TIN TỨC

Thơ chọn Đặng Nguyệt Anh

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2021-10-14 19:31:47
mail facebook google pos stwis
2870 lượt xem

TS. HOÀNG THỊ THU THỦY

Tôi nhận được tập thơ chọn 101 bài của nữ thi sĩ Đặng Nguyệt Anh trong những ngày cả nước thực hiện lệnh “giãn cách xã hội” bởi đại dịch Covid-19, một đại dịch chưa từng có, đã và đang xảy ra trên toàn cầu. Cầm tập sách, cảm xúc thật trân quý, bởi may mắn là mùa hè năm 2019, tôi gặp chị tại Tp. Hồ Chí Minh trong thời khắc tuy vội vã mà chân tình, thương mến. Tôi quyến luyến chị bởi sự nhẹ nhàng, mềm mại, chân tình và tôi đã từng viết về thơ chị “Nét duyên thầm trong lục bát tôi”, đúng là ở chị có nét duyên thầm khiến người khác lưu luyến.

Người con gái sông Ninh đã từng định danh, định tính bằng thơ “Ngày đi xa/ ta gửi lại vầng trăng dưới đáy sông Ninh/ gửi lại nửa đời con gái/ gửi lại dấu chân ta thơ dại/ trên bãi cói phù sa/ con cáy, con còng chui vào làm tổ” (Sông Ninh); người con gái ấy dám băng mình vào Trường Sơn, vượt lên bao gian khổ: “Ngày ấy/ Trường Sơn… bàn chân nhỏ đạp bằng đá núi/ Ơi Trường Sơn diệu vợi” để rồi “Cơn sốt rừng theo em về phố” (Ngày ấy); chị đã sinh con ngay nơi chiến trường bom đạn “Rừng miền Đông/ là nơi chôn rau cắt rốn của con/ là trang lý lịch đầu đời của con” (Rừng miền Đông và con gái tôi)… Không thể tin nổi, người con gái liễu yếu đào tơ, cô giáo dạy văn thân thương ấy dám vượt suối băng rừng tham gia chiến trận, cùng đồng hành với người chồng chiến sĩ, cùng nếm trải những gian khó, hiểm nguy nơi tuyến đầu, người con gái ấy có tâm hồn thơ dạt dào, ghi lại những cảm xúc rung động của lòng mình trong những đêm thao thức, những ngày hành quân mệt nhọc. Thơ như là nơi trao gửi, chứng kiến; là cứu cánh để nuôi dưỡng nghị lực, và đó là nghị lực phi thường, bởi chị đã can trường đối mặt cùng bom đạn. Tâm hồn người con gái ấy thật đẹp: “mẹ ơi lòng dạ bồn chồn/ phía sau đỉnh núi/ trăng non lên rồi/ con nhớ không nguôi/ mái trường xưa lưu luyến/ các em nhỏ nhìn con trìu mến/ mắt đen tròn long lanh” (Đêm Trường Sơn).

Tôi đã từng xúc động khi đọc bức thư của chị Dương Thị Xuân Quý gửi cho con khi ra chiến trường, cũng từng đọc “Bài thơ về hạnh phúc” của nhà thơ Bùi Minh Quốc (Dương Hương Ly), nên càng thấu hiểu xúc cảm thơ của chị Đặng Nguyệt Anh trong những năm tháng ở chiến trường.

“Nhà văn phải đau ở đâu đấy viết mới hay”, với nữ thi sĩ Đặng Nguyệt Anh, không phải là “đau” mà là trải nghiệm, trải nghiệm ở chiến trường khốc liệt đã giúp chị hiểu ra nhiều điều, và chắc chắn khi trở về đứng trên bục giảng dạy văn, chị sẽ dạy cho học trò thấu cảm những áng văn chương giàu giá trị nhân văn. “Em đã qua một thời bão lửa/ lớn lên cùng đất nước chiến tranh/ ai cũng nghe như Tổ quốc gọi tên mình: đánh Mỹ/ tuổi trẻ ra đi hồn nhiên giản dị/ em đã đi dọc Trường Sơn một trăm ngày đêm/ mới hiểu câu ca: chân cứng/ đá mềm” (Thơ viết tuổi 45).

Tôi đã từng viết: “Thi phẩm “Lục bát tôi” đã định hình, định danh cho một phong cách thơ của Đặng Nguyệt Anh, nữ tính, dịu dàng, đằm thắm, mang nét duyên thầm của người con ở quê hương Nam Định – mảnh đất khoa bảng, mảnh đất có nhiều thi nhân nổi tiếng xưa nay”( ).

