TIN TỨC

Thơ chọn Đặng Nguyệt Anh

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2021-10-15 17:50:53
mail facebook google pos stwis
1955 lượt xem

TS. HOÀNG THỊ THU THỦY

Tôi nhận được tập thơ chọn 101 bài của nữ thi sĩ Đặng Nguyệt Anh trong những ngày cả nước thực hiện lệnh “giãn cách xã hội” bởi đại dịch Covid-19, một đại dịch chưa từng có, đã và đang xảy ra trên toàn cầu. Cầm tập sách, cảm xúc thật trân quý, bởi may mắn là mùa hè năm 2019, tôi gặp chị tại Tp. Hồ Chí Minh trong thời khắc tuy vội vã mà chân tình, thương mến. Tôi quyến luyến chị bởi sự nhẹ nhàng, mềm mại, chân tình và tôi đã từng viết về thơ chị “Nét duyên thầm trong lục bát tôi”, đúng là ở chị có nét duyên thầm khiến người khác lưu luyến.

Người con gái sông Ninh đã từng định danh, định tính bằng thơ “Ngày đi xa/ ta gửi lại vầng trăng dưới đáy sông Ninh/ gửi lại nửa đời con gái/ gửi lại dấu chân ta thơ dại/ trên bãi cói phù sa/ con cáy, con còng chui vào làm tổ” (Sông Ninh); người con gái ấy dám băng mình vào Trường Sơn, vượt lên bao gian khổ: “Ngày ấy/ Trường Sơn… bàn chân nhỏ đạp bằng đá núi/ Ơi Trường Sơn diệu vợi” để rồi “Cơn sốt rừng theo em về phố” (Ngày ấy); chị đã sinh con ngay nơi chiến trường bom đạn “Rừng miền Đông/ là nơi chôn rau cắt rốn của con/ là trang lý lịch đầu đời của con” (Rừng miền Đông và con gái tôi)… Không thể tin nổi, người con gái liễu yếu đào tơ, cô giáo dạy văn thân thương ấy dám vượt suối băng rừng tham gia chiến trận, cùng đồng hành với người chồng chiến sĩ, cùng nếm trải những gian khó, hiểm nguy nơi tuyến đầu, người con gái ấy có tâm hồn thơ dạt dào, ghi lại những cảm xúc rung động của lòng mình trong những đêm thao thức, những ngày hành quân mệt nhọc. Thơ như là nơi trao gửi, chứng kiến; là cứu cánh để nuôi dưỡng nghị lực, và đó là nghị lực phi thường, bởi chị đã can trường đối mặt cùng bom đạn. Tâm hồn người con gái ấy thật đẹp: “mẹ ơi lòng dạ bồn chồn/ phía sau đỉnh núi/ trăng non lên rồi/ con nhớ không nguôi/ mái trường xưa lưu luyến/ các em nhỏ nhìn con trìu mến/ mắt đen tròn long lanh” (Đêm Trường Sơn).

Tôi đã từng xúc động khi đọc bức thư của chị Dương Thị Xuân Quý gửi cho con khi ra chiến trường, cũng từng đọc “Bài thơ về hạnh phúc” của nhà thơ Bùi Minh Quốc (Dương Hương Ly), nên càng thấu hiểu xúc cảm thơ của chị Đặng Nguyệt Anh trong những năm tháng ở chiến trường.

“Nhà văn phải đau ở đâu đấy viết mới hay”, với nữ thi sĩ Đặng Nguyệt Anh, không phải là “đau” mà là trải nghiệm, trải nghiệm ở chiến trường khốc liệt đã giúp chị hiểu ra nhiều điều, và chắc chắn khi trở về đứng trên bục giảng dạy văn, chị sẽ dạy cho học trò thấu cảm những áng văn chương giàu giá trị nhân văn. “Em đã qua một thời bão lửa/ lớn lên cùng đất nước chiến tranh/ ai cũng nghe như Tổ quốc gọi tên mình: đánh Mỹ/ tuổi trẻ ra đi hồn nhiên giản dị/ em đã đi dọc Trường Sơn một trăm ngày đêm/ mới hiểu câu ca: chân cứng/ đá mềm” (Thơ viết tuổi 45).

