TIN TỨC

Tiếp biến văn hóa và sự đổi mới thơ Việt

Người đăng : phunghieu
Ngày đăng: 2024-12-04 17:19:46
mail facebook google pos stwis
643 lượt xem

Mỗi dân tộc sống với một hoàn cảnh riêng trong trường kỳ lịch sử có một sắc thái tâm lý riêng biểu hiện khá rõ trong nền văn hóa, trong văn học-nghệ thuật của mình tạo nên một vẻ đẹp truyền thống ổn định. Dẩu vậy, trên cái nền ổn định đó trong dòng chảy lịch sử đều có những giao lưu với các nền văn hóa khác tạo những đổi mới của sự tiếp biến văn hóa. Cái mới, sự cách tân cũng sinh ra từ đây, theo cách nói của Paul Hoover (Mỹ) “Cái mới trong nghệ thuật luôn là cái được nhập từ một nền văn hoá khác”. Văn hóa nói chung và văn học-nghệ thuật Việt Nam nói riêng phát triển cũng trong quy luật này. 

Trong dòng chảy của tiếp biến văn hóa, các khuynh hướng đổi mới của nghệ thuật hiện đại nói chung và thơ ca nói riêng tuy mức độ có khác nhưng đều diễn ra trên cái nền cơ bản văn hóa Đông phương, với những nét đặc thù của lịch sử văn hóa Việt Nam.  

Xã hội Phương Tây, có thể vào những thời điểm nhất định các vấn đề nội dung xã hội, nội dung nhân đạo, dân chủ của nghệ thuật nói chung và thơ ca nói riêng coi như đã rõ ràng, thống nhất, đã tạo một đường “pit” cho nghệ thuật. Cái mới chủ yếu là sự tìm tòi phương thức sáng tạo, cho nên họ hướng mạnh vào hình thức, vào các phương thức biểu hiện, còn ở Phương Đông, đặc biệt ở các nước từ chiến tranh bước ra, từ nghèo nàn lạc hậu đi lên, còn nhiều sức ép bên trong cũng như bên ngoài, nhiều cải cách về nội dung xã hội về đời sống tinh thần đang ở giai đoạn phân tranh. Cái phân khu “ngoại vi “mà văn chương Việt đứng vào trong nền văn chương thế giới hình thành và phát triển (thuộc Văn hóa Hậu thuộc địa mà các nhà nghiên cứu thế giới thường nhắc đến) có một quy luật riêng, cái riêng này tạo nên bản sắc văn hóa Việt Nam trên con đường giao lưu “tiếp biến” để xây dựng một nền văn hóa của mình.

Việt Nam trong trường kỳ lịch sử do cuộc đấu tranh sinh tồn giữ vững bờ cõi, nền văn hóa, do ảnh hưởng mạnh của Tam Giáo, truyền thống trong văn chương chức năng giáo dục có phần nặng hơn.  Các yêu cầu “tải đạo”, “ngôn chí”, “tâm linh” là kim chỉ nam cho văn học một thời (nổi bật đó là cái đạo làm người, cái chí cứu nước, cái tâm linh tưởng vọng tổ tiên của người dân bản địa), ngày nay vẫn còn khả dụng và chính nó góp phần làm nên cái bản sắc văn hóa Việt Nam đương đại. Trên căn cốt của nền văn hóa xứ mình tiếp thu những tinh hoa các nền văn hoá xứ người mà đổi mới, phát triển!

Quả thật, sự đổi mới của văn học thời kỳ nào cũng không thể quên yếu tố truyền thống bên cạnh sự cách tân, truyền thống dân tộc được tích hợp với cái mới qua giao lưu tiếp biến văn hóa xứ người tạo thành sự sáng tạo, sự cách tân của văn học nước nhà. Ngay sau khi đất nước thống nhất GS Nguyễn Khánh Toàn đã có một nhận định sâu sắc về vấn đề này:

“…chúng ta cũng cần hiểu biết nhiều, học hỏi và tiếp thu những tinh hoa của nền văn hóa của các dân tộc, mở rộng tầm nhìn để có một quan niệm đầy đủ về cái lâu đài tráng lệ mà cả loài người đã dày công xây đắp trong mọi thế kỳ. Từ lâu giao lưu văn hóa đã thành cái nếp hầu như là một quy luật có tác động qua lại, một điều kiện tồn tại và phát triển của văn minh thế giới qua sự tiếp xúc thường xuyên và liên tục giữa các dân tộc  có lúc đục, lúc trong, khi tan, khi hợp, lúc xung đột, khi chan hòa. Vì thế giao lưu văn hóa là một nhu cầu của nhân dân các dân tộc có xu hướng xích lại gần nhau để hiểu biết nhau hơn và xây dựng một mối tình hữu nghị làm cơ sở cho tình đoàn kết trong cuộc đấu tranh vì những mục tiêu chung độc lập, tự do, ấm no, hạnh phúc.” (Nguyễn Khánh Toàn - Tổng tập văn học Việt Nam -  Lời tựa -  Nhà xuất bản Khoa Học Xã Hội - Hà Nội - 1980-trang 38)

Quá trình phát triển Văn hóa Việt Nam trong đó có nghệ thuật, đặc biệt thơ ca, trải qua nhiều lần tiếp biến văn hóa với các nền văn hóa khác đã có nhiều thay đổi.

 Lần 1 với Văn hóa Trung Hoa: Trong nhiều thế kỷ giao lưu văn hóa, văn chương Việt, tiếp biến với nền văn học Hoa Hạ, tích hợp nhiều yếu tố tạo một đặc sắc gần gũi về cả nội dung “thi ngôn chí” lẫn hình thức nghệ thuật “đăng đối giàu điển tích, điển cố”. Tuy nhiên các cụ trong những thành tựu cuả mình đã biết chọn lọc hấp thụ cái phần tinh hoa của xứ người, có sự thấu đáo tương đồng về cái cơ sở, cái nền móng xã hội, cái tâm lý dân tộc. Các cụ trong những thành tựu cuả mình đã biết chọn lọc hấp thụ cái phần tinh hoa của xứ người, tiếp thu tính nhân văn, tình yêu, hòa bình, đạo lý đề cao cốt cách người quân tử, nhưng vẫn giữ cái phần riêng tự cường dân tộc cùng những sắc thái của văn hóa làng thôn. Thơ Cổ điển Việt Nam gần gũi Đường thi về thi pháp nhưng khác nhiều về nội dung yêu nước, tự cường dân tộc. Cũng như bên cạnh cái đăng đối, giàu ẩn dụ, ngôn ngữ vẫn giữ bản sắc đa âm điệu của tiếng Việt.

Lần 2 với Văn hóa Pháp:  Hai trăm năm tiếp cận, giao lưu văn hóa Pháp, văn chương Việt hấp thụ tinh thần khai sáng, chủ nghĩa cá nhân cùng những đặc tính tự do, bình đẳng, bác ái. Tương hợp là một hình thức nghệ thuật (thể thơ, ngôn ngữ) khá cởi mở gần gũi đời sống, tâm trạng đậm màu sắc cá nhân, cái tôi được đề cao. Văn chương lãng mạn Tự Lực Văn Đoàn, Thơ Mới thời kỳ 30-45, phần nào Trào lưu hiện thực phê phán là kết quả khả quan của sự tiếp biến văn hóa thời kỳ này của văn chương Việt. Các nhà thơ của phong trào Thơ Mới sống và thở trong sinh quyển thơ ca lãng mạn Âu Tây đặc biêt thơ Pháp đã giao lưu đổi mới thơ Việt và thấm vào người đọc rất nhanh. Tuyển tập Thi nhân Việt Nam mà Hoài Thanh lựa chọn xem là “thơ ca một thời đại”, chúng tôi chưa muốn đề cập đến cao thấp nội dung tư tưởng nhưng có thể xem thời ấy các thi sĩ đã đáp ứng phần nào tính truyền thống và cách tân, không thể không nói đến quá trình tiếp thu tinh hoa văn hóa phương Tây.