Bao giờ cho đến ngày xưa/ để cho người ấy đón đưa tôi về/ cơn mưa run rẩy màu hè/ đan thành kỷ niệm chở che hai người/ Thế rồi năm tháng dần trôi/ Và tôi cứ lớn bên người. Hồn nhiên/ biết đâu là nợ là duyên/ nào ai có dám hẹn nguyền gì đâu/ vậy mà lại dở dang nhau/ để heo may thổi bạc đầu mùa thu/ người về ôm kỉ niệm xưa/ lục bình ai thả bơ vơ giữa dòng/ Thế rồi chết một mùa đông/ tôi đi lấy chồng. Người ấy ngẩn ngơ/ bao giờ lại đến ngày xưa...” (Bao giờ lại đến ngày xưa).

Những vần thơ lục bát tài hoa của chị như níu kéo tâm hồn người đọc về với những vần thơ lục bát trong ca dao, như đưa tâm hồn mình trở về với hiện tại, rồi tiếc nuối, rồi day dứt, rồi tơ tưởng, rồi nhớ nhung và rồi khao khát bởi “Và tôi cứ lớn bên người. Hồn nhiên”, cũng bởi “tôi đi lấy chồng. Người ấy ngẩn ngơ”...

Tôi rất thích cái chất dân gian trong tứ thơ “Khúc hát sông Cầu” của chị: “Vôi nồng vẫn nhớ trầu cay/ Để cho anh tiếc cái ngày còn không/ Lơ thơ nước chảy đôi dòng/ Bắc cầu dải yếm/ Qua sông/ đưa người”. Ca dao có câu “Ước gì sông rộng một gang, bắc cầu dải yếm để chàng sang chơi”, nữ thi sĩ đã làm mới tín hiệu thẩm mĩ về “cây cầu, dòng sông”, về lời hát trong “Quan họ Bắc Ninh”, nhờ thế mà bài thơ mượt mà, níu kéo, trôi chảy trong cảm xúc người đọc. Sông Ninh đi vào thơ chị như là cố tri: “Ngày đi sông hãy còn trinh/ nay về hát khúc huê tình tặng sông... Xa xôi mấy cũng tìm về/ để thương con sóng... vỗ về sông ơi” (Sông Ninh ơi). Ra chiến trường, nhớ mẹ, nhớ quê là nhớ sông. Sống xa quê, mỗi khi cảm xúc dâng trào lại nhớ sông, đó là dòng cảm xúc ký ức đẹp trong thơ chị.

Là thơ chọn, là tuyển tập, nên có nhiều bài thơ ghi dấu những nơi chị từng đến và gửi lại trong thơ cảm xúc của mình. Chỉ dừng chân hai ngày với Huế mà chị có những câu thơ mang hồn vía của Huế, cứ như là Huế có trong tâm thức chị tự bao giờ: “Thướt tha áo tím qua cầu/ Huế trong huyền thoại sắc màu lung linh/ ngàn xưa đã tạc dáng hình/ Hương Giang soi bóng ngự Bình thông reo/ Huế đằm thắm biết bao nhiêu/ Huế kiêu hãnh những vương triều cố đô/ thủy chung là Huế đợi chờ/ Huế bình thản trước bốn mùa gió mưa” (Với Huế). Đọc bài thơ này, khiến tôi suy nghĩ về hành trình sáng tạo của nhà thơ, thơ ca không phải có cảm xúc bất chợt là viết, mà phải có độ chín trong cảm xúc, đặc biệt là phải tìm cho được tứ thơ, với tứ thơ “với Huế”, thì không thể chỉ là thi ảnh thoáng qua trong hai ngày, mà thi ảnh và ngữ liệu đó đã đằm sâu trong tâm tưởng, để rồi khi viết ra nó như là máu thịt, như là lắng sâu, như là suy tưởng, có như thế thì độc giả sẽ neo đậu trong trí nhớ về cái nhìn của thi nhân về một vùng đất văn hóa, vùng đất đã khiến bao tao nhân mặc khách lưu luyến khi đến Huế.

