TIN TỨC

Người mẹ đời thường trong văn xuôi nữ đương đại

Người đăng : phunghieu
Ngày đăng: 2022-04-04 00:28:29
mail facebook google pos stwis
1922 lượt xem

Những va chạm trong cuộc sống tạo ra nhiều chân lí khác với chân lí về sự cao cả, thiêng liêng của tình mẫu tử. Các nhà văn nữ là người lắng nghe sự va chạm ấy, đi đến tận cùng những tra vấn và tự tra vấn, những trăn trở sâu thẳm trong con người. 

Bên cạnh sự thiêng liêng, cao cả, tình mẫu tử cũng biểu hiện đa dạng, phức tạp. Trong văn xuôi đương đại, nơi một số tác phẩm, hình tượng người mẹ được đưa về những khuôn tấc của đời thường. Lặn ngụp sâu vào chính mình trong những hoàn cảnh sống cụ thể, cộng với sự quan sát những trải nghiệm của người cùng giới, hơn ai hết, các nhà văn nữ đã thể hiện tài tình những sắc thái này trên trang viết.

Không nhìn tình mẫu tử như là sự yêu thương mặc nhiên, một chiều, Nguyễn Thị Thu Huệ phơi trải đề tài này ở nhiều chiều kích, nhiều cung bậc cảm giác. Đó là nhân vật nữ đam mê lầm lạc, bị phản bội và phải sinh ra đứa con hoang. Nỗi đau uất càng sâu khi đứa con ấy mang gương mặt của người cha như sự hiện thân của quá khứ vĩnh viễn không thể xóa bỏ. Nhân vật người mẹ trong Hậu thiên đường đã đi qua những năm tháng dài bên cạnh đứa con gái bằng sự lạnh nhạt, hờ hững, đôi khi ghét bỏ và nhìn đứa con như một “chướng ngại vật cản trở trên đường đời”: “Tôi nuôi nó đầy đủ bằng vật chất nhưng không mấy khi chăm sóc bằng tình cảm. (…) Tôi và nó ít khi gặp nhau. Tôi đi làm. Nó đi học. Buổi chiều. Thỉnh thoảng tôi ăn cơm với nó. Buổi tối. Tôi thường vắng nhà. Nó có một khuôn mặt đợi chờ. Nó hay nhìn tôi bằng cái vẻ đợi chờ đó. Nếu tôi lạnh lùng thì nó lảng đi. Tôi vui và tỏ ý muốn gần vẻ mặt ấy thoắt biến mất, thay vào bằng khuôn mặt tràn trề hạnh phúc.”

Mười lăm trang của truyện ngắn Hậu thiên đường khắc họa bức chân dung tâm lí của người mẹ khá xa lạ với ý niệm mang tính kí hiệu về sự thiêng liêng và cao cả vốn trở thành một ước lệ khi chạm đến hình tượng nhân vật này. Một phức cảm không dễ thể hiện và bộc lộ của nhân vật xưng “tôi” chứa đựng sự hoà quyện giữa những sắc thái cảm xúc khác nhau, vừa yêu thương vừa ghẻ lạnh, vừa ích kỉ vừa vị tha, vừa kiêu hãnh lại đớn đau ân hận, giày vò và nuối tiếc, vừa giãi bày, bộc bạch lại vừa tự tra vấn, vừa thuộc về quá khứ lại nối dài, lan toả và chuyển biến trong hiện tại… Người mẹ đứng trên lằn ranh của những cảm xúc ấy, trong sự đồng hiện của mọi cung bậc, mọi không gian, mọi thời gian, đồng thời, cảm xúc và ý thức lại bắt buộc phá vỡ những lằn ranh ấy để cứu vãn hiện tại giữa ân hận muộn màng. Đứa con gái sinh ra từ cuộc tình lỡ lầm thơ dại mang gương mặt của người bố đã khiến cho người đàn bà trót làm mẹ suốt đời ám ảnh một nỗi căm hận không dứt với quá khứ và hiệu ứng của cảm giác ấy phóng chiếu lên thân phận đứa con: “Ngày ấy. Khi sung sướng. Chúng tôi chỉ nghĩ đến mình. Nhưng khi đau khổ. Tôi lại hay mang nó ra mà soi mà ngắm, rồi nhìn nó như chướng ngại vật cản trở tôi trên bước đường đời. Nó chẳng có tội gì. Nó là sản phẩm của nỗi đam mê. Ai sướng. Ai hạnh phúc. Nó không biết. Chỉ được biết và được hưởng nỗi cô đơn, nỗi dằn vặt mà thôi.”

