TIN TỨC

Chữ Tâm trong thơ Hoàng Thạch

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2024-08-13 18:43:42
mail facebook google pos stwis
932 lượt xem

LÊ ĐÌNH HÒA

Macxim Gorky đã có một định nghĩa khái quát nhất về văn học: "Văn học là nhân học". Bởi lẽ đó con người luôn là trung tâm của văn học. Xưa nay chữ tâm đều được đặt lên hàng đầu trong xây dựng tính cách nhân vật.

Nhưng không phải dễ hình thành cốt cách của từng nhà văn, nhà thơ. Đọc hết gần 500 trang thơ của Hoàng Thạch, nổi lên cái đau đáu về chữ tâm. Nếu như Nguyễn Du tuyên bố "Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài" thì Hoàng Thạch là "chữ tâm bất biến sơn hà mênh mông". Anh trăn trở: "Bầu trời vẫn như xưa/ Mặt trăng không gian dối/ Ta sợ nơi thay đổi/ Là trái tim con người".


Tiến sĩ, bác sĩ, nhà thơ Hoàng Thạch

"Thay đổi" ở đây đó là sự tráo trở của đạo lý làm người. Ở con người đầy nội tâm như Hoàng Thạch, thơ anh giàu trí tưởng tượng. Chất lãng mạn, trữ tình luôn trong anh tạo nên dòng cảm xúc có lúc mãnh liệt nhưng lại nhẹ nhàng, nhỏ nhẹ trong thể hiện:  "Ta lăn lóc chìm nổi bến bờ/ Vượt qua vùng mộng ảo/ Đêm thao thức đêm dài vô tận/ Tình em gõ trái tim buồn". Chữ tâm trong anh. Đó là đạo làm người. Trong thơ ca mỗi người có một cách đi riêng. Ở Hoàng Thạch xuất phát từ đồng quê rồi lăn lộn chiến trường, rồi học hành thành đạt trở thành bác sỹ, tiến sĩ. Nếu về xã hội cuộc sống đã ở bậc trung lưu, vậy mà khi về thăm quê thắp nén nhang cho mẹ, anh nhớ: "Chỗ này mẹ ngồi vá áo/ Con kê ghế nhổ tóc sâu/ Tháng ba làm con nhớ lại/Ngâm hoa cho mẹ gội đầu" (Hoa bưởi).

Giữa hai trận đánh anh vẫn cưa cưa dũa dũa cái vỏ đạn làm cái cối giã trầu, cất đáy ba-lô để ngày chiến thắng về tặng mẹ: "Cối trầu mòn vẹt ai thay/ Con xin tặng cối trầu này mẹ ơi". Anh nặng nợ với làng quê: "Ta lặn lội bốn phương trời mưa nắng/ Bao vui buồn trĩu nặng quê ơi!... Bình yên rồi sau bao giông nổi/ Mà trái tim vẫn một lối đi về" (Vết thời gian).   Đến cái cổng làng xưa, ngày trở về như gặp lại người bạn: "Cổng làng tôi năm tháng cứ già thêm" (Xưa nay chưa thấy cảm xúc với cái cổng làng như vậy). Trở lại quê sau cái gì cũng làm cho anh rạo rực vui, buồn khó tả. Trên đường “lai hương” bao ký ức cứ ùa về: “Không biết bây giờ còn như ngày xưa/ Ấm nước chè xanh râm ran cả xóm/ Chuyện hến giắt chợ Cầu/ Chuyện mật đường chợ Trổ…” (Khe khẽ đông về). Rồi cái trăn trở nữa trong anh là chiến tranh đã cướp đi tuổi xuân của bao cô gái làng "suốt cái thời đàn bà đi đánh giặc: “…Bây giờ về cái xóm “không chồng”/Đọc từ những đôi mắt/ Tôi hiểu điều khát khao làm mẹ/ Mà vời vợi xa xôi (Sóng thức). Hoàng Thạch sung sướng, tâm đắc với làng quê anh nay đã có một ngôi trường khang trang mang tên một nhà văn - Đại tá Nguyễn Xuân Thiều (người con của làng anh). Tình đồng đội trong Hoàng Thạch rất sâu nặng. Bốn tập thơ anh viết từ năm 2005 đến 2014 đều có dấu ấn người lính. Trước hết vì anh đã là người lính, bác sỹ quân y từng tham gia trận mạc. Có trên chục bài thơ được anh gửi gắm đến những dấu chân người lính. Người đang trở về, người đã đi xa, sâu đậm nội tâm. Một bài thơ tự bạch của tác giả làm nhiệm vụ trong "Hầm mổ đêm giao thừa": "Cuộc phẫu thuật giữa hầm sâu/Đêm ba mươi tết/ Đạn cối xé ngang chân mày nát mất rồi!/ Nhưng trái tim còn đập/ Cuộc phẫu thuật diễn ra cấp tập/ Tao thắt lòng cắt cụt ... một chân Hưng" (Sóng thức).