Lần 3: Ở miền Bắc với Văn hóa Xã hội chủ nghĩa: Văn học, đặc biệt thơ ca hai cuộc kháng chiến cùng thời kỳ xây dựng CNXH ở miền Bắc trong sự tiếp biến giao lưu nền văn hóa Xã hội chủ nghĩa các nước Đông Âu. CNAHCM, lòng yêu nước, tinh thần giải phóng dân tộc là những nội dung quen thuộc được đề cao trong văn học Việt. Thời kỳ này phát triển cùng với những nội dung XHCN là một nghệ thuật giàu tính dân tộc, tính đại chúng với quy phạm sáng tác “phản ánh hiện thực một cách cụ thể - lịch sử trong quá trình phát triển” là đặc điểm xuyên suốt. Các thi phẩm tiêu biểu trong hai cuộc kháng chiến và xây dựng cũng nổi bật với phong cách truyền thống - hiện đại: sự mở rộng đề tài với đời sống dân tộc, lối nói giản dị giàu âm điệu, chất trào lộng cũng như tình yêu thiên nhiên, khí phách hào hùng… tất cả đều nối tiếp mạch truyền thống trong thơ Việt và giao lưu học hỏi thơ ca các nước, đổi mới cùng nhịp sống thời đại.

Ở Miền Nam, ngoại trừ vùng giải phóng theo khuynh hướng XHCN, thơ ca trong chế độ cũ căn bản vẫn chịu ảnh hưởng phương Tây trong dòng chảy tiếp biến văn hóa, đó là ảnh hưởng Chủ nghĩa hiện sinh trong nội dung và các Chủ nghĩa tân kỳ nặng về hình thức như Tân Hình Thức, Phân Tâm học, Hậu hiện đại ….

Lần 4 với Văn hóa Phương Tây (Âu Mỹ) sau ngày Thống nhất đất nước. Quá trình tiếp biến văn hóa sau ngày Thống nhất đất nước nghiêng về Phương Tây, tạo một hệ quả khá đa dạng phong phú trong thơ ca Việt. Quá trình tiếp biến diễn ra trên nhiều bình diện, nhiều cấp độ của nghệ thuật trong đời sống hội nhập. Sự đổi thay này khác các thời kỳ trước diễn ra khá đa dạng, tuy chưa có nhiều tác phẩm thực sự thành công nhưng nhìn chung ở cấp độ cộng đồng đã có một số kết quả đặc trưng của quá trình tiếp biến văn hóa, với các tiêu chí rõ ràng khá thuyết phục. Trong quá trình tiếp biến văn hóa ở cấp độ cá nhân nhiều tác giả tiếp thu mạnh mẽ cái mới, tạo được những thành công nhất định, nhưng cũng có tác giả cái mới chỉ hiện lên thấp thoáng.

*

Về quá trình tiếp biến văn hóa, về sự tích hợp văn hóa truyền thống với giao lưu văn hoá nước ngoài, trên bình diện văn học, đặc biệt thơ ca diễn ra rất sinh động. Nước ta không có những chuyên gia, những công trình lý luận đồ sộ nhưng trong truyền thống không phải không có những lý thuyết văn chương được nhắc đến, có thể trực tiếp bằng những công trình lý luận nhưng có khi là gián tiếp qua những sáng tác, những vần thơ, câu văn trong văn chương viết cũng như văn chương truyền miệng…Các tác giả Việt Nam quen thuộc máu thịt với những kinh nghiệm của cha ông, sau đó trong quá trình giao lưu “tiếp biến văn hóa” với các nền văn chương khác đã chọn lọc tiêu hóa tốt Thi học xứ người làm mới cho quá trình sáng tạo của mình,  các minh chứng có thể thấy rõ như thơ Cách luật (trung đại),  Thơ Mới( cận đại) , Thơ cách tân ( hiện đại).

Từ sau ngày thống nhất đất nước đến nay, 50 năm thời gian không dài nhưng nhờ quá trình giao lưu tiếp biến văn hoá giữa các nước thơ ca đã có bước phát triển đáng kể, trong đó hình thành các khuynh hướng đổi mới trên cơ sở kết hợp truyền thống và cách tân đã làm cho nền Thơ Việt ngày càng đa dạng, càng phong phú. Sự đổi thay thời nay khác các thời kỳ trước diễn ra khá đa dạng, giai đoạn này phát triển khá nhộn nhịp tuy chưa có nhiều tác phẩm thực sự thành công nhưng nhìn chung đã có một số kết quả đặc trưng của quá trình tiếp biến văn hóa, với các tiêu chí rõ ràng khá thuyết phục, tạo một hệ quả khá phong phú trong thơ ca, phân hóa nhiều khuynh hướng. Xét trên bình diện hình thức ngôn ngữ và thi pháp thể loại có thể thấy nổi bật các khuynh hướng sau đây:       