Chị đi được nhiều nơi trong nước và trên thế giới, đó cũng là may mắn của chị, không ai dễ gì có những chuyến đi hạnh phúc như chị. Đọc những bài thơ viết về những nơi nữ thi sĩ từng đi qua, mới thấy đi du lịch cùng vốn văn chương từ trong các bộ tiểu thuyết đồ sộ của văn học thế giới, mà chiêm ngưỡng và trải nghiệm quả là hạnh phúc lớn lao của con người. Khi đọc bài thơ “Vạn Lý Trường Thành”: “Ta đâu mơ hảo hán/ Vẫn lên Vạn Lý Trường Thành/ Để được gần trời xanh, mây trắng/ Đón gió bốn phương lồng lộng thổi về/ Để chiêm ngưỡng công trình vạn kỷ”, bất giác tôi như gặp được trong thơ chị cái chí của người quân tử, cái chí mà người xưa từng viết: “Hữu thì trực thướng cô phong đính/ Trường khiếu nhất thanh hàn thái hư” (Ngôn hoài - Không Lộ thiền sư) – (Có khi xông thẳng lên đầu núi/ Một tiếng kêu vang lạnh cả trời – bản dịch Kiều Thu Hoạch).

Nữ thi sĩ dọc ngang muôn dặm trên đường đời, viết nên bao nhiêu vần thơ nặng tình với những người thương yêu, với quê hương, với bè bạn, cũng có lúc nhìn thẳm sâu vào cái tôi phận nữ: “Người đàn bà/ lặng im/ tựa vào đêm/ mông lung hoang tưởng/ nghe chập chờn/ tiếng thời gian vọng về/ nàng là ai?/ Có phải ngày xưa/ nàng là trinh nữ? Có phải ngày xưa/ nàng là quận chúa? Bao nhiêu hoàng tử/ quỳ dưới chân nàng!/ Đêm bàng hoàng/ Người đàn bà choáng váng/ Nỗi cô đơn vực nàng dậy/ Người đàn bà im lặng/ tựa vào đêm” (Người đàn bà). Những câu hỏi tu từ nối tiếp nhau bộc lộ lòng trắc ẩn, sự cảm thông trong cái nhìn thi sĩ.

Với nhà thơ Đặng Nguyệt Anh, thơ sáng tác theo thể lục bát vẫn là quen thuộc, bởi có những câu thơ của chị lênh đênh cùng năm tháng, cùng biết bao tuyển tập rồi trở về với chị trong vẹn nguyên một thi tứ: “Nếu anh biết được…/ chiều nay/ gió từ đâu thổi/ để gầy nhành mai/ Một đời/ gió có vì ai/ xô nghiêng chiều tím/ ra ngoài hoàng hôn” (Nếu anh biết được...). Đặng Nguyệt Anh đã làm mới câu thơ lục bát bởi nhịp điệu biến thiên trong mỗi bài thơ, nhờ thế mà sáng tạo của chị luôn mới, không nhàm chán, vẫn hiện đại bởi cái nhịp điệu vượt thoát đó: “Từ em/ gọi nguyệt về trăng/ là khi tôi đã gọi rằm/ sang đêm/ Hoang sơ/ một lối cỏ mềm/ cháy lên em… thắm sáng miền nhân gian” (Cháy lên em…)

Thơ là hình thái nghệ thuật cao quý và tinh vi, nữ thi sĩ Đặng Nguyệt Anh đã làm tròn sứ mệnh cao cả của mình với thơ, bởi chị có một hành trình thơ dày dặn, với những tác phẩm thơ để lại nhiều ấn tượng với người đọc. 101 bài thơ chọn cũng là cách ghi nhớ và lưu trữ hành trình sáng tạo không ngừng nghỉ của chị, ngoài những cố gắng vượt thoát, làm mới thơ ca trong thể loại, nhịp điệu, ngôn ngữ, cấu tứ; thơ chị còn bộc lộ tài thơ qua những vần thơ dung dị, nhẹ nhàng như nét dịu dàng dễ thương của người con gái kinh Bắc: “Tôi còn một chút hồng hoang/ thì xin em cứ địa đàng trăm năm/ Tôi còn một chút xa xăm/ xin em đừng khép mình trong ngục tù/ Tôi còn một bến hoang vu/ lênh đênh tôi kẻ lãng du giữa đời/ Tôi còn một chút tôi thôi/ xin em gìn giữ luân hồi có nhau/ Tím xưa dù có bạc nhàu/ đường xưa dù có lỗi câu hẹn thề/ Tôi còn một trái tim mê/ cõi em xin được đi về ngàn năm” (Tôi còn).

Huế ngày 14/4/2020
TS. H.T.T.T.

