- Chân dung & Phỏng vấn
- Lâm Thị Mỹ Dạ: Như nước mắt lặn sâu vào đời…
Lâm Thị Mỹ Dạ: Như nước mắt lặn sâu vào đời…
Gặp nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ vài lần đầu, thấy chị luôn cười hiền dịu, quan tâm đến mọi người, lại xinh đẹp, trắng trẻo, nhiều người cứ tưởng nhà thơ nữ này sống trong nhung lụa từ nhỏ. Hoàn toàn không phải vậy.
Nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ (1949-2023)
Mọi duyên cớ bắt đầu từ chuyện nặng nề của một thời đã qua. Ba của Mỹ Dạ là ông Lâm Thanh, một người gốc Hoa từng tham gia Việt Minh ở huyện đội Lệ Thủy (Quảng Bình) thời chống Pháp. Cuối năm 1949, ông đưa bố mẹ mình vào Sài Gòn làm ăn. Khi sắp xếp nơi ở cho bố mẹ yên ổn, năm 1954, ông ra đón mẹ con Mỹ Dạ. Ông đã mua vé cho cả ba người, nhưng đến phút cuối cùng bà Lý Thị Đấu, mẹ Dạ, không đi vì không thể bỏ lại người mẹ già và đứa em gái bơ vơ.
Ngày 13.2.2007, Chủ tịch nước CHXHCN Việt Nam đã ký quyết định tặng Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật cho nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ với chùm tác phẩm: Đề tặng một giấc mơ (tập thơ – 1988), Trái tim sinh nở (tập thơ – 1974), Bài thơ không năm tháng (tập thơ – 1983).
Vào Sài Gòn ông Thanh buôn bán làm ăn đủ sống và tham gia giúp đỡ cách mạng, cho đến khi hai tai bị điếc không nghe được nữa mới thôi. Sau ngày 30.4.1975, những người cùng hoạt động nội thành đã xác nhận để ông Thanh được tặng Bằng khen Chính phủ vì đã có công với cách mạng thời chống Mỹ. Bằng khen do Thủ tướng Phạm Văn Đồng ký. Tất cả bốn người con ông ở Sài Gòn đều làm nghề dạy học… Và may mắn thay, nhờ đất nước thống nhất, ông đã gặp người con gái ở Lệ Thủy của mình. Ông càng bất ngờ và sung sướng khi biết con mình, khi xa nó còn đỏ hỏn ấy, bây giờ đã trở thành một nhà thơ nổi tiếng!
Thế nhưng ông không biết rằng trong bao nhiêu năm, Lâm Thị Mỹ Dạ phải chịu một lúc hai nỗi đau cực lớn: tuổi thơ thiếu vắng tình thương của cha và là cháu nội của đại địa chủ (ông nội Mỹ Dạ đang ở Sài Gòn nên bị tịch thu toàn bộ ruộng đất, nhà cửa ở Quảng Bình), rồi con của một “kẻ đi Nam theo địch”. Lý lịch ấy thời đó bị xã hội xếp vào loại nguy hiểm cần phải luôn cảnh giác, đề phòng và đó là “vết nhơ” bị mọi người coi khinh, dè bỉu… Thời nhỏ tuổi, dù đi học hay đi chơi, Mỹ Dạ luôn bị trẻ con trong xóm, trong xã xa lánh, chúng coi Dạ như con hủi, không dám gần.