Ngày hòa bình sống trong mọi niềm vui, anh tự nhủ: "Người ra đi đừng đi vào dĩ vãng/ Người ở lại xin đừng quên lãng/ Một thời trai trẻ chiến binh" (Vết thời gian).  Anh lại bỏ túi mấy đồng lương, cùng vợ ba-lô lên đường đi tìm mộ bạn. Rừng dày, suối thẳm. Đá dựng cheo leo. Chống gậy leo đèo vào trận địa cũ. Suốt mấy ngày có lúc mười giờ đêm chưa ra khỏi bìa rừng. Một đoạn thơ thật xúc động trong "Tiếng gọi giữa rừng" chuyến đi tìm mộ bác sĩ Nguyễn Ngọc Giới. Ta nghe như lời kêu van, như tiếng nấc thảm thiết khi mất mát người thân: "Tôi gào lên với cây/ Ta thét lên với suối/ Giới ơi! Anh đâu rồi?/ Anh đâu rồi! Giới ơi?" (Miền hoa dại và tôi).

Hòa bình nhưng vẫn còn tiếng súng. Kẻ cướp nước còn quanh quẩn đâu đây. Đất nước vẫn chưa trọn vẹn khi biển Đông còn sóng dữ. Hoàng Thạch viết: "Trái tim đau/ Khi nhắc đến Hoàng Sa/ Khi nhắc đến Trường Sa/ Khi nhắc đến Gạc-Ma"... (Sóng thức).

Mảng đề tình yêu với Hoàng Thạch cũng nặng nợ. Song ở cái tuổi đã làm ông nội, ông ngoại tình yêu chỉ là những hồi ức. Có người nói anh là người đa tình nhưng tôi bảo anh là người đa cảm. Cái tâm của anh trong tình yêu xuất phát từ đó. Tình yêu trong anh tế nhị, kín đáo, sâu nặng tâm tư: "Chưa một lần cầm tay/ Một nụ hôn chưa dám...". Thế mà: "Nét mực xưa vàng ố/ Dấu vào góc nho nhỏ/ Trong trái tim mỗi đứa còn nhau..." và: “Có mối tình nào trong veo chưa lời kết/ Để lỡ chuyện tình/ Bến cũ đò xưa!" (Sóng thức) Để bây giờ:  "Những đêm dài khó ngủ/ Bâng khuâng nhớ buổi đào hoa" (Miền hoa dại và tôi).

Hoàng Thạch thích làm thơ từ thời sinh viên. Nhưng chỉ hoàn thành bốn tác phẩm trọn vẹn từ ngày được từ giã đơn vị Quân y Bộ Tổng tư lệnh.  Đọc thơ anh ta thấy rõ từ "Khe khẽ đông về", tập thơ đầu tay rồi "Vết thời gian", "Miền hoa dại và tôi" đến tập thứ tư "Sóng thức", độ chín trong thơ anh càng sắc nét về ngôn từ và sâu sắc về tứ thơ. Mong anh từ chữ tâm mà tạo nguồn thẩm mỹ mới. Ngọc càng mài càng sáng. Thơ anh sẽ được lòng bạn đọc.



Nhà thơ HOÀNG THẠCH

Bút danh: Hoàng Thạch, Đá Vàng

Quê quán: Hà Tĩnh. Hiện sống tại TP. HCM.

Nghề nghiệp: Tiến sỹ, Bác sỹ.

Hội viên Hội Nhà văn TP. Hồ Chí Minh.

Chủ nhiệm CLB Thơ Ca Hội Cựu Giáo chức TP. HCM

ĐT: 0908 467 769, Mail: drhoang2009@gmail.com

Tác phẩm đã xuất bản:

  • Khe khẽ đông về (thơ, NXB Văn nghệ, 2007)
  • Vết thời gian (thơ, NXB Văn nghệ, 2010)
  • Miền Hoa dại và Tôi (thơ, NXB Hội Nhà văn, 2012)
  • Sóng thức (thơ, NXB Hội Nhà văn, 2014)