Để diễn tả phức thể hoà trộn của cảm giác ấy, người viết phải có sự thẩm thấu tâm hồn với nhân vật cao độ, để nhân vật hiện ra nơi nội tại của chính nó và khiến người đọc thấu hiểu, cảm thông, hơn nữa, nhận ra một góc hiện thực trong đời sống con người, trong tình mẫu tử. Một người mẹ ích kỉ mà vẫn độ lượng yêu thương, lạnh lùng mà vẫn nồng nàn đến khắc khoải. Ngòi bút nhà văn phải lách sâu vào tận cội nguồn gốc rễ của phức cảm ấy, căng trải nó ra ở mọi góc độ, mọi khía cạnh để miêu tả hình tượng người mẹ hiện thực, không thánh hoá cũng không thú hoá mà thuộc về đúng nghĩa con người với bản năng xúc cảm và bản năng thương yêu cao cả.

Những cảm giác gần như “phản truyền thống” này của người mẹ lại rất thực trong đời sống. Nhà văn khám phá người mẹ trước hết ở góc độ một con người, một người phụ nữ với những bản năng yêu ghét tự nhiên chứ không phải là một người mẹ bị đóng khung bằng các chuẩn mực. Hoàn cảnh trớ trêu, khắc nghiệt của đời sống đã chi phối và tác động đến họ. Chính bản thân họ không có quyền được lựa chọn và buộc phải ứng xử theo bản tính con người: đau đớn và thù hận. Vì vậy, Nguyễn Ngọc Tư đã tái hiện bức chân dung hiện thực nghiệt ngã ở những vùng đất còn hoang dại và nghèo khó: người phụ nữ từng bị những gã đàn ông đầy dục vọng cưỡng bức, rất có thể sẽ tạo ra những “đứa trẻ tên Hận, tên Thù mang khuôn mặt rắp tâm” của đấng sinh thành trên cánh đồng bất tận của kiếp người (Cánh đồng bất tận).

Cùng điểm nhìn, Phan Thị Vàng Anh đã tinh tế khắc họa lại cả một tiến trình tâm lí của cô gái trẻ trong những ngày chờ đợi kết quả thực hư của cái thai sau một lần giao hoan. Bằng thiên tính làm mẹ vốn ngụ ẩn thường trực trong bản thể, Tuyền đã tưởng tượng ra cảnh tự tay nuôi nấng, chăm sóc đứa con. Thế nhưng, khi trí tưởng tượng chạm phải những khó khăn, trở ngại của cuộc sống, Tuyền rơi vào e dè, lo lắng, sợ hãi và bế tắc, nhất là lúc đối diện với tình huống bị người yêu bỏ rơi. Những xúc cảm trong cô gái không phải là một đường thẳng tịnh tiến giản đơn mà đi trên đường biên mong manh giữa các trạng thái đối lập theo hình xoắn ốc, pha lẫn vào nhau với sự biến động liên tục. Ý thức về trách nhiệm, tình thương yêu, nỗi sợ hãi mất tự do, những toan tính không lối thoát cho cuộc sống phía trước… khiến tình mẫu tử bắt đầu hình thành, nảy nở bỗng tan biến, rồi lại hiện hữu, trào dâng và trồi sụt liên tục: “Tuyền không chắc đã có đứa bé trong bụng chưa nhưng tình cảm dành cho nó đã bắt đầu phai nhạt. Bây giờ thì Tuyền không chắc mình có còn yêu đứa bé không nếu không có bố nó bên cạnh và chỉ còn nó như một cục nợ” (Có con).

Những va chạm trong cuộc sống tạo ra nhiều chân lí khác với chân lí về sự cao cả, thiêng liêng của tình mẫu tử. Các nhà văn nữ là người lắng nghe sự va chạm ấy, đi đến tận cùng những tra vấn và tự tra vấn, những trăn trở sâu thẳm trong con người. Lý Lan đã đặt ra song đề cho sự hi sinh khi đẩy nhân vật Quyên và người mẹ vào những xung đột không lối thoát. Có những va chạm tưởng chừng vặt vãnh, tủn mủn trong cuộc sống thường ngày nhưng hóa ra, khi nó lặp đi lặp lại và không thay đổi được thì bỗng phình to, khiến mọi thứ đứng trước nguy cơ đổ vỡ, mất mát. Thói quen ngăn nắp của người mẹ làm xáo trộn và gây hỏng hóc cho đời sống của người con khiến cô bức bối, ngột ngạt. Rơi vào tình huống ấy, nhân vật bắt đầu nảy sinh những nghi ngờ đối với các chân lí đã định sẵn: “Thật sự Quyên có yêu mẹ không? (…) Vậy thì tại sao hai mẹ con cứ làm khổ nhau?” (Mẹ và con). Tình cảm mẹ con của Quyên vẫn luôn được mọi người ca tụng vì mẹ Quyên, khi bị người tình bỏ rơi, đã sống đời cô độc để nuôi con, còn Quyên “vì không nỡ bỏ lại mẹ một mình” nên vẫn còn là cô gái lỡ thì chưa chồng. Trong con mắt của thế gian, họ đã hi sinh cuộc đời cho nhau. Thế nhưng, Quyên tự phản tỉnh cái chân lí cao đẹp ấy bằng sự thực rằng cô chưa lấy chồng vì “tình duyên lỡ dở”, “vì chưa thực sự yêu ai, yêu mãnh liệt để lấy làm chồng”. Và có thể người mẹ, trong quá khứ, cũng rơi vào tình huống tương tự. Một song đề hình thành khiến con người phải ngẫm nghĩ về các giá trị chuẩn và giá trị thực của đời sống: “Hồi trẻ Quyên nghĩ là sự hi sinh của mẹ là cao cả. Khi bước qua tuổi ba mươi, có lúc Quyên nghĩ mẹ có cần thiết phải hi sinh như vậy không. Người ta cần trung thực sống cuộc đời mình, hay cứ huyễn hoặc mình bằng cuộc sống cho người khác? Quyên đã nhận ra rằng khi một người biến người khác thành lẽ sống của mình thì đã chất một gánh nặng tồi tệ nhất lên vai người đó. Quyên càng ngày càng mệt mỏi với cái gánh nặng đó.”