 Khuynh hướng kế tục thi pháp truyền thống có những yếu tố cách tân. Nội dung đề cao tinh thần dân chủ, nhân đạo, yêu nước, phạm vi đề tài mở rộng, hình thức bổ sung yếu tố ước lệ, tượng trưng vào thủ pháp xây dựng hình tượng, phát huy tối đa vẻ đẹp ngôn ngữ đời thường, đấy là nét tích hợp căn bản của sự tiếp biến. Khuynh hướng này vẫn là dòng chính trong nền thơ ca cộng đồng. Nhiều tác gỉả tiêu biểu cho dòng thơ này xuất hiện tuy khá đa dạng về phong cách nhưng vẫn thống nhất trên văn đàn trong một khuynh hướng chung, kế tục truyền thống kết hợp cách tân, giàu âm hưởng cổ điển nhưng rất mới mẻ trong tạo hình và cách điệu ngôn ngữ. Truyền thống và hiện đại lãng đãng như một đám sương mờ ẩn hiện đâu đó trầm tích dưới tầng sâu ngôn ngữ. Những biểu tượng đi về giữa hữu thức và vô thức đôi khi như dẫn dụ người đọc vào những câu truyện, những truyền thuyết cùng những triết lý nhân sinh hiện đại.  Họ đậu được lâu trong lòng độc giả không chỉ ở cách nói mà còn ở các vấn đề họ nói gần gũi khơi trúng với những suy nghĩ, cảm xúc cộng đồng dù là thông điệp về thế sự hay thổ lộ về nhân sinh, quá khứ hay hiện tại. Họ bước đi thăng bằng trên cái cầu thẩm mỹ dân tộc và hiện đại. 

 Một dòng khác cách tân mạnh mẽ:  đề tài mở rộng “nơi nào có sự sống nơi ấy có thơ ca”, đề cao chuẩn ngôn ngữ, hướng thơ ca vào các phương thức thể hiện mới mẻ, nhiều kiểu kết cấu khác lạ. Cái mới nổi bật nằm ở thủ pháp xây dựng hình tượng thẩm mỹ trong tác phẩm không dừng lại ở cái giới hạn miêu tả hiện thực một cách khách quan mà kết hợp thể hiện cuộc sống thông qua “nội thần chủ thể”, kéo theo một ngôn ngữ tạo sinh nhiều biểu tượng, ẩn dụ đậm màu siêu thực, một âm nhạc tùy biến nội tại theo dòng tâm trạng. Dòng thơ này biểu hiện rõ cái mới qua sự nổi bật hòa hợp ở tính tượng trưng và ước lệ hấp thụ phương Tây trong kết cấu cũng như xây dựng hình tượng… 

Một khuynh hướng tìm về với VHDZ nhưng làm mới bằng sự học tập những thủ pháp nghệ thuật cách tân ở thơ ca đương đại, âm hưởng dân dã chi phối cả nội dung lẫn hình thức biểu hiện, sự thay đổi thể thơ truyền thống như thơ lục bát tự do, đổi mới tiết tấu, kết hợp những thủ pháp phú, tỷ, hứng với nghệ thuật tượng trưng, ước lệ, yếu tố tục và một ngôn ngữ đời thường gần khẩu ngữ. Họ là những tác giả khá quen thuộc với những hình tượng thơ gần gũi giữa đời sống và mối biểu cảm ước lệ trong các trạng thái tương giao giữa con người và tạo vật thường thấy trong ca dao, dân ca cũng như các phù điêu đền chùa.

Các tác giả tiêu biểu cho các khuynh hướng tiếp biến riêng chúng tôi đã minh họa với một số tác giả ở trên, bên cạnh họ có thể kể thêm nhiều cây bút khác có những tương đồng nảy sinh, gặp nhau không là trường phái nhưng có thể xem như một dòng trong nền thơ cộng đồng.

Trong sự tiếp biến văn hóa với các nền thơ Âu Mỹ, thơ ca Việt không có sự tụt hậu khoảng cách với những đổi mới, nhưng lại có một bộ phận cực đoan ngã về phía “bị đồng hóa” tạo nên một khuynh hướng xa lạ với nghệ thuật dân tộc, độc hành trên con đường tư biện gập ghềnh theo lối “duy mỹ” thuần tuý làm thơ trở nên xa lạ với công chúng!