Tôi đã từng viết: “Thi phẩm “Lục bát tôi” đã định hình, định danh cho một phong cách thơ của Đặng Nguyệt Anh, nữ tính, dịu dàng, đằm thắm, mang nét duyên thầm của người con ở quê hương Nam Định – mảnh đất khoa bảng, mảnh đất có nhiều thi nhân nổi tiếng xưa nay”( ).

Bao giờ cho đến ngày xưa/ để cho người ấy đón đưa tôi về/ cơn mưa run rẩy màu hè/ đan thành kỷ niệm chở che hai người/ Thế rồi năm tháng dần trôi/ Và tôi cứ lớn bên người. Hồn nhiên/ biết đâu là nợ là duyên/ nào ai có dám hẹn nguyền gì đâu/ vậy mà lại dở dang nhau/ để heo may thổi bạc đầu mùa thu/ người về ôm kỉ niệm xưa/ lục bình ai thả bơ vơ giữa dòng/ Thế rồi chết một mùa đông/ tôi đi lấy chồng. Người ấy ngẩn ngơ/ bao giờ lại đến ngày xưa...” (Bao giờ lại đến ngày xưa).

Những vần thơ lục bát tài hoa của chị như níu kéo tâm hồn người đọc về với những vần thơ lục bát trong ca dao, như đưa tâm hồn mình trở về với hiện tại, rồi tiếc nuối, rồi day dứt, rồi tơ tưởng, rồi nhớ nhung và rồi khao khát bởi “Và tôi cứ lớn bên người. Hồn nhiên”, cũng bởi “tôi đi lấy chồng. Người ấy ngẩn ngơ”...

Tôi rất thích cái chất dân gian trong tứ thơ “Khúc hát sông Cầu” của chị: “Vôi nồng vẫn nhớ trầu cay/ Để cho anh tiếc cái ngày còn không/ Lơ thơ nước chảy đôi dòng/ Bắc cầu dải yếm/ Qua sông/ đưa người”. Ca dao có câu “Ước gì sông rộng một gang, bắc cầu dải yếm để chàng sang chơi”, nữ thi sĩ đã làm mới tín hiệu thẩm mĩ về “cây cầu, dòng sông”, về lời hát trong “Quan họ Bắc Ninh”, nhờ thế mà bài thơ mượt mà, níu kéo, trôi chảy trong cảm xúc người đọc. Sông Ninh đi vào thơ chị như là cố tri: “Ngày đi sông hãy còn trinh/ nay về hát khúc huê tình tặng sông... Xa xôi mấy cũng tìm về/ để thương con sóng... vỗ về sông ơi” (Sông Ninh ơi). Ra chiến trường, nhớ mẹ, nhớ quê là nhớ sông. Sống xa quê, mỗi khi cảm xúc dâng trào lại nhớ sông, đó là dòng cảm xúc ký ức đẹp trong thơ chị.

Là thơ chọn, là tuyển tập, nên có nhiều bài thơ ghi dấu những nơi chị từng đến và gửi lại trong thơ cảm xúc của mình. Chỉ dừng chân hai ngày với Huế mà chị có những câu thơ mang hồn vía của Huế, cứ như là Huế có trong tâm thức chị tự bao giờ: “Thướt tha áo tím qua cầu/ Huế trong huyền thoại sắc màu lung linh/ ngàn xưa đã tạc dáng hình/ Hương Giang soi bóng ngự Bình thông reo/ Huế đằm thắm biết bao nhiêu/ Huế kiêu hãnh những vương triều cố đô/ thủy chung là Huế đợi chờ/ Huế bình thản trước bốn mùa gió mưa” (Với Huế). Đọc bài thơ này, khiến tôi suy nghĩ về hành trình sáng tạo của nhà thơ, thơ ca không phải có cảm xúc bất chợt là viết, mà phải có độ chín trong cảm xúc, đặc biệt là phải tìm cho được tứ thơ, với tứ thơ “với Huế”, thì không thể chỉ là thi ảnh thoáng qua trong hai ngày, mà thi ảnh và ngữ liệu đó đã đằm sâu trong tâm tưởng, để rồi khi viết ra nó như là máu thịt, như là lắng sâu, như là suy tưởng, có như thế thì độc giả sẽ neo đậu trong trí nhớ về cái nhìn của thi nhân về một vùng đất văn hóa, vùng đất đã khiến bao tao nhân mặc khách lưu luyến khi đến Huế.