Suốt ngày Dạ chỉ lui cui bên mẹ bán quán ở chợ Tuy Lộc. Những năm ấy tâm trạng của Dạ luôn hoang mang và buồn tủi. Mẹ của Dạ là người vùng An Cựu, Huế. Thuở học tiểu học, bà có học ít tiếng Pháp. Thời trẻ, bà thường đến các đồn Pháp bán hàng cho bọn lính. Khi đội cải cách ruộng đất về, nghe bà thường quen nói chêm ít tiếng Pháp, họ qui là “địch cài lại”, là gián điệp, người của CIA, bà bị xếp vào diện phải “đấu tố”. Nỗi đau ấy ám ảnh tới mức mới 10 tuổi Mỹ Dạ đã làm cả tập thơ buồn 32 bài, chép trong cuốn vở học trò. Cuốn vở ấy nay đã bị thất lạc và Dạ chỉ nhớ được mấy câu trong bài thơ có tựa đề Dòng sông đen: Tuổi thơ tôi như ráng chiều đỏ lựng/ Hắt máu xuống dòng sông đen…
Không hiểu sao cái lớp cấp III của tôi thời đó lại có nhiều đứa lý lịch xấu thế! Ngoài Mỹ Dạ còn có Đỗ Hữu Lời (nhà thơ Đỗ Hoàng), bố là sĩ quan quân đội Pháp; Trần Văn Hải (nhà thơ Hải Kỳ), “bố đi Nam”; tôi thì bố là địa chủ bị bắn oan trong cải cách ruộng đất, rồi thằng Ngò, bố làm lý trưởng…
Đứa nào cũng tìm đến thơ như một cứu cánh. Năm lớp 10, Mỹ Dạ, tôi và Hải Kỳ được trường chọn đi thi học sinh giỏi văn toàn quốc. Mỹ Dạ đẹp, giỏi văn, lại hát hay, giọng ngâm thơ tốt, nên đã trở thành nhân vật chính trên sân khấu trường tôi thời ấy. Tôi nhớ mỗi lần Dạ mặc bộ áo lụa đen bước ra sân khấu, nghiêng chào rồi cất tiếng giới thiệu chương trình văn nghệ, là tiếng vỗ tay nổi lên rào rào…
Khi học xong cấp III (do chiến tranh, trường tôi sơ tán ở Ngư Hóa, miền tây Quảng Bình) năm 1968, tôi được ủy ban xã ký hồ sơ cho đi học đại học thương mại, Đỗ Hoàng và Hải Kỳ đi sư phạm “10+3” (tức lớp 10 học sư phạm 3 tháng ở vùng núi Troóc, nơi Trường Sư phạm Quảng Bình sơ tán, để ra dạy cấp II); còn Mỹ Dạ thì không được đi học đâu cả. Dạ cùng thằng Ngò, hai đứa cuối cùng rời làng rừng Ngư Hóa, lủi thủi vừa khóc vừa đi bộ vượt bom đạn Mỹ 150km từ núi rừng Tuyên Hóa về Lệ Thủy với mẹ. Chủ nghĩa lý lịch thời ấy như nhát kiếm oan nghiệt chém ngang con đường học hành của Dạ.
May mà một ngày nọ, vào khoảng năm 1970, nhà thơ Hải Bằng, một nhà thơ hoàng tộc Huế do dính líu vào vụ Nhân Văn – Giai Phẩm ở Hà Nội, bị “phát vãng” về Quảng Bình làm nghề bán sách, lên Lệ Thủy. Nghe người ta đồn ở thôn Tuy Lộc có bé Dạ làm thơ hay lắm, Hải Bằng hăm hở tìm đến.