 Sự phát triển một nền thơ là do những xung lực nội tại thúc đẩy nó đổi mới để thích nghi đời sống, dẫu vậy góp sức tạo nên cái mới có hiệu quả không thể không nhắc đến sự ảnh hưởng của các nền văn hóa khác qua quá trình tiếp biến. Sự phát triển các khuynh hướng thơ ca Việt mà chúng tôi nêu lên, không thể tách rời quá trình tiếp biến văn hóa Đông-Tây mà quá trình thống nhất đất nước tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình phát triển. Thơ Việt đang trên đường đổi mới, đã đạt những thành tựu nhất định với yêu cầu truyền thống - hiện đại nhưng vẫn ở đoạn đường đầu để thực hiện phong cách hiện đại thuần Việt đúng như sự mong muốn nhiều thế hệ tác giả và độc giả./.

H.Q

H.Q: Hội Nhà Văn VN, Chi hội tỉnh Hà Tĩnh; ĐT: 0988207680, Địa chỉ: 59- đường Đặng Dung- Phường Tân Giang-Thành phố Hà Tĩnh; Số tài khoản: Trần Ninh-52010000398422 Ngân hàng đầu tư và phát triển Hà Tĩnh. 

Bài viết liên quan

Xem thêm
Chạm thu - chạm ngưỡng cửa thu về
Chạm thu – tập thơ mới của bác sĩ, nhà thơ Mai Hữu Phước mang đến những chiêm nghiệm lắng sâu về đời người và tình thơ. Bài viết của Lê Bá Duy gợi mở một hành trình thi ca giàu cảm xúc, chân thành và đầy dư âm.
Xem thêm
“Tình đất biên cương” – Tập truyện giàu giá trị hiện thực và giá trị nhân văn
Những người từng quen biết và cùng công tác với anh luôn nhận thấy anh là một cán bộ gương mẫu, trách nhiệm, tác phong nhanh nhẹn, ngôn từ giao tiếp hoạt bát. Tuy nhiên, ít ai biết trong anh tiềm tàng một khả năng sáng tác văn chương như vậy. Khi hoàn thành nhiệm vụ công chức, được nhà nước cho nghỉ chế độ, cũng chính là lúc “anh hoa phát tiết”, các thể loại thơ, tản văn, truyện ký, tiểu thuyết,… được thể nghiệm và đáng nể nhất là hai tập sách dày dặn (Truyện ký Tình yêu người lính - NXB Thanh niên năm 2021, 364 trang và tiểu thuyết Hoa trong mắt bão - NXB Hội Nhà văn năm 2023, 570 trang) và hiện tại trên tay tôi là tập truyện ngắn Tình đất biên cương.
Xem thêm
Ẩn số đường đến thơ của Trần Hóa
Bài đăng Diễn đàn Văn nghệ Việt Nam, số tháng 9/2025
Xem thêm
Nhà lý luận phê bình Đỗ Nguyên Thương và tập thơ “Tìm về miền ký ức”
Tôi quen nhà giáo, nhà Lý luận Phê bình văn học Đỗ Nguyên Thương thật tình cờ trong buổi Tọa đàm về Thơ 1-2-3 do nhà thơ Phan Hoàng chủ trì có sự phối hợp của Hội nhà văn Cần Thơ và khoa Khoa học Xã hội và Nhân văn tường Đại học Cần Thơ.
Xem thêm
Tư tưởng nhân dân anh hùng
1. Vì tình yêu quê hương đất nước, Trần Bảo Định đến với văn chương. Nhà văn Long An để lại dấu ấn đáng kể trong sinh hoạt văn chương từ những năm 2010 đến nay. Bên cạnh bộ sách Đất và người Nam Bộ mến yêu gồm 14 tập truyện ngắn, Trần Bảo Định còn có 6 tập thơ, 5 tập tiểu luận phê bình. Năm 2024, nhà văn trình làng tuyển tập Đất Việt trời Nam liệt truyện gồm 3 tập (thượng, trung, hạ) do Nxb Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh ấn hành. Tái hiện diễn trình lịch sử vùng đất Nam Bộ từ hồi một 1620, hồi hai 1859, đến hồi ba 1900, tuyển tập có thể xem như trường thiên tiểu thuyết ca ngợi tinh thần đấu tranh yêu nước anh dũng của nhân dân Nam Bộ, như lời giới thiệu của Nhà xuất bản: “Chính các anh hùng vô danh mới thể hiện toàn bộ chủ đích nghệ thuật của Trần Bảo Định, cho thấy tư tưởng: nhân dân anh hùng!”
