao lưu văn hóa Pháp, văn chương Việt hấp thụ tinh thần khai sáng, chủ nghĩa cá nhân cùng những đặc tính tự do, bình đẳng, bác ái. Tương hợp là một hình thức nghệ thuật (thể thơ, ngôn ngữ) khá cởi mở gần gũi đời sống, tâm trạng đậm màu sắc cá nhân, cái tôi được đề cao. Văn chương lãng mạn Tự Lực Văn Đoàn, Thơ Mới thời kỳ 30-45, phần nào Trào lưu hiện thực phê phán là kết quả khả quan của sự tiếp biến văn hóa thời kỳ này của văn chương Việt. Các nhà thơ của phong trào Thơ Mới sống và thở trong sinh quyển thơ ca lãng mạn Âu Tây đặc biêt thơ Pháp đã giao lưu đổi mới thơ Việt và thấm vào người đọc rất nhanh. Tuyển tập Thi nhân Việt Nam mà Hoài Thanh lựa chọn xem là “thơ ca một thời đại”, chúng tôi chưa muốn đề cập đến cao thấp nội dung tư tưởng nhưng có thể xem thời ấy các thi sĩ đã đáp ứng phần nào tính truyền thống và cách tân, không thể không nói đến quá trình tiếp thu tinh hoa văn hóa phương Tây.

Lần 3: Ở miền Bắc với Văn hóa Xã hội chủ nghĩa: Văn học, đặc biệt thơ ca hai cuộc kháng chiến cùng thời kỳ xây dựng CNXH ở miền Bắc trong sự tiếp biến giao lưu nền văn hóa Xã hội chủ nghĩa các nước Đông Âu. CNAHCM, lòng yêu nước, tinh thần giải phóng dân tộc là những nội dung quen thuộc được đề cao trong văn học Việt. Thời kỳ này phát triển cùng với những nội dung XHCN là một nghệ thuật giàu tính dân tộc, tính đại chúng với quy phạm sáng tác “phản ánh hiện thực một cách cụ thể - lịch sử trong quá trình phát triển” là đặc điểm xuyên suốt. Các thi phẩm tiêu biểu trong hai cuộc kháng chiến và xây dựng cũng nổi bật với phong cách truyền thống - hiện đại: sự mở rộng đề tài với đời sống dân tộc, lối nói giản dị giàu âm điệu, chất trào lộng cũng như tình yêu thiên nhiên, khí phách hào hùng… tất cả đều nối tiếp mạch truyền thống trong thơ Việt và giao lưu học hỏi thơ ca các nước, đổi mới cùng nhịp sống thời đại.

Ở Miền Nam, ngoại trừ vùng giải phóng theo khuynh hướng XHCN, thơ ca trong chế độ cũ căn bản vẫn chịu ảnh hưởng phương Tây trong dòng chảy tiếp biến văn hóa, đó là ảnh hưởng Chủ nghĩa hiện sinh trong nội dung và các Chủ nghĩa tân kỳ nặng về hình thức như Tân Hình Thức, Phân Tâm học, Hậu hiện đại ….

Lần 4 với Văn hóa Phương Tây (Âu Mỹ) sau ngày Thống nhất đất nước. Quá trình tiếp biến văn hóa sau ngày Thống nhất đất nước nghiêng về Phương Tây, tạo một hệ quả khá đa dạng phong phú trong thơ ca Việt. Quá trình tiếp biến diễn ra trên nhiều bình diện, nhiều cấp độ của nghệ thuật trong đời sống hội nhập. Sự đổi thay này khác các thời kỳ trước diễn ra khá đa dạng, tuy chưa có nhiều tác phẩm thực sự thành công nhưng nhìn chung ở cấp độ cộng đồng đã có một số kết quả đặc trưng của quá trình tiếp biến văn hóa, với các tiêu chí rõ ràng khá thuyết phục. Trong quá trình tiếp biến văn hóa ở cấp độ cá nhân nhiều tác giả tiếp thu mạnh mẽ cái mới, tạo được những thành công nhất định, nhưng cũng có tác giả cái mới chỉ hiện lên thấp thoáng.

