- Truyện
- Người đàn bà vẽ tranh kiếng – Truyện ngắn Lưu Kiều Nhi
Người đàn bà vẽ tranh kiếng – Truyện ngắn Lưu Kiều Nhi
Tôi về đến nhà đúng lúc ba và chị Hai đang hì hục đem mớ tranh kiếng của má ra cất ở nhà kho phía sau. Tôi biết ngay là má có việc đi đâu đó nên hai người họ mới cả gan đến thế. Chị Hai nói má không chịu ở nhà nghỉ dưỡng bệnh, lại lén đi lặt cuống ớt với mấy người đàn bà trong xóm. Ba cười hiền lành bảo: "Kệ bả. Bắt bả ở nhà hơn bắt cóc bỏ dĩa. Lại phụ ba một tay, dọn cho xong đống nợ này đi bây!"
Tác giả Lưu Kiều Nhi
Tôi là đứa con gái quyết đoán đến liều mạng. Tôi giống má ở tánh đó. Có lẽ vậy, tôi được má thương nhất. Chị Hai giống tánh ba. Hiền lành, sởi lởi. Nhưng trớ trêu, giữa bốn người chúng tôi lại không hề có một sự ràng buộc nào về tướng mạo.
Lần trở về này, không biết có trụ nổi ở quê không hay lại long nhong quên ngày tháng ở xứ người như trước. Tôi chặc lưỡi như tự động viên mình rồi bắt xe khách về miền Tây ngay tối đó. Thôi thì đã liều ba bảy cũng liều. Gần 30 tuổi đầu, tôi mới thật sự hiểu cảm giác nhớ nhà, nhớ má đau xiết thế nào. Giờ thì chỉ muốn về với má, để đêm đêm trước khi ngủ, lại đòi má gãi lưng, gãi tay như hồi còn bé.
Nằm gà gật trên xe, tôi nhìn mình qua làn hơi nước in trên mặt kính, thấy mình méo mó, biến dạng. Rồi thấy một tôi khác đang lủi thủi sau chân một người đàn ông dáng người lỏng khỏng, khắc khổ đang đi trên triền đê. Rồi một tôi khác nữa với gương mặt nhòe dần ra, tan chảy thành những mảng màu quái đản, ma mị. Tôi thấy mình vùng vẫy giữa bao nhiêu là bột sáp màu, nó dính vào mắt, vào tai, rồi một khối màu to tướng đè siết lên ngực tôi đau điếng… Cú huých mạnh vào sườn của người ngồi cạnh vì đường xốc khiến tôi chạy khỏi cơn ác mộng. Tôi thở phào như che giấu được một trọng tội.
Trước đây, tôi từng là một cô giáo hẳn hoi. Con gái dưới quê thời đó được vậy là quá danh giá. Nhưng tôi không thích nghề này. Tôi thích làm họa sĩ hơn. Một họa sĩ thực sự chứ không phải là một thợ vẽ tranh kiếng tay ngang như má tôi. Nhưng số phận của chị em chúng tôi được ba má bàn bạc kĩ lưỡng cả rồi. Tôi lớn lên sẽ làm cô giáo. Chị Hai học không giỏi nên cho nghỉ sớm đi học may, sau sẽ tìm một tấm chồng hiền lành, giàu nghèo gì cũng được. Thấy ba má ngồi trên “bộ ngựa” bàn tính chuyện của mình, chị Hai ngồi may đồ cười lỏn lẻn, cố ý nheo mắt với tôi ra vẻ đắc ý. Thấy tôi ngồi đăm chiêu nhìn ra con đường làng u tối trước mặt nhà, chị không đùa nữa. Im lặng có thể là chấp nhận nhưng chưa hẳn là hài lòng. Tôi chưa bao giờ dám nói về ước mơ mình. Tôi thấy nó xa xỉ quá so với cảnh nhà tôi. Thậm chí tôi thấy nó quá khổ so với sự nhu nhược của chính mình.