Bài viết liên quan

Xem thêm
Thơ Thảo Vi và cội nguồn ánh sáng yêu thương
Giọng thơ trầm bổng, khoan nhặt. Thi ảnh chân phương mà thật gợi cảm và tinh tế. Có lúc ta cảm nhận được những man mác ngậm ngùi, nỗi hối tiếc đan xen niềm hoài vọng, mơ tưởng. Thơ Thảo Vi có sự hòa phối các biện pháp nghệ thuật với dụng ý làm nổi bật nội dung, tư tưởng cốt lõi. Đó là tâm thức cội nguồn, chạm đến đỉnh điểm của tình cảm thương yêu, thấu hiểu với cõi lòng của đấng sinh thành. Thơ Thảo Vi là tiếng gọi đầy trìu mến, sâu lắng dư âm từ những thi hứng đậm cảm xúc trữ tình.
Xem thêm
Những chấn thương nội tâm trong “Mã độc báo thù”
“Mã độc báo thù” là tiểu thuyết mới nhất của nhà văn Nguyễn Văn Học, vừa được NXB Công an nhân dân phát hành. Đây là một trong vài tiểu thuyết đầu tiên viết về đề tài tội phạm công nghệ cao ở Việt Nam. Tuy nhiên, nhà văn không chỉ nói về tội phạm, mà còn xoáy sâu về những tổn thương của con người trong thời đại số.
Xem thêm
Huệ Triệu, một nhà giáo, nhà thơ
Cả hai tư cách, nhà giáo và thi nhân, Huệ Triệu là một gương mặt sáng giá.
Xem thêm
Chúng ta có thực sự tự do trong chính tác phẩm của mình?
Văn học, cũng như các lĩnh vực khác, theo tôi đều có những dòng chảy nối tiếp âm thầm, tạo nên nhiều sự giao thoa, đan cài giữa cũ và mới, quen thuộc và khác lạ
Xem thêm
Biểu tượng nước trong thơ Vũ Mai Phong
“Nước” trong văn hóa phương Đông là thủy – khởi nguyên của sự sống, mang phẩm chất mềm mại – bền bỉ – linh hoạt biến hóa của triết lý nhu thắng cương. Trong thi ca Việt Nam, “nước” gắn với dòng chảy thời gian tâm thức dân tộc, văn hóa lịch sử và tâm linh
Xem thêm
“Hư Thực” của Phùng Văn Khai: Tiếng nói Hậu Hiện Đại và Dấu Ấn Văn Chương Đương Đại Việt Nam
Văn học luôn là tấm gương phản chiếu xã hội, là nơi ghi lại những biến chuyển của thời đại và tâm hồn con người. Trong lịch sử văn học Việt Nam, mỗi thời kỳ đều có những tác phẩm tiêu biểu, vừa mang dấu ấn thời đại, vừa để lại những giá trị trường tồn cho đời sau. Tuy nhiên, khi thế giới bước vào kỷ nguyên toàn cầu hóa và đa dạng văn hóa, các giá trị truyền thống gặp nhiều thử thách. Đặc biệt, với sự bùng nổ thông tin và biến động xã hội, con người ngày nay không còn sống trong một thế giới đơn giản, rạch ròi mà là một thế giới đa chiều, hỗn loạn và khó đoán định.
Xem thêm
Thế giới kỳ vĩ của thơ
Thế giới của thơ, với thi sỹ là bến đậu của tâm hồn, là cánh đồng gieo trồng cảm xúc và chữ nghĩa, là bầu trời để cất cánh ước mơ và thả hồn phiêu lãng; với đọc giả là nhịp cầu kết nối con tim, là dòng sông soi rọi, tắm táp tâm hồn để được nâng đỡ và bay cao.
Xem thêm
Văn học dịch và những tác động đến đời sống văn học Việt Nam những năm đầu thế kỉ XXI
Nói đến văn học dịch những thập niên đầu thế kỉ 21, có lẽ, trước hết, phải nhắc tới việc rất nhiều tác phẩm thuộc hàng “tinh hoa”, “kinh điển”, hay các tác phẩm đạt được các giải thưởng văn chương danh giá (Nobel, Pulitzer, Man Booker...) đã được chú trọng chuyển ngữ trong giai đoạn này.
Xem thêm
Vài nhận thức về trường ca “Lò mổ” của Nguyễn Quang Thiều
Tôi hỏi nhiều nhà thơ và văn, rằng họ thấy trường ca “Lò mổ” của Nguyễn Quang Thiều như thế nào và đặng họ có thể khai sáng chút gì cho tôi nhưng không ai có câu trả lời khiến tôi thỏa mãn, đa phần đều nói “Ái chà, Lò mổ của Nguyễn Quang Thiều hả, bọn tớ cũng chỉ nghe dư luận ồn ào trên mạng thôi chứ có sách đọc đâu!”.