Xem thêm
Thơ tình Nguyên Bình đắm đuối
(Vanchuongthanhphohochiminh.vn) - Các nhà thơ từ cổ chí kim không nhiều thì ít đều viết thơ tình, điều đó không có gì lạ; vì tâm hồn họ lãng mạn, mơ mộng, tôn thờ phái đẹp. Nhà thơ Nguyên Bình không nằm ngoài số đó. Anh viết văn làm thơ từ thời sinh viên, cả trước và sau năm 1975. Những bài thơ tình, anh không dám trao tay cô nữ sinh xinh đẹp xứ Huế anh yêu say đắm: Vẫn mãi “Là bài thơ còn hoài trong vở/Giữa giờ chơi mang đến lại mang về” thơ Đỗ Trung Quân.
Xem thêm
Mỹ cảm của kiểu tự sự trong suốt trong tập tản văn “Nỗi buồn trong suốt” của Nguyễn Đức Phú Thọ
Tản văn là một thể loại dễ tiếp cận với mọi mặt của đời sống thông qua những lát cắt hiện thực, nhưng trung tâm tinh thần của thể loại này lại là cái tôi tư tưởng, cảm xúc của người nghệ sĩ. Tản văn vừa đậm chất trữ tình, vừa mang bản chất tự sự. Mỗi tác phẩm là một cách diễn giải về “Thế giới như tôi thấy”, đồng thời cũng là một tấm gương phản chiếu cấu trúc nội tâm của nhà văn.
Xem thêm
Cảm nhận thơ Trần Xuân Hóa từ một góc nhìn đa cảm
Bài viết của nhà thơ CCB Trần Trí Thông
Xem thêm
Hơi thở đất quê trong miền nhớ của Huỳnh Khang
Chủ đề và nội dung trong MIỀN NHỚ xoay quanh ký ức quê hương, tình mẫu tử, nghĩa làng nghĩa xóm, thiên nhiên, tình yêu đôi lứa, nỗi buồn mất mát, cùng những triết lý đời thường.
Xem thêm
Tiếng văn từ phía “bạn nguồn”
Nguyễn Minh Sơn, Hồ Tấn Vũ và Nguyễn Thị Như Hiền là ba cây bút thuộc thế hệ 7X và 9X
Xem thêm
Về trên dặm trường thiên lý “Miền Ô châu”
Tiếp theo các cuốn tản văn Sông vẫn chảy đời sông (NXB Thanh Niên 2023), Bốn mùa thương nhớ (NXB Thanh Niên 2024), nhà văn Nguyễn Linh Giang vừa ra mắt cuốn tản văn mới: “Miền Ô Châu” (NXB Phụ Nữ Việt Nam, 2025).
Xem thêm
Thơ ca chào đón Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2/9
Cách mạng tháng Tám - 1945 thành công, mở ra trang sử vàng chói lọi cho dân tộc. Bác Hồ đọc “Tuyên ngôn độc lập”, khai sinh ra Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á được thành lập. Hai tiếng Việt Nam vang lên đầy phấn khởi, tự hào trên trường quốc tế, đã khơi nguồn, làm bừng dậy biết bao cảm hứng về thơ ca, nhạc, họa thật mới mẻ, mãnh liệt và sôi nổi, làm không khí văn nghệ đổi sắc thay da. Từ đây nền văn học của ta chỉ còn duy nhất một trào lưu là văn học cách mạng.
Xem thêm
Hồi hộp trước “phút bù giờ” của Minh Đan
Ngôn ngữ của Minh Đan đôi lúc không còn chỉ là ký tự để giải nghĩa, mà là vật liệu có tâm hồn – biết khít lại, giãn ra, để tạo hình tượng và âm thanh.
Xem thêm
Phát triển