Sau bốn năm đại học vất vả, khi tốt nghiệp ra trường, tôi được phân công công tác ở một huyện xa nhà. Tôi yêu lũ trẻ và luôn thể hiện tinh thần trách nhiệm với từng nhiệm vụ nhỏ nhất. Thế nhưng, tôi không yêu công việc của tôi. Tôi đau khổ nhiều hơn mỗi khi nghĩ về điều đó. Tôi không đủ can đảm để thực hiện ước mơ của mình. Vì tôi sợ chính tay tôi đập vỡ ước mơ của ba má (nhất là má tôi). Họ yêu nghề giáo. Còn tôi thì yêu họ…
Một trong những bất hạnh nhất của con người là tự căm ghét bản thân mình. Tôi thấy mình giả tạo, đáng ghét, đáng lên án. Tôi đang hủy hoại dần một cái gì rất lớn lao...Tôi sợ mình không đủ sức gánh nổi trọng trách đó. Bất kì nghề nào cũng cần sự sáng tạo. Nghệ thuật rất cần sự sáng tạo. Và nghệ thuật của người thầy giáo dục học sinh vượt ra giới hạn kiến thức sách vở khô khan. Trăn trở cũng đã xong. Dằn vặt cũng đã xong. Đến lượt tôi nên có lựa chọn cho riêng mình. Tôi rời khỏi lũ trẻ… và lên đường thực hiện ước mơ với tháng lương tập sự vừa đúng 1 triệu 750 ngàn đồng.
Bỏ nghề dạy học, không có nghĩa là tôi sẽ thi ngành Mĩ thuật. Tôi không muốn phí thời gian của mình cho những ngôi trường đào tạo theo kiểu "gà công nghiệp". Tôi quyết tâm học vẽ vì chỉ lí do duy nhất là sở thích cá nhân. Không cần đắn đo nhiều về việc làm, tương lai, số phận như ba má tôi đã từng nghĩ. Tôi biết mình đang liều quá nếu chỉ biết sống theo sở thích. Nhưng có đam mê với nghề, tôi nghĩ chắc mình không thể chết vì thiếu ăn.
Thời gian đầu, tôi còn phải xin thêm má vài trăm để trang trải chi phí sinh hoạt. Má rầu rầu nhưng không trách, chỉ thở dài thậm thượt. "Mồ mả nhà mày, con gái gì mà liều mạng quá". Về sau, tôi đã có thể tự xoay sở được nhưng vẫn không giàu lên nổi nếu chỉ có đam mê thôi. Tranh tôi vẽ đã bắt đầu được một vài người trong giới biết đến. Nó vượt ra ngoài tầm mong đợi của tôi. Bởi lẽ, ngày trước, tôi không quen cuộc sống quá khuôn khổ của nghề giáo, càng không thể chấp nhận những tư tưởng quá xa lạ với mình. Đấy là những tư tưởng của mấy thế kỉ trước còn sót lại nhưng thấm sâu vào ý niệm cam chịu của biết bao con người nơi đó. Sức mạnh của nó khủng khiếp gấp vạn lần sự có mặt của nó trong đời sống văn minh này. Bây giờ, tôi đã tránh mặt được nó, dấn thân vào một cuộc sống mới, được thỏa sức thực hiện đam mê mà cũng mệt lừ vì phải gồng mình trước những cám dỗ của cuộc sống. Những buổi chiều Sài Gòn đông nghịt người, xe cộ và khói bụi cho tôi cảm giác của mấy thế kỉ trước. Bức bối, muốn chạy trốn, muốn hét lớn, và nổ tung…Nhưng bằng mọi giá, tôi vẫn quyết tâm ở lại nơi mà tôi đánh đổi rất nhiều thứ mới có được. Tôi gọi đó là cuộc du hí dài của kẻ liều mạng. Dám sống cam chịu trong cảnh bế tắc, tù đọng của một làng quê nghèo hay dấn thân vào đất Sài Gòn xa hoa? Thật ra đó cũng chỉ là những cách liều mạng khác nhau để sống mà thôi. Vậy thì, ta vẫn cứ sống, vẫn lại đam mê vẽ vời, vẫn liều mạng tin tưởng vào thằng đàn ông “ngang hông” của đời mình.