Song đề của Quyên lại gần như trở thành phản đề tuôn chảy hối hả và không ngừng ám ảnh với nhân vật xưng “tôi” trong truyện ngắn Thành phố không mùa đông của Nguyễn Thị Thu Huệ khi nhận được lá thư chỉ mươi dòng của người mẹ. Một lá thư thông báo đầy đủ thông tin sự kiện và thông tin tình cảm khi quyết định chia tay của đôi vợ chồng khoác vẻ ngoài hạnh phúc sau bao năm “sống vì con”. Bao câu hỏi day dứt, lật ngược mọi chân lí, mọi giá trị về tình yêu, hạnh phúc và sự hi sinh được đặt ra đầy trăn trở: “Bố mẹ bây giờ đang tự sống cho mình! Thế nào là sống cho mình và sống cho mình thì khác sống cho người nhỉ? Bao năm nay, cứ cho là bố mẹ sống cho tôi, bố mẹ cũng có mất gì đâu? Tại sao lại sinh ra tôi trên đời, rồi lại phải sống vì tôi cơ chứ? Hay bố mẹ vin vào tôi như một thứ an ủi, một cứu cánh là họ cũng ghê lắm, giỏi giang lắm, họ phải như vậy là vì tôi?”

Như vậy, con người đã tự tạo ra các chuẩn mực giá trị hay bị những chuẩn mực giá trị đóng khuôn và cuốn xoáy vào? Đặt trong sự phức tạp, chằng chéo của hiện thực, mối quan hệ giữa người mẹ và đứa con đã bộc phát ra toàn bộ bản chất với sự đan xen, chuyển hóa của nhiều cung bậc, tính chất, trạng thái bên ngoài tính “ước lệ hóa” vốn được loài người định dạng sẵn. Trong phức thể phong phú ấy, tình mẫu tử không chỉ khuôn vào chính nó, không chỉ lấy nó làm cái đích duy nhất để miêu tả. Ở mức độ sâu hơn và khái quát hơn, từ mối quan hệ mẹ – con, các tác giả đã tái hiện cả mối quan hệ của con người nói chung. Đó là con người trong tính cá nhân, cá thể; con người của những tính cách, suy nghĩ và cảm xúc hiện thực; con người lựa chọn giữa bản thân và tha nhân…

Việc xây dựng người mẹ nhỏ bé, yếu đuối và bất lực cũng là sự co giãn thước tấc của hình tượng trong khuôn khổ hiện thực của chính nó. Người mẹ bao giờ cũng được xác định khi đặt trong quan hệ với đứa con. Điểm nhìn từ cảm hứng của cái thiêng luôn đặt người mẹ trong vị thế của sự sinh thành và dưỡng dục, nuôi nấng và che chở, một vị thế toàn năng: “Mẹ bao giờ cũng tìm ra được một cái gì trong những hoàn cảnh khắc nghiệt” (Tâm hồn mẹ – Nguyễn Huy Thiệp).

Thế nhưng, theo quy luật tất yếu của vận động, sự lớn dậy, vững vàng và độc lập của đứa con luôn tỉ lệ thuận với sự già cỗi, yếu ớt dần của người mẹ. Đến một lúc, họ hoán vị cho nhau và đứa con trở thành người chi phối, bảo bọc, còn người mẹ lại biến thành kẻ bị phụ thuộc, kiệt quệ.

Cảm hứng thương cảm gắn liền với cái bi khi tiếp cận hiện thực đời thường đã đưa ngòi bút của nhiều nhà văn đến chân dung người mẹ ở những ngày tháng cuối cuộc đời. Nguồn năng lượng thể xác cạn kiệt khiến họ trở thành chiếc bóng thầm lặng, xa hơn nữa là thành kẻ thừa thãi, và đau đớn hơn, thành chướng ngại vật trong cuộc sống đang rào rạt, tràn trề sinh lực của đứa con. Bà mẹ trở nên yếm thế, dồn ép mọi chuyển động của mình ngay cả lúc ăn, lúc ngủ, lúc thở về trạng