Chị đi được nhiều nơi trong nước và trên thế giới, đó cũng là may mắn của chị, không ai dễ gì có những chuyến đi hạnh phúc như chị. Đọc những bài thơ viết về những nơi nữ thi sĩ từng đi qua, mới thấy đi du lịch cùng vốn văn chương từ trong các bộ tiểu thuyết đồ sộ của văn học thế giới, mà chiêm ngưỡng và trải nghiệm quả là hạnh phúc lớn lao của con người. Khi đọc bài thơ “Vạn Lý Trường Thành”: “Ta đâu mơ hảo hán/ Vẫn lên Vạn Lý Trường Thành/ Để được gần trời xanh, mây trắng/ Đón gió bốn phương lồng lộng thổi về/ Để chiêm ngưỡng công trình vạn kỷ”, bất giác tôi như gặp được trong thơ chị cái chí của người quân tử, cái chí mà người xưa từng viết: “Hữu thì trực thướng cô phong đính/ Trường khiếu nhất thanh hàn thái hư” (Ngôn hoài - Không Lộ thiền sư) – (Có khi xông thẳng lên đầu núi/ Một tiếng kêu vang lạnh cả trời – bản dịch Kiều Thu Hoạch).

Nữ thi sĩ dọc ngang muôn dặm trên đường đời, viết nên bao nhiêu vần thơ nặng tình với những người thương yêu, với quê hương, với bè bạn, cũng có lúc nhìn thẳm sâu vào cái tôi phận nữ: “Người đàn bà/ lặng im/ tựa vào đêm/ mông lung hoang tưởng/ nghe chập chờn/ tiếng thời gian vọng về/ nàng là ai?/ Có phải ngày xưa/ nàng là trinh nữ? Có phải ngày xưa/ nàng là quận chúa? Bao nhiêu hoàng tử/ quỳ dưới chân nàng!/ Đêm bàng hoàng/ Người đàn bà choáng váng/ Nỗi cô đơn vực nàng dậy/ Người đàn bà im lặng/ tựa vào đêm” (Người đàn bà). Những câu hỏi tu từ nối tiếp nhau bộc lộ lòng trắc ẩn, sự cảm thông trong cái nhìn thi sĩ.

Với nhà thơ Đặng Nguyệt Anh, thơ sáng tác theo thể lục bát vẫn là quen thuộc, bởi có những câu thơ của chị lênh đênh cùng năm tháng, cùng biết bao tuyển tập rồi trở về với chị trong vẹn nguyên một thi tứ: “Nếu anh biết được…/ chiều nay/ gió từ đâu thổi/ để gầy nhành mai/ Một đời/ gió có vì ai/ xô nghiêng chiều tím/ ra ngoài hoàng hôn” (Nếu anh biết được...). Đặng Nguyệt Anh đã làm mới câu thơ lục bát bởi nhịp điệu biến thiên trong mỗi bài thơ, nhờ thế mà sáng tạo của chị luôn mới, không nhàm chán, vẫn hiện đại bởi cái nhịp điệu vượt thoát đó: “Từ em/ gọi nguyệt về trăng/ là khi tôi đã gọi rằm/ sang đêm/ Hoang sơ/ một lối cỏ mềm/ cháy lên em… thắm sáng miền nhân gian” (Cháy lên em…)