***
Hồi trước, má chỉ lo chuyên tâm vẽ tranh kiếng cho ba chạy đi bán ở các huyện. Thời gian còn lại, má vừa lo chuyện bếp núc vừa lo cho bầy heo mới mua về. Mỗi khi thấy má ngồi vẽ tranh kiếng, tôi cảm nhận đó lại là một người khác. Một người đàn ông mới đúng. Mu bàn tay vung trùng thịt lướt trên mặt kiếng thật điệu nghệ, nhẹ nhàng như tô điểm, như nâng đỡ một báu vật. Bàn tay không hề biểu lộ tư chất nghệ sĩ cho đến gương mặt, phong thái lại càng không. Gương mặt vuông bạnh hằn lên những nét phong trần của một người từng trải. Khung xương vai to bè ra như một tấm kiếng thô chưa thành tranh. Nhìn má từ đằng sau trông giống một lão thợ rèn rắn khỏe, khổ cực hơn là dáng ngồi của một người thợ vẽ. Má ít khi vẽ tranh trang trí cửa buồng, ngại khi ngồi tỉ tót làm mấy chữ "trăm năm hạnh phúc". Đặt hạnh phúc của con người ở đâu là đẹp nhất? Cửa buồng? Khi chân người đàn ông tàn nhẫn bước qua ngạch cửa, mấy lần cái trăm năm cũng không níu giữ nổi hạnh phúc. Má chỉ thích vẽ tranh thờ tổ tiên hoặc tranh thờ Phật Tổ, Phật Bà hoặc tranh vẽ chùa chiền của đồng bào Khơ-me. Má cưng lắm mấy bức tranh do chính tay vẽ. Những hôm trời mưa lầy lội, đường đất đỏ lên sình tới mắt cá chân, má cố hết sức để không bị chộp ếch, quyết giữ cho bằng được mấy tấm tranh phải sạch sẽ, nguyên lành như hồi mới vẽ. Hay gặp ai hợp ý thích tranh kiếng, má say sưa kể lể và nếu cần sẽ hào phóng tặng không cho người ta một bức.
Bàn tay múp míp nhưng không ngờ là người thợ vẽ thần tình. Tranh má vẽ có cái thần rất khó hiểu. Nó không sặc sỡ như loại tranh kiếng của vùng khác. Nó rực rỡ vừa đủ, màu trầm vừa đủ. Nhìn tổng thể bức tranh, dù tranh thờ hay tranh trang trí cũng khiến người xem thấy thư thái tâm hồn. Vẻ đẹp của nó tuy sắc sảo nhưng không hợm mình, cố tình làm duyên một cách cầu kì. Đó là lí do vì sao ngày trước người từ các tỉnh đổ xô về tìm nhà tôi để mua tranh cho bằng được. Có khi họ phải ở lại gần tuần lễ để chờ má vẽ xong vì số lượng tranh khá nhiều. Bây giờ chỉ có những người dân thuộc vùng sâu xa hoặc các phòng triển lãm mới dùng tranh kiếng mà thôi. Vì giá tranh kiếng vừa mắc vừa không thời thượng như sơn dầu, tranh lụa, hay tranh chữ thập.