Đọc thơ Dạ ông thấy đây là một tài thơ đích thực nên nhờ nhà thơ Xuân Hoàng, nhà văn Trần Công Tấn đưa Mỹ Dạ về cơ quan Hội Văn nghệ Quảng Bình. Chính trái tim thương tổn đã đưa Dạ đến với thơ… Mãi đến mười năm sau, năm 1978, khi đất nước thanh bình, khi đã trở thành nhà văn Việt Nam, Mỹ Dạ được Hội Văn nghệ Bình Trị Thiên giới thiệu đi học Trường Viết văn Nguyễn Du và sau đó, năm 1988, đi học khóa cao học ba tháng tại Học viện Gorki (Liên Xô cũ)…
Và Mỹ Dạ đã trọn đời sống với thơ bằng trái tim thương tổn không thành sẹo ấy. Nói cách khác, nhịp đập trái tim đã thành âm hưởng chủ đạo, thành nỗi đau trường cửu trong thơ Lâm Thị Mỹ Dạ: … Mẹ sinh em ngày này / Mưa dột bầm mái tóc / Gió tê buốt hai tay / Mẹ không có cửa nhà / Em – đứa trẻ vắng cha / Như mầm cây trên đá / Biết khi nào nở hoa…/ Nỗi mình biết ngỏ ai hay / Bao đêm nước mắt vơi đầy, mẹ ơi!. Ngay đến những năm gần đây, khi đã tuổi hưu, thơ Lâm Thị Mỹ Dạ vẫn không thoát được sự ám ảnh về nỗi đau thời thiếu nữ: Em có nỗi buồn như tro / Hoang lạnh cả một thời thiếu nữ (Anh đã nhìn thấy em); hay Em tựa vào em – đơn độc quen rồi / Em tựa vào em – gắng vững giữa đời (Cho anh tựa vào em)…
Trái tim thương tổn đã cho Lâm Thị Mỹ Dạ độ nhạy cảm, sẻ chia trước thân phận những người khốn khổ vì chiến tranh, nghèo đói và sự bạc bẽo của nhân tình, tạo nên trực cảm thơ lâu bền của chị. Dạ luôn trân trọng, chăm chút từng biểu hiện nhỏ của tình cảm cuộc sống: bạn bè đau ốm mới vô viện chị đã sốt sắng đi thăm; con bạn học xong chưa xin được việc làm cũng khiến Dạ băn khoăn thao thức; thấy hoàn cảnh ai đau thương thì rưng rưng nước mắt.
Bạn đến nhà mùa hạ thì que kem, đĩa bánh nậm, mùa đông thì cốc rượu, đĩa đậu phộng rang. Khi không có đủ tiền để lo những thứ đó, tôi thấy Dạ thường đi vào đi ra không yên. Viết về một người lính Mỹ bị chết ở chiến trường Việt nam, Lâm Thị Mỹ Dạ cũng có cái nhìn rất độ lượng: Rồi có lúc cuối đường tôi gục ngã / Viên đạn ai găm khuôn ngực máu đầy / Xin hãy giở dưới làn da chó sói / Trái tim nai đỏ thắm thơ ngây! Sang thăm nước Mỹ, đến trước bức tường đen ở Washington D.C, nơi khắc tên 58.000 lính Mỹ tử trận trong cuộc chiến VN, Dạ cảm thấy mình đang đau nỗi đau của những bà mẹ Mỹ: Khuôn ngực đã cất giấu / Một trái tim / Nặng hơn quả đất… Hãy nhìn xem / Những tên người đang chảy máu / Và bức tường đen như một vết thương /… không bao giờ thành sẹo (Bức tường đen). Chỉ có trái tim của con người nhân loại mới biết đồng cảm, sẻ chia bao la như thế!
Có lần Mỹ Dạ thổ lộ về mình trong thơ: Tóc điểm bạc mà hồn còn trẻ nít. Nghĩa là còn biết ngạc nhiên trước mỗi sự thay đổi nhỏ của sự sống quanh mình. Nhờ sự “ngây thơ” đó, Dạ đã phát hiện những hình tượng thơ lạ, rất gợi cảm ngay trong cuộc sống thường nhật để viết nên những bài thơ sâu sắc như Trái tim sinh nở, Anh đừng khen em, Tôi về với tôi, Anh đã nhìn thấy em, Đề tặng một giấc mơ…
Bạn yêu thơ cả nước đã thuộc nhiều câu thơ rất hay của Lâm Thị Mỹ Dạ trong các tập thơ trước, như: Nhìn lá / cứ ngỡ là lá ngọt… / Nếu được vẽ chiếc hôn dưới mặt trời / Tôi sẽ vẽ chiếc hôn như lá… Hay Em nằm dưới đất sâu / Như khoảng trời đã nằm yên trong đất…/ Cái chết em xanh khoảng trời con gái / Tôi soi mình trong cuộc sống của em… Hay Đêm qua / Tôi mơ thành tôi / Tôi mơ thành chim / Tôi mơ thành giấc mơ…
Trong tập bản thảo thơ mới nhất, dự kiến đặt tên là Hồn đầy hoa cúc dại, tập hợp những bài viết từ đầu thế kỷ 21 đến nay, Mỹ Dạ cũng có nhiều hình tượng thơ hay và lạ như thời còn trẻ: Em quặn mình như rễ giữa đất im (Cho anh tựa vào em); Nếu được lạc cùng sông / Xin lạc mãi / Để hồn trôi êm ái khúc du ca (Đi cùng sông Hương); Vì hương ta mãi lòng vòng / Làm sao cầm được có – không mà về… (Đi qua một làn hương)… Nhờ trực cảm mạnh, thơ Mỹ Dạ là thơ thốt lên sự buốt nhói của con tim, chứ không phải “chuyện đời lựa lời mà viết” như nhiều người khác. Thơ ấy luôn chân thật mà mới mẻ, xúc động lòng người.