Bài viết liên quan

Xem thêm
Những chấn thương nội tâm trong “Mã độc báo thù”
“Mã độc báo thù” là tiểu thuyết mới nhất của nhà văn Nguyễn Văn Học, vừa được NXB Công an nhân dân phát hành. Đây là một trong vài tiểu thuyết đầu tiên viết về đề tài tội phạm công nghệ cao ở Việt Nam. Tuy nhiên, nhà văn không chỉ nói về tội phạm, mà còn xoáy sâu về những tổn thương của con người trong thời đại số.
Xem thêm
Huệ Triệu, một nhà giáo, nhà thơ
Cả hai tư cách, nhà giáo và thi nhân, Huệ Triệu là một gương mặt sáng giá.
Xem thêm
Chúng ta có thực sự tự do trong chính tác phẩm của mình?
Văn học, cũng như các lĩnh vực khác, theo tôi đều có những dòng chảy nối tiếp âm thầm, tạo nên nhiều sự giao thoa, đan cài giữa cũ và mới, quen thuộc và khác lạ
Xem thêm
Biểu tượng nước trong thơ Vũ Mai Phong
“Nước” trong văn hóa phương Đông là thủy – khởi nguyên của sự sống, mang phẩm chất mềm mại – bền bỉ – linh hoạt biến hóa của triết lý nhu thắng cương. Trong thi ca Việt Nam, “nước” gắn với dòng chảy thời gian tâm thức dân tộc, văn hóa lịch sử và tâm linh
Xem thêm
“Hư Thực” của Phùng Văn Khai: Tiếng nói Hậu Hiện Đại và Dấu Ấn Văn Chương Đương Đại Việt Nam
Văn học luôn là tấm gương phản chiếu xã hội, là nơi ghi lại những biến chuyển của thời đại và tâm hồn con người. Trong lịch sử văn học Việt Nam, mỗi thời kỳ đều có những tác phẩm tiêu biểu, vừa mang dấu ấn thời đại, vừa để lại những giá trị trường tồn cho đời sau. Tuy nhiên, khi thế giới bước vào kỷ nguyên toàn cầu hóa và đa dạng văn hóa, các giá trị truyền thống gặp nhiều thử thách. Đặc biệt, với sự bùng nổ thông tin và biến động xã hội, con người ngày nay không còn sống trong một thế giới đơn giản, rạch ròi mà là một thế giới đa chiều, hỗn loạn và khó đoán định.
Xem thêm
Thế giới kỳ vĩ của thơ
Thế giới của thơ, với thi sỹ là bến đậu của tâm hồn, là cánh đồng gieo trồng cảm xúc và chữ nghĩa, là bầu trời để cất cánh ước mơ và thả hồn phiêu lãng; với đọc giả là nhịp cầu kết nối con tim, là dòng sông soi rọi, tắm táp tâm hồn để được nâng đỡ và bay cao.
Xem thêm
Văn học dịch và những tác động đến đời sống văn học Việt Nam những năm đầu thế kỉ XXI
Nói đến văn học dịch những thập niên đầu thế kỉ 21, có lẽ, trước hết, phải nhắc tới việc rất nhiều tác phẩm thuộc hàng “tinh hoa”, “kinh điển”, hay các tác phẩm đạt được các giải thưởng văn chương danh giá (Nobel, Pulitzer, Man Booker...) đã được chú trọng chuyển ngữ trong giai đoạn này.
Xem thêm
Vài nhận thức về trường ca “Lò mổ” của Nguyễn Quang Thiều
Tôi hỏi nhiều nhà thơ và văn, rằng họ thấy trường ca “Lò mổ” của Nguyễn Quang Thiều như thế nào và đặng họ có thể khai sáng chút gì cho tôi nhưng không ai có câu trả lời khiến tôi thỏa mãn, đa phần đều nói “Ái chà, Lò mổ của Nguyễn Quang Thiều hả, bọn tớ cũng chỉ nghe dư luận ồn ào trên mạng thôi chứ có sách đọc đâu!”.
Xem thêm
Nguyễn Duy – Vịn thi ca vượt thác thời gian...
Bài đăng Văn nghệ Công an số ra ngày 13/11/2025
Xem thêm
Thơ có nghĩa là “thương” - Tiếng thơ Đặng Nguyệt Anh