Nội dung quyết định hình thức. Xét cả quá trình văn học lâu dài, các hình thức tác phẩm kế tiếp nhau xuất hiện, tác động vào nền văn học, góp phần tạo ra phát triển văn chương. Bài viết chỉ đề cập đến chủ đề này của cuốn sách.
Xem thêm
Vẻ đẹp tình người và nỗi niềm ưu tư trong thơ Phạm Nguyên Thạch
Một trong những cánh én đầu đàn của văn học An Giang - nhà thơ Phạm Nguyên Thạch, anh sinh năm 1948, hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, nguyên Phó Chủ tịch Hội Văn học Nghệ thuật An Giang và hiện là Chi hội trưởng Chi hội Nhà văn Việt Nam tỉnh An Giang. Anh sáng tác từ trước năm 1975. Từ đó đến nay, nhà thơ đã có những tác phẩm tạo tiếng vang được xuất bản: “Ngôi nhà lợp ngói âm dương” (Văn Nghệ AG, 1986); “Theo tình” (VNAG, 1994); “Gió” (NXB Trẻ, 1999); “Thị trấn đá” (VNAG, 2002); “Cỏ lá quẩn quanh” (VNAG, 2006); “Mưa ảo” (NXB Hội Nhà văn, 2019).
Xem thêm
Nghiên cứu truyện Nam Cao theo góc nhìn thi pháp
Bằng cách ghi nhận từ các bài nghiên cứu, lời giới thiệu, chắt lọc những ý kiến nho nhỏ, có khi chỉ một vài nhận xét liên quan, có thể đưa ra một cách nhìn về tình hình nghiên cứu truyện ngắn Nam Cao trên góc độ thi pháp học hiện đại.
Xem thêm
Nguyễn Thành Phong – Nhà thơ tài hoa trữ tình, quan chiêm ngoại vi và nội hàm tự sự luận cảm của thơ Việt Nam thời kỳ đổi mới
Trữ tình và tự sự là những khái niệm của thơ, ngoại diên và nội hàm là những khái niệm của logic học. Ngoại vi là một phần của ngoại diên chỉ các đối tượng có phạm vi nhất định và chỉ định. Trong thơ, nó là các địa danh, hoặc các nhân vật trữ tình, các không thời gian xác định, tạo nguồn cảm hứng. Ngoại vi nhỏ hơn ngoại diên. Nội hàm là nội dung thuộc tính bên trong cả chủ quan và khách quan của sự vật, hiện tượng. Trữ tình nói bằng cảm xúc, gắn với bộc lộ chủ thể. Tự sự kể lại, tả lại khách thể. Phàm lệ mấy câu để bài viết này đỡ cảm thấy gượng ép, mong được đồng cảm.
Xem thêm
Hãy sống như những người đã chết - Một nhan đề độc đáo
Lúc đi học, thầy cô từng bảo nhan đề là tên của tác phẩm, còn có cách gọi khác là đầu đề, là cái tít chung của một văn bản. Nhan đề (đầu đề) thường do người viết đặt ra - như người bố, người mẹ đặt tên cho đứa con của mình; nhưng cũng có khi do người khác (cán bộ biên tập) đặt hộ, hoặc đổi tên đi cho hay, cho phù hợp với chủ đề của tác phẩm.
Xem thêm
Inrasara: Tác phẩm văn chương, từ tốt & hay đến lớn
Tại tọa đàm cùng tên do Hội Nhà văn TPHCM tổ chức, nhà thơ – nhà phê bình Inrasara đã mang đến những luận điểm sắc sảo, giàu trải nghiệm, mở ra cách nhìn mới về sự cộng hưởng giữa sáng tác và tiếp nhận, để văn chương thực sự chạm tới và ở lại lâu dài trong lòng người đọc.
Xem thêm
Văn học Đổi mới, một cách nhận diện
Cho đến nay, cụm từ “Văn học Đổi mới đã được sử dụng khá rộng rãi. Từ trong nhà trường đến ngoài xã hội, từ báo chí đến các các cơ quan truyền hình, đài phát thanh, trong các bài nói chuyện hay phát biểu của các nhà sáng tác, phê bình văn học, nó được xuất hiện một cách tự nhiên giống như một thuật ngữ đã được định hình.
Xem thêm