Thơ là hình thái nghệ thuật cao quý và tinh vi, nữ thi sĩ Đặng Nguyệt Anh đã làm tròn sứ mệnh cao cả của mình với thơ, bởi chị có một hành trình thơ dày dặn, với những tác phẩm thơ để lại nhiều ấn tượng với người đọc. 101 bài thơ chọn cũng là cách ghi nhớ và lưu trữ hành trình sáng tạo không ngừng nghỉ của chị, ngoài những cố gắng vượt thoát, làm mới thơ ca trong thể loại, nhịp điệu, ngôn ngữ, cấu tứ; thơ chị còn bộc lộ tài thơ qua những vần thơ dung dị, nhẹ nhàng như nét dịu dàng dễ thương của người con gái kinh Bắc: “Tôi còn một chút hồng hoang/ thì xin em cứ địa đàng trăm năm/ Tôi còn một chút xa xăm/ xin em đừng khép mình trong ngục tù/ Tôi còn một bến hoang vu/ lênh đênh tôi kẻ lãng du giữa đời/ Tôi còn một chút tôi thôi/ xin em gìn giữ luân hồi có nhau/ Tím xưa dù có bạc nhàu/ đường xưa dù có lỗi câu hẹn thề/ Tôi còn một trái tim mê/ cõi em xin được đi về ngàn năm” (Tôi còn).

Huế ngày 14/4/2020
TS. H.T.T.T.