Một bài viết thấm đẫm nhân tình của Tuấn Trần – người trẻ viết về Đặng Nguyệt Anh, “ngoại” của thơ và của lòng nhân hậu. Từ câu chữ đến cảm xúc, bài viết là một lời tri ân chân thành dành cho thế hệ cầm bút đã “đem trái tim yêu thương gánh ghì số phận chung”, để hôm nay, thơ của họ vẫn còn làm dịu đi những cơn bão đời người.
Xem thêm
Chất liệu dân gian trong ca khúc Việt Nam hiện đại
Bài viết này xin phép được tiếp tục trình bày một xu hướng vận động chủ đạo của âm nhạc dân gian truyền thống Việt Nam sau 1975: dân tộc hóa ca khúc Việt Nam.
Xem thêm
Đọc thơ Thiên Di
Dường như là một giấc mơ chậm rãi, dịu dàng, vẫn đọng lại dư âm của cô đơn, khao khát và hy vọng. Tác giả sử dụng nhịp điệu từ những chi tiết nhỏ – mưa rả rích, ánh mắt, cánh hoa – để cảm xúc lan tỏa, khiến độc giả không cần lạm dụng từ ngữ hoa mỹ vẫn cảm nhận được sự mềm mại, tinh tế và ám ảnh.
Xem thêm
Nguyễn Khuyến “thâm nho” giữa đời thường
Nguyễn Khuyến (Nguyễn Thắng, 1835-1909) hiệu Quế Sơn, tự Miễn Chi. Người đời gọi ông là Tam Nguyên Yên Đổ, do lấy địa danh là xã (làng) Yên Đổ (huyện Bình Lục, Hà Nam trước đây) ghép với việc ông thi đỗ đầu (giải nguyên) cả ba kỳ thi hương, hội và đình. Nhưng việc này thì chính Nguyễn Khuyến cũng chẳng tự hào cho lắm, ông viết: “Học chẳng có rằng hay chi cả/ Cưỡi đầu người kể đã ba phen”.
Xem thêm
Triệu Kim Loan - Khúc độc thoại xanh của hồng gai
Bài viết sâu sắc dưới đây của nhà văn Kao Sơn dành cho buổi ra mắt sách Chữ gọi mùa trăng - Tập thơ thứ 7 đánh dấu chặng đường chín muồi của nhà thơ Triệu Kim Loan
Xem thêm
Quan niệm của Xuân Diệu về thơ từ những câu chuyện đời thường
Sinh thời, theo thống kê của Mã Giáng Lân, thi sĩ Xuân Diệu đã có hơn 500 buổi bình thơ trước công chúng. Đây là hoạt động nghệ thuật mà hiếm có nhà thơ, nhà văn nào ở Việt Nam và cả trên thế giới có thể sánh được. Không chỉ trong nước, chính “ông Hoàng thơ tình” Xuân Diệu đã có công quảng bá thi ca Việt Nam ra thế giới, giúp độc giả nước ngoài biết đến Nguyễn Du, Nguyễn Trãi, Tú Xương, Hồ Xuân Hương…
Xem thêm
Hành trình nước - Bước chuyển mình của kẻ sĩ chu du
Với Hành trình nước, Vũ Mai Phong cho phép người đọc thám hiểm một cõi tâm hồn mình, để chiêm nghiệm, để cảm nhận sự chuyển hóa kỳ diệu của nước - từ giọt sương nhỏ bé hóa thành đại dương bao la, từ tâm hồn cá nhân hòa vào tính thiêng của Tổ quốc.
Xem thêm
Gió Phương Nam 4 - Những lời thơ chân thực
Trang thơ “Gió Phương Nam 4” dễ dàng gợi lại những bước chân đồng đội năm xưa – bước chân thời chiến, bước chân thời bình, mang theo niềm vui, nỗi nhớ và cả những nỗi buồn sâu lắng.
Xem thêm
“Bến nước kinh Cùng” - Bến đợi của ký ức và tình người…
“Giữa bao vội vã, còn mấy ai lắng lòng với những phận người quê mộc mạc?” - Chính từ trăn trở ấy, “Bến nước kinh Cùng” của nhà văn Nguyễn Lập Em được tìm đến như một lời nhắc nhở tha thiết, đưa ta trở về với đất và người Nam Bộ, nơi tình quê và tình người thấm đẫm trong từng trang viết.
Xem thêm
Người thơ xứ Quảng: “Ảo hương lãng đãng bên trời cũ”
Nhà thơ Xuân Trường - tên thật Nguyễn Trường - là một tâm hồn phiêu bạt. Ông sinh ngày 12/12/1949 (theo giấy khai sinh) nhưng thực tế là năm 1945 (tuổi Ất Dậu), tại xã Đại Phong, huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam.
Xem thêm