*

Về quá trình tiếp biến văn hóa, về sự tích hợp văn hóa truyền thống với giao lưu văn hoá nước ngoài, trên bình diện văn học, đặc biệt thơ ca diễn ra rất sinh động. Nước ta không có những chuyên gia, những công trình lý luận đồ sộ nhưng trong truyền thống không phải không có những lý thuyết văn chương được nhắc đến, có thể trực tiếp bằng những công trình lý luận nhưng có khi là gián tiếp qua những sáng tác, những vần thơ, câu văn trong văn chương viết cũng như văn chương truyền miệng…Các tác giả Việt Nam quen thuộc máu thịt với những kinh nghiệm của cha ông, sau đó trong quá trình giao lưu “tiếp biến văn hóa” với các nền văn chương khác đã chọn lọc tiêu hóa tốt Thi học xứ người làm mới cho quá trình sáng tạo của mình,  các minh chứng có thể thấy rõ như thơ Cách luật (trung đại),  Thơ Mới( cận đại) , Thơ cách tân ( hiện đại).

Từ sau ngày thống nhất đất nước đến nay, 50 năm thời gian không dài nhưng nhờ quá trình giao lưu tiếp biến văn hoá giữa các nước thơ ca đã có bước phát triển đáng kể, trong đó hình thành các khuynh hướng đổi mới trên cơ sở kết hợp truyền thống và cách tân đã làm cho nền Thơ Việt ngày càng đa dạng, càng phong phú. Sự đổi thay thời nay khác các thời kỳ trước diễn ra khá đa dạng, giai đoạn này phát triển khá nhộn nhịp tuy chưa có nhiều tác phẩm thực sự thành công nhưng nhìn chung đã có một số kết quả đặc trưng của quá trình tiếp biến văn hóa, với các tiêu chí rõ ràng khá thuyết phục, tạo một hệ quả khá phong phú trong thơ ca, phân hóa nhiều khuynh hướng. Xét trên bình diện hình thức ngôn ngữ và thi pháp thể loại có thể thấy nổi bật các khuynh hướng sau đây:       

 Khuynh hướng kế tục thi pháp truyền thống có những yếu tố cách tân. Nội dung đề cao tinh thần dân chủ, nhân đạo, yêu nước, phạm vi đề tài mở rộng, hình thức bổ sung yếu tố ước lệ, tượng trưng vào thủ pháp xây dựng hình tượng, phát huy tối đa vẻ đẹp ngôn ngữ đời thường, đấy là nét tích hợp căn bản của sự tiếp biến. Khuynh hướng này vẫn là dòng chính trong nền thơ ca cộng đồng. Nhiều tác gỉả tiêu biểu cho dòng thơ này xuất hiện tuy khá đa dạng về phong cách nhưng vẫn thống nhất trên văn đàn trong một khuynh hướng chung, kế tục truyền thống kết hợp cách tân, giàu âm hưởng cổ điển nhưng rất mới mẻ trong tạo hình và cách điệu ngôn ngữ. Truyền thống và hiện đại lãng đãng như một đám sương mờ ẩn hiện đâu đó trầm tích dưới tầng sâu ngôn ngữ. Những biểu tượng đi về giữa hữu thức và vô thức đôi khi như dẫn dụ người đọc vào những câu truyện, những truyền thuyết cùng những triết lý nhân sinh hiện đại.  Họ đậu được lâu trong lòng độc giả không chỉ ở cách nói mà còn ở các vấn đề họ nói gần gũi khơi trúng với những suy nghĩ, cảm xúc cộng đồng dù là thông điệp về thế sự hay thổ lộ về nhân sinh, quá khứ hay hiện tại. Họ bước đi thăng bằng trên cái cầu thẩm mỹ dân tộc và hiện đại. 

 Một dòng khác cách tân mạnh mẽ:  đề tài mở rộng “nơi nào có sự sống nơi ấy có thơ ca”, đề cao chuẩn ngôn ngữ, hướng thơ ca vào các phương thức thể hiện mới mẻ, nhiều kiểu kết cấu khác lạ. Cái mới nổi bật nằm ở thủ pháp xây dựng hình tượng thẩm mỹ trong tác phẩm không dừng lại ở cái giới hạn miêu tả hiện thực một cách khách quan mà kết hợp thể hiện cuộc sống thông qua “nội thần chủ thể”, kéo theo một ngôn ngữ tạo sinh nhiều biểu tượng, ẩn dụ đậm màu siêu thực, một âm nhạc tùy biến nội tại theo dòng tâm trạng. Dòng thơ này biểu hiện rõ cái mới qua sự nổi bật hòa hợp ở tính tượng trưng và ước lệ hấp thụ phương Tây trong kết cấu cũng như xây dựng hình tượng… 

Một khuynh hướng tìm về với VHDZ nhưng làm mới bằng sự học tập những thủ pháp nghệ thuật cách tân ở thơ ca đương đại, âm hưởng dân dã chi phối cả nội dung lẫn hình thức biểu hiện, sự thay đổi thể thơ truyền thống như thơ lục bát tự do, đổi mới tiết tấu, kết hợp những thủ pháp phú, tỷ, hứng với nghệ thuật tượng trưng, ước lệ, yếu tố tục và một ngôn ngữ đời thường gần khẩu ngữ. Họ là những tác giả khá quen thuộc với những hình tượng thơ gần gũi giữa đời sống và mối biểu cảm ước lệ trong các trạng thái tương giao giữa con người và tạo vật thường thấy trong ca dao, dân ca cũng như các phù điêu đền chùa.