Xem thêm
Nguyễn Duy – Vịn thi ca vượt thác thời gian...
Bài đăng Văn nghệ Công an số ra ngày 13/11/2025
Xem thêm
Thơ có nghĩa là “thương” - Tiếng thơ Đặng Nguyệt Anh
Một bài viết thấm đẫm nhân tình của Tuấn Trần – người trẻ viết về Đặng Nguyệt Anh, “ngoại” của thơ và của lòng nhân hậu. Từ câu chữ đến cảm xúc, bài viết là một lời tri ân chân thành dành cho thế hệ cầm bút đã “đem trái tim yêu thương gánh ghì số phận chung”, để hôm nay, thơ của họ vẫn còn làm dịu đi những cơn bão đời người.
Xem thêm
Chất liệu dân gian trong ca khúc Việt Nam hiện đại
Bài viết này xin phép được tiếp tục trình bày một xu hướng vận động chủ đạo của âm nhạc dân gian truyền thống Việt Nam sau 1975: dân tộc hóa ca khúc Việt Nam.
Xem thêm
Đọc thơ Thiên Di
Dường như là một giấc mơ chậm rãi, dịu dàng, vẫn đọng lại dư âm của cô đơn, khao khát và hy vọng. Tác giả sử dụng nhịp điệu từ những chi tiết nhỏ – mưa rả rích, ánh mắt, cánh hoa – để cảm xúc lan tỏa, khiến độc giả không cần lạm dụng từ ngữ hoa mỹ vẫn cảm nhận được sự mềm mại, tinh tế và ám ảnh.
Xem thêm
Nguyễn Khuyến “thâm nho” giữa đời thường
Nguyễn Khuyến (Nguyễn Thắng, 1835-1909) hiệu Quế Sơn, tự Miễn Chi. Người đời gọi ông là Tam Nguyên Yên Đổ, do lấy địa danh là xã (làng) Yên Đổ (huyện Bình Lục, Hà Nam trước đây) ghép với việc ông thi đỗ đầu (giải nguyên) cả ba kỳ thi hương, hội và đình. Nhưng việc này thì chính Nguyễn Khuyến cũng chẳng tự hào cho lắm, ông viết: “Học chẳng có rằng hay chi cả/ Cưỡi đầu người kể đã ba phen”.
Xem thêm
Triệu Kim Loan - Khúc độc thoại xanh của hồng gai
Bài viết sâu sắc dưới đây của nhà văn Kao Sơn dành cho buổi ra mắt sách Chữ gọi mùa trăng - Tập thơ thứ 7 đánh dấu chặng đường chín muồi của nhà thơ Triệu Kim Loan
Xem thêm
Quan niệm của Xuân Diệu về thơ từ những câu chuyện đời thường
Sinh thời, theo thống kê của Mã Giáng Lân, thi sĩ Xuân Diệu đã có hơn 500 buổi bình thơ trước công chúng. Đây là hoạt động nghệ thuật mà hiếm có nhà thơ, nhà văn nào ở Việt Nam và cả trên thế giới có thể sánh được. Không chỉ trong nước, chính “ông Hoàng thơ tình” Xuân Diệu đã có công quảng bá thi ca Việt Nam ra thế giới, giúp độc giả nước ngoài biết đến Nguyễn Du, Nguyễn Trãi, Tú Xương, Hồ Xuân Hương…
Xem thêm
Hành trình nước - Bước chuyển mình của kẻ sĩ chu du
Với Hành trình nước, Vũ Mai Phong cho phép người đọc thám hiểm một cõi tâm hồn mình, để chiêm nghiệm, để cảm nhận sự chuyển hóa kỳ diệu của nước - từ giọt sương nhỏ bé hóa thành đại dương bao la, từ tâm hồn cá nhân hòa vào tính thiêng của Tổ quốc.
Xem thêm
Gió Phương Nam 4 - Những lời thơ chân thực
Trang thơ “Gió Phương Nam 4” dễ dàng gợi lại những bước chân đồng đội năm xưa – bước chân thời chiến, bước chân thời bình, mang theo niềm vui, nỗi nhớ và cả những nỗi buồn sâu lắng.
Xem thêm
“Bến nước kinh Cùng” - Bến đợi của ký ức và tình người…
“Giữa bao vội vã, còn mấy ai lắng lòng với những phận người quê mộc mạc?” - Chính từ trăn trở ấy, “Bến nước kinh Cùng” của nhà văn Nguyễn Lập Em được tìm đến như một lời nhắc nhở tha thiết, đưa ta trở về với đất và người Nam Bộ, nơi tình quê và tình người thấm đẫm trong từng trang viết.
Xem thêm