Biết không thể sống mãi bằng nghề vẽ tranh kiếng, má xoay sở đủ nghề lặt vặt khác để phụ ba tôi những ngày mưa không chạy xe ôm được. Khi vào mùa, má lãnh ớt về nhà lặt cuống cho mấy người hàng rau cải, cả ngày cũng chưa tới tám mươi ngàn. Cái nghề vặt này dù sao cũng đã cứu đói cho mấy bà nội trợ trong xóm tránh được thời gian nhàn rỗi. Mấy ngày đầu, do chưa quen với cái nóng và vị nồng của ớt, tay má đỏ tấy lên, không còn biết cảm giác nữa. Cái màu vàng đỏ của thứ ớt chín thối đã nhuốm vào lòng bàn tay. Có làm sao cũng không hết được. Má cười lạc quan: “Có hề hấn gì đâu bây. Tao vẫn vẽ tranh kiếng ngon lành được mà”. Rồi hết mùa ớt nhưng việc bán tranh kiếng cũng không khả quan hơn. Những ngày đó, vợ chồng con cái nhìn nhau buồn nhưng không nói…
Tranh kiếng trở nên hiếm người mua nhưng má vẫn vẽ. Dường như đã thành nghiện mất rồi, đôi ba tháng ít nhất cũng phải một bức cho thỏa cơn khát. Những bức đó, dù có người muốn mua nhưng má không còn muốn bán nữa. Đôi khi người ta buộc phải nương vào nghệ thuật để mà sinh nhai nhưng lòng tự trọng cần có của một người làm nghề chân chính sẽ không bao giờ biến lợi nhuận thành mục đích cuối cùng của nghệ thuật. Má tôi là người như thế. Tôi vẫn hay thầm tiếc giá mà má được học vẽ một cách bài bản, hàn lâm hơn thì hoa tay của bà không chỉ dừng lại là thợ vẽ bình thường, phải là một họa sĩ mới xứng tầm.
Sau này, má chỉ vẽ độc nhất loại tranh chùa chiền xây theo kiến trúc của đồng bào Khơ-me. Màu sắc tranh kiếng phần nhiều là gam màu nóng, tươi roi rói. Cho nên, những ngôi chùa của người Khơ-me khi được vẽ trên kiếng càng sặc sỡ ánh vàng. Nó không nguy nga như kiểu cung điện phương Tây, không quá điềm đạm như nhiều kiến trúc chùa chiền phổ biến khác. Nó có một nét uy nghiêm và thần bí rất đáng tự hào. Bởi nó không thích trừu tượng hóa bản thân mình. Mọi thứ đều rõ ràng cụ thể. Nhưng chắc gì người ta đã hiểu hết cái phần bên trong nó.
***
Chiếc xe khách cà tang nổ máy phành phành như đánh thức cả một vùng biên yên tĩnh trong buổi sớm mai. Ngoài cửa xe, không khí trong lành đến mê say. Những hàng cây thốt nốt xanh tít tắp, đứng cúi đầu ngoan ngoãn chào ngày mới bên cạnh những ô ruộng xanh mát mắt. Tôi hít một hơi thật sâu như cố tận hưởng cho bằng hết sự thanh bình của làng quê. Cảm giác ấy ngấm dần vào suy nghĩ của tôi. Bằng một sự mê hoặc kì lạ của cảnh quê, tôi nhanh chóng chìm sâu vào giấc ngủ để kịp lấy tinh thần cho những ngày sắp tới sống gà gật ở xứ người. Và tôi gọi Sài Gòn là bức tranh trừu tượng lớn nhất mà tham vọng của tôi đã phác họa.