Các tác giả tiêu biểu cho các khuynh hướng tiếp biến riêng chúng tôi đã minh họa với một số tác giả ở trên, bên cạnh họ có thể kể thêm nhiều cây bút khác có những tương đồng nảy sinh, gặp nhau không là trường phái nhưng có thể xem như một dòng trong nền thơ cộng đồng.

Trong sự tiếp biến văn hóa với các nền thơ Âu Mỹ, thơ ca Việt không có sự tụt hậu khoảng cách với những đổi mới, nhưng lại có một bộ phận cực đoan ngã về phía “bị đồng hóa” tạo nên một khuynh hướng xa lạ với nghệ thuật dân tộc, độc hành trên con đường tư biện gập ghềnh theo lối “duy mỹ” thuần tuý làm thơ trở nên xa lạ với công chúng!

 Sự phát triển một nền thơ là do những xung lực nội tại thúc đẩy nó đổi mới để thích nghi đời sống, dẫu vậy góp sức tạo nên cái mới có hiệu quả không thể không nhắc đến sự ảnh hưởng của các nền văn hóa khác qua quá trình tiếp biến. Sự phát triển các khuynh hướng thơ ca Việt mà chúng tôi nêu lên, không thể tách rời quá trình tiếp biến văn hóa Đông-Tây mà quá trình thống nhất đất nước tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình phát triển. Thơ Việt đang trên đường đổi mới, đã đạt những thành tựu nhất định với yêu cầu truyền thống - hiện đại nhưng vẫn ở đoạn đường đầu để thực hiện phong cách hiện đại thuần Việt đúng như sự mong muốn nhiều thế hệ tác giả và độc giả./.

H.Q

H.Q: Hội Nhà Văn VN, Chi hội tỉnh Hà Tĩnh; ĐT: 0988207680, Địa chỉ: 59- đường Đặng Dung- Phường Tân Giang-Thành phố Hà Tĩnh; Số tài khoản: Trần Ninh-52010000398422 Ngân hàng đầu tư và phát triển Hà Tĩnh. 