Bài viết liên quan

Xem thêm
Tiểu thuyết “Trưng Nữ Vương” – Bản tráng ca về những Nữ Vương đầu tiên của đất Việt
Bà Trưng quê ở Châu Phong,Giận người tham bạo thù chồng chẳng quên.Chị em nặng một lời nguyền,Phất cờ nương tử thay quyền tướng quân…(Đại Nam quốc sử diễn ca)
Xem thêm
Về nương bậu cửa kiếm tìm an yên
Bài viết cho cuộc ra mắt tập thơ “Lục bát chân mây” của Võ Miên Trường
Xem thêm
Nguyễn Minh Tâm với ‘Ấm lạnh pháp đình’
Bài viết của nhà văn Nguyễn Văn Hòa
Xem thêm
Bồi hồi, thổn thức, bâng khuâng…
Bài viết cảm nhận của nhà thơ Hoa Ngọc Dung
Xem thêm
Bàn về tính lý luận trong các bài giảng của thầy và bài viết của trò hiện nay
Lý luận văn học Lý luận văn học (LLVH) là bộ môn nghiên cứu văn học ở bình diện lý thuyết khái quát nhằm tìm ra những quy luật chung nhất về văn học. Trong đó bao gồm sự nghiên cứu bản chất của sáng tác văn học, chức năng xã hội-thẩm mỹ của văn học, đồng thời xác định phương pháp lý luận và phân tích văn học. Lý luận văn học tồn tại như một môn học độc lập ở một số trường đại học; nó cũng là một phân môn cho sinh viên và học sinh THPT thế hệ trước. Cho dù độc lập hay là phân môn của môn Ngữ văn thì vai trò của LLVH là vô cùng lớn.
Xem thêm
“Lời của gió” - Lời của nước mắt, nụ cười
Tôi may mắn được người anh, người đồng nghiệp quý mến - Nhà thơ, Nhà báo Trần Thế Tuyển gửi bản thảo trường ca “Lời của gió” với tin nhắn giản dị, mộc mạc “Gửi chú đọc và thẩm cho anh”. Đọc thì đương nhiên rồi, nhưng không dám “thẩm”. Mấy lời sau đây tôi viết với tư cách là bạn đọc, là người em của Nhà thơ Trần Thế Tuyển.
Xem thêm
Không gian thiền tịnh và buông xả trong thơ Nguyễn Thị Sơn
Chùm thơ 4 bài: Thiền, Tịnh, Buông, Nhàn của nhà thơ Nguyễn Thị Sơn đã khái quát một không gian thơ mang tính tâm linh cho riêng mình, ở đó mỗi bài đều chứa đựng những tầng ý nghĩa sâu sắc về tâm trạng và trải nghiệm của con người. Những bài thơ này thể hiện sự kết hợp hài hòa giữa cảm xúc và trí tuệ, giữa thiên nhiên và tâm hồn. Mỗi bài thơ là một khía cạnh khác nhau của sự tìm kiếm sự an lạc và bình yên trong cuộc sống.
Xem thêm
Dòng sông tâm thức của Elena trong “Hạt bụi lênh đênh”
Trong những câu chuyện đan xen giữa thể loại tùy bút và truyện ngắn và tôi chọn 7 bài viết trong “Hạt bụi lênh đênh” để nói về “dòng sông tâm thức” của Elena đã trải qua .
Xem thêm
Nỗi buồn trổ bông và tình mẹ trong thơ Nguyễn Minh Ngọc Hà
Nguyễn Minh Ngọc Hà sinh năm 1985 tại vùng đất An Sơn thuộc thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương. Nơi đây vốn là chiến khu cách mạng hào hùng trong hai cuộc kháng chiến và là một phần của Vườn trái cây đặc sản Lái Thiêu nổi tiếng. Có lẽ đặc điểm, truyền thống quê hương đã sớm chắp cánh cho hồn thơ của chị. Ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường, trong đầu cô cựu học sinh lớp chuyên toán của trường trung học phổ thông chuyên Hùng Vương luôn phảng phất âm điệu của thi ca. Sau khi tốt nghiệp chuyên ngành Tài chính - Ngân hàng tại trường Đại học Kinh tế thành phố Hồ Chí Minh rồi vào làm việc tại một ngân hàng lớn chưa bao lâu, như duyên phận đã định trước, Nguyễn Minh Ngọc Hà “rẽ bước”, chọn nghề tự do để có thời gian dành cho văn chương nghệ thuật
Xem thêm
So sánh bài thơ Cây đánh đu của Lê Thánh Tông và bài thơ Đánh đu của Hồ Xuân Hương
ĐÁNH ĐUTám cột khen ai khéo khéo trồngNgười thì lên đánh kẻ ngồi trôngGiai du gối hạc khom khom cậtGái uốn lưng ong ngửa ngửa lòngBốn mảnh quần hồng bay phấp phớiHai hàng chân ngọc duỗi song songChơi xuân đã biết xuân chăng tá?Cọc nhổ đi rồi, lỗ bỏ không
Xem thêm
Chân dung đẹp từ nét vẽ của thơ
Nguồn: Thời báo Văn học Nghệ thuật, ngày 22/8/2024
Xem thêm
Nhịp điệu của sức bền
1. Trong nhiều tác phẩm và bài viết trao đổi, Mai Văn Phấn thường nhắc đến quan niệm viết (và sáng tạo nghệ thuật nói chung) như một hành động kiến tạo không gian khác – khác với người khác và khác với chính mình, xem đấy như kim chỉ nam cho quá trình tìm tòi của ông. Đấy là một ý tưởng dễ được chia sẻ (và dễ biến thành các tuyên ngôn to tát) nhưng rất khó để hiện thực hoá, bởi nó buộc người viết phải ý thức đầy đủ về bản chất sáng tạo, biết liên tục đổi mới, hoặc nói cách khác, biết phủ định và tự phủ định. Càng ngày, khi càng đi xa và đạt nhiều thành tựu hơn, Mai Văn Phấn càng thấy rõ áp lực của việc phải khác trong thực hành sáng tạo. Nhưng đồng thời, việc viết trong áp lực (chủ yếu xuất phát từ đòi hỏi của ông với chính bản thân) đã hình thành ở tác giả này một tinh thần và thái độ thực tế mà ta có thể nói đơn giản như sau: muốn viết khác thì phải đọc sâu, đọc rộng. Có lẽ vì vậy, sau nhiều tác phẩm thơ liên tiếp xuất bản trong và ngoài nước, Mai Văn Phấn chọn nhịp bước chậm lại và rẽ sang phê bình với tập Không gian khác (2016) và mới đây nhất, là Nhịp điệu vẽ lối đi (2024).
Xem thêm
Hoa thơm, trái ngọt của lòng yêu thương
Nguồn: Thời báo Văn học - Nghệ thuật số ra ngày 15/8/2024
Xem thêm
Đọc thơ Trần Mai Hường
Bài viết của nhà văn Tuấn Trần
Xem thêm