Đây là lần thứ hai, tôi có ý định trở về sống hẳn ở quê nhưng rồi không biết cái gì ràng buộc tôi đến mức hoang mang thế này. Lần này cũng vậy, tôi trở về thăm nhà và giấu kín ý định về ở hẳn. Ba với chị Hai khuyên tôi hết lời lẽ đừng chơi trò lô tô với số phận nữa. Tôi chỉ nói: Ráng đợi thêm hai năm nữa thì có thể xây ngôi nhà mới cho ba, chuộc lại công đất đã cố cách bốn năm khi cả nhà vét tiền cho tôi đi tìm ước mơ thật sự của đời mình, với lại có thể mở một hiệu may nho nhỏ cho chị Hai ở ngay chợ thị trấn. Ba và chị nghe tôi nói có vẻ hợp lí nên không muốn níu kéo tôi nữa. Tôi xa nhà đã lâu, có thêm vài năm nữa cũng không hề hấn gì. Họ đã yên tâm hơn nên ý bảo: “Út đi lần này ráng giữ gìn sức khỏe, ra giêng, đám giỗ nội, Út nhớ về nữa nghen!”. Còn má thì lạnh lùng miệt mài ngồi vẽ chùa chiền trên tranh kiếng. Má dừng cọ rồi nói thật nhanh với tôi: “Tùy con! Khi nào mệt thì về đây. Miễn sao bây đừng có hối hận là được”. Tôi biết má đang giận nhưng biết làm sao được, bức tranh trừu tượng trong óc tôi thật sự rất khó hiểu nhưng quả thật vô cùng hấp dẫn. Tôi muốn một lần trong đời được tìm hiểu nó. “Má ơi, xin má đừng giận con nghen má. Con đi rồi con sẽ về nhanh thôi. Con yêu nghề vẽ nhưng con không muốn mình chỉ là người thợ vẽ tầm thường. Mong má hãy hiểu cho con!”. Đó là vài dòng ngắn ngủi tôi viết gửi lại cho má. Vì đêm đó má ngồi vẽ thâu đêm. Má cũng không dặn dò tỉ mỉ như mọi khi tôi chuẩn bị trở lại Sài Gòn. Mấy ngày hôm sau, tôi nhận được tin nhắn của chị Hai gửi: “Út ơi, ngộ lắm, tối hôm trước lúc Út đi, lần đầu tiên, chị mới được thấy má vẽ trận mưa lớn. Mưa mà má cũng vẽ được hén? Không hiểu nỗi má đang nghĩ gì?”. Chỉ có tôi là hiểu má đang suy nghĩ gì lúc đó. Tôi muốn khóc nhưng không nổi nữa “Má ơi, má đừng lo cho con. Khi nào con thỏa nguyện, con sẽ về bên má ngay mà. Mà cũng có thể, ra giêng đám giỗ nội, con về nhà luôn không đi nữa không chừng? Má đợi con nghen má”.
***
Ra giêng, đám giỗ nội tôi không về được vì bận đi tham dự triển lãm tranh trong thành phố. Tôi hẹn mọi người tháng sau. Rồi hết tháng sau, cũng không về được vì đi thực tế với mấy anh em trong hội ở một tỉnh vùng cao miền Bắc. Cảnh vật trên đó không thua gì ở quê tôi. Nó khiến người ta phải mê đắm lạ thường. Rất muốn vẽ ngay cảm giác đó lên giấy. Tô điểm sao cho đúng cái thần của cảm giác này. Nó trừu tượng vô cùng.
Đến ngày thứ tư, chúng tôi quay trở xuống thị trấn dưới đồng bằng để giao lưu với anh em họa sĩ của thị trấn và sẵn tiện mua thêm một ít đồ dùng cá nhân. Loay hoay lục tiền trong cái túi cốc đeo chéo vai, tôi mới chợt “à” lên tiếng vì hiểu tại sao mấy ngày qua không thấy cái điện thoại nó kêu réo gì cả. Lúc đó, cô bạn chung đoàn lôi tôi xềnh xệch để chụp ảnh lưu niệm với cảnh đẹp không cưỡng nổi của xứ này. Và tôi quên mất ý định sẽ gọi về nhà cho má hay mình đã tới nơi an toàn như lời đã hứa.
Đến khi trở về phòng, mọi người trong đoàn đã chìm sâu vào giấc ngủ sau chặng đường vất vả vượt qua con dốc thậm thượt. Tôi nghe tiếng “bip” báo pin sạc điện thoại đầy. Theo quán tính, tôi nhắn nút “Mở” trên điện thoại thì thấy “một tin nhắn mới”. À, của chị Hai gửi, không biết là đã gửi khi nào đây.
“Chị gọi cho em rất nhiều lần nhưng không được. Em về nhà gấp. Má mất rồi”.
Trước mắt tôi hiện ra một bức tranh không hề trừu tượng…
L.K.N