Bài viết liên quan

Xem thêm
Quan niệm của Xuân Diệu về thơ từ những câu chuyện đời thường
Sinh thời, theo thống kê của Mã Giáng Lân, thi sĩ Xuân Diệu đã có hơn 500 buổi bình thơ trước công chúng. Đây là hoạt động nghệ thuật mà hiếm có nhà thơ, nhà văn nào ở Việt Nam và cả trên thế giới có thể sánh được. Không chỉ trong nước, chính “ông Hoàng thơ tình” Xuân Diệu đã có công quảng bá thi ca Việt Nam ra thế giới, giúp độc giả nước ngoài biết đến Nguyễn Du, Nguyễn Trãi, Tú Xương, Hồ Xuân Hương…
Xem thêm
Hành trình nước - Bước chuyển mình của kẻ sĩ chu du
Với Hành trình nước, Vũ Mai Phong cho phép người đọc thám hiểm một cõi tâm hồn mình, để chiêm nghiệm, để cảm nhận sự chuyển hóa kỳ diệu của nước - từ giọt sương nhỏ bé hóa thành đại dương bao la, từ tâm hồn cá nhân hòa vào tính thiêng của Tổ quốc.
Xem thêm
Gió Phương Nam 4 - Những lời thơ chân thực
Trang thơ “Gió Phương Nam 4” dễ dàng gợi lại những bước chân đồng đội năm xưa – bước chân thời chiến, bước chân thời bình, mang theo niềm vui, nỗi nhớ và cả những nỗi buồn sâu lắng.
Xem thêm
“Bến nước kinh Cùng” - Bến đợi của ký ức và tình người…
“Giữa bao vội vã, còn mấy ai lắng lòng với những phận người quê mộc mạc?” - Chính từ trăn trở ấy, “Bến nước kinh Cùng” của nhà văn Nguyễn Lập Em được tìm đến như một lời nhắc nhở tha thiết, đưa ta trở về với đất và người Nam Bộ, nơi tình quê và tình người thấm đẫm trong từng trang viết.
Xem thêm
Người thơ xứ Quảng: “Ảo hương lãng đãng bên trời cũ”
Nhà thơ Xuân Trường - tên thật Nguyễn Trường - là một tâm hồn phiêu bạt. Ông sinh ngày 12/12/1949 (theo giấy khai sinh) nhưng thực tế là năm 1945 (tuổi Ất Dậu), tại xã Đại Phong, huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam.
Xem thêm
Nước sông Sa Lung chưng cất bầu rượu thơ
Nhà thơ Nguyễn Hữu Thắng lớn lên bên dòng sông Sa Lung xanh trong. Có phải dòng sông Sa Lung là dòng sông thơ ca của đất Rồng - Vĩnh Long?. Tuổi thơ anh vô tư ngụp lặn vẫy vùng bơi lội tắm mát trong dòng sông ấy, nên anh rất yêu thơ, tập tành sáng tác thơ và thành công thơ khá sớm.
Xem thêm
Cung ngà xưa – Tiếng vọng ký ức trong miền tiếp nhận hôm nay
Đặt trong bối cảnh văn hóa, “cung ngà” còn gợi đến truyền thống âm nhạc dân tộc, nơi tiếng đàn, tiếng sáo từng là phương tiện gắn kết cộng đồng. Người miền Trung – đặc biệt là Huế và xứ Quảng – vốn sống trong không gian khắc nghiệt, thường tìm đến âm nhạc như một nơi trú ngụ tinh thần. Vì vậy, bài thơ không chỉ là ký ức cá nhân, mà còn mang dấu vết của ký ức tập thể.
Xem thêm
“Công chúa Ngọc Anh – bể khổ kiếp nhân sinh”
Văn học lịch sử vốn được xem là mảng khó viết bởi vừa đảm bảo tính chính xác vừa phải tạo được tính hấp dẫn lôi cuốn. Người viết văn học lịch sử không thể xuyên tạc, tô vẽ hay làm méo mó đi nội dung câu chuyện. Chính vì khó viết nên văn học lịch sử luôn là đề tài thu hút nhiều người đọc, bởi đó là cơ hội để người đọc và người sáng tác chiêm nghiệm lại quá khứ, suy ngẫm về tương lai, trăn trở về những hưng thịnh của thời đại, là một dòng chảy làm tái sinh những giai thoại dựa trên sự kiện lịch sử. Người viết văn học lịch sử là người phục dựng lại những bí ẩn còn chìm sâu trong bức màn thời gian, làm sáng tỏ những giá trị nghệ thuật mang tính truyền thống hay tín ngưỡng.
Xem thêm
Nhẹ nhàng bài ca cuộc sống nơi “Những cơn mưa thu” của Thanh Tám
Thanh Tám, Hội viên Hội Văn học nghệ thuật Lai Châu là cây viết truyện ngắn khá quen thuộc với bạn đọc. Một số truyện ngắn của Thanh Tám đã được đăng tải trên các trang báo sang trọng Báo Văn nghệ, Trang báo điện tử Vanvn.vn của Hội Nhà văn Việt Nam. Một trong những truyện ngắn của em, tôi tin rằng nhiều người thiện cảm, đó là truyện ngắn Những cơn mưa thu. Một câu chuyện gọn gàng, xinh xắn, gợi trong lòng độc giả những ấm áp, yêu thương như giọng văn nhẹ nhàng, truyền cảm của tác giả vậy.