Cái “trực cảm thơ” ấy do số phận và sự từng trải của nhà thơ tạo nên, không thể học ở sách vở hay trường lớp nào mà có được. Bởi thế, “trái tim thương tổn luôn đau đớn” đã trở thành hình tượng đậm nét nhất trong thơ Lâm Thị Mỹ Dạ: Dẫu khi tắt nghỉ cuộc đời / Trái tim mẹ giữa đất trời con yêu (Trái tim sinh nở); Hỡi người bán quạt giờ thiên cổ / Sao gió trong tôi cứ thổi hoài (Chợ tuổi thơ); Khi tay chạm trống đồng ngân / Sững sờ tôi ngỡ mình thành người xưa… (Tiếng trống đồng). Bài thơ Nói với trái tim là tuyên ngôn về trái tim thương tổn của Lâm Thị Mỹ Dạ:
Ôi trái tim
Sao em lại mang dáng lưỡi cày
Để suốt đời không bao giờ yên ổn
Để suốt đời cày lên
Cày lên
Đớn đau và hạnh phúc…
Cứ ngỡ trái tim tổn thương ấy về cuối đời sẽ yên ổn hơn, bớt đau đớn hơn. Hóa ra không phải. Ngày 14.6.1998, trong lúc Mỹ Dạ đang ở Hà Nội, chuẩn bị ngày mai lên máy bay đi dự tọa đàm thơ ở Mỹ thì chồng chị, nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường, bị tai biến mạch máu não, hôn mê ở Đà Nẵng hai tháng ròng. Dạ phải hủy chuyến đi Mỹ, bay về Đà Nẵng ngay. Từ đó đến nay, đã chín năm rồi, nữ thi sĩ của chúng ta luôn ở bên chồng.
Chị như “người mẹ” bao dung, săn sóc, đút mớm cơm cháo, thuốc men, xoa bóp, tắm rửa, vệ sinh cho chồng. Trái tim nhân hậu ấy thêm một lần “rớm máu”. Trăm nghìn thứ việc chưa từng có đè lên vai người phụ nữ làm thơ xinh đẹp ấy. Tuổi ngày càng cao, Mỹ Dạ càng bị nhiều thứ bệnh tật hành hạ, viêm khớp, viêm xoang, nhức đầu… Thế mà chị vẫn lo liệu, tổ chức đưa chồng đi chữa bệnh Hà Nội, Đà Nẵng, Khe Sanh, Long An, TP.HCM đến sáu chuyến liền.
Nghe ai nói thuốc gì hay, thầy nào giỏi, dù xa xôi, tốn kém đến đâu, chị vẫn đưa chồng đến cho bằng được. Bàn tay nâng em thành bảo mẫu / Nước mắt lặn vào trong cho anh thấy nụ cười / Bệnh tật lo toan giấu vào đêm trắng / Giữa tháng ngày trĩu nặng / Em đứng thẳng người / Cho anh tựa vào em! (Cho anh tựa vào em).
Có lẽ vì những vết thương tim suốt đời không thành sẹo ấy, nên dù Lâm Thị Mỹ Dạ đã “Giơ cao lá cờ trắng / Trước thơ”, nghĩa là xin đầu hàng thơ, thơ vẫn đến với chị nồng nàn, chân chất. Vì thơ như nước mắt đã lặn sâu vào đời chị…
NGÔ MINH