Xem thêm
Tượng đài một anh hùng
Trường ca Tiếng chim rừng và đất lửa Tây Ninh (NXB Quân đội nhân dân, 2025) của tác giả Châu La Việt đã kiến tạo thành công nhiều biểu tượng về cuộc kháng chiến chống Mỹ một cách hệ thống, đa dạng về cấu trúc, sâu sắc về ý nghĩa, giàu có về tín hiệu thẩm mỹ.
Xem thêm
Cô gái Quảng Trị với nồng cay tiêu Cùa
Đọc 14 bài bút ký của nữ nhà báo Đào Khoa Thư, trong tập bút ký “Mùa bình thường” in chung với nhà báo Đào Tâm Thanh, do Nxb Thuận Hóa ấn hành tháng 7 năm 2025, tôi thật sự khâm phục cách viết khoáng hoạt của cô gái trẻ. Không gian được đề cập là mảnh đất quê nhà thân thương và những đất nước mà cô đặt chân đến để học tập, công tác, giao lưu, trải nghiệm. Lời văn tươi mới tràn đầy cảm xúc, lối viết chân thực, cởi mở, ngắn gọn cho ta thấy bao điều mới mẻ. Đọc lần lượt từng bài bút ký, thật thích thú với bao điều hấp dẫn qua từng câu chuyện kể về cuộc sống đời thường và các sự kiện diễn ra rất bổ ích.
Xem thêm
Đọc thơ Phương Viên – Ba khúc tình, rụng và gặp gỡ
Bằng giọng văn tinh tế, giàu cảm xúc và với kiến văn sâu rộng, tác giả đã khẳng định: thơ Phương Viên là nơi “chữ rụng mà hồn nở hoa”, một giọng thơ biết lặng đi để người đọc còn nghe tiếng của yêu thương và hồi sinh. Văn chương TP. Hồ Chí Minh xin giới thiệu bài viết này tới bạn đọc.
Xem thêm
Hạt bụi lênh đênh – Từ đất Ý hóa kiếp thân thương dưới trời nam
Rơi ra từ căn phòng bài trí trang trọng của một tòa lâu đài cổ kính. “HẠT BỤI” kia đã chọn kiếp “LÊNH ĐÊNH” để rồi một ngày lưu dấu hồn trần nơi “quê người đất khách”. Hẳn là trong sự lựa chọn “nghịch thường” đó, hàm chứa một điều lớn lao địa cửu thiên trường nơi thân mệnh mong manh cánh chuồn. HẠT BỤI LÊNH ĐÊNH – ngay từ nhan đề… đã cho thấy sắc tính Á Đông thông dụng. Điều đặc biệt ở đây. Nó được viết bởi ELENA PUCILLO TRƯƠNG một nhà văn, một nhà Khoa học/ học giả Ngữ Văn của Tây Phương – Ý.
Xem thêm
Hoài niệm quê hương trong thơ Nguyễn Quang Thuyên
Nguyễn Quang Thuyên vốn là “dân xây dựng” - Giám đốc Vinaconex 3 Phú Thọ , quê Tam Nông, Phú Thọ. Ai từng gặp anh thời điểm hiện tại sẽ có thiện cảm bởi nụ cười có duyên, thân thiện. Ấy là Nguyễn Quang Thuyên của hôm nay, hay chí ít cũng là cảm nhận của tôi, rằng nhiều năm trước, gặp anh sẽ ngỡ anh khó tính, có sự bụi bặm phong trần của nghề nghiệp, có vẻ lạnh lùng và cảm giác khó gần. Anh là “dân ngoại đạo” nhưng đã 10 tập thơ được xuất bản. Tập thơ “Đưa em về quê nội”, NXB Hội Nhà văn 2024 của anh vừa đạt giải A của Hội Liên hiệp văn học nghệ thuật Phú Thọ (Giải thưởng hàng năm, năm 2024).
Xem thêm
Khoảng trống trong thơ đương đại
Sang giai đoạn thơ hiện đại, đặc biệt từ thời kỳ Đổi Mới (1986) đến nay, dưới ảnh hưởng của thơ tự do, thơ thị giác, thơ hậu hiện đại,… khoảng trống được vận dụng đa dạng hơn: là dấu hiệu cấu trúc, chiến lược gợi mở ý nghĩa, cũng là phương tiện giải cấu trúc câu chữ. Việc nhận diện, phân loại và giải thích cơ chế thẩm mỹ của khoảng trống vì vậy cần được đặt trong dòng chảy lịch sử rộng hơn – từ các quy phạm cổ điển đến những cách tân hiện đại – nhằm làm rõ lý do và cơ chế khiến “sự im lặng” trở thành tiếng nói quan trọng trong thơ.
Xem thêm
Triệu Kim Loan – nỗi mình bộc bạch cùng trăng
Một bài viết chân thành, giàu rung cảm của Ngô Minh Oanh về tập thơ Chữ gọi mùa trăng của Triệu Kim Loan.
Xem thêm
Phan Nhật Tiến - Thời cầm bút nói về thời cầm súng
Bài viết của Trần Hóa về tập thơ mới của Phan Nhật Tiến
Xem thêm
Nắng xanh pha hương giọt mật đầy
Văn Chương TP.HCM xin giới thiệu bài của Tuấn Trần.
Xem thêm
Cảm nhận tác phẩm “Mật ngữ đen trắng”
Bài viết của nhà thơ Huỳnh Tấn Bảo từ Bà Rịa - Vũng Tàu
Xem thêm
Nặng tình qua những miền quê
Bài viết tạo được chân dung “lữ khách thi ca” Vũ Trọng Thái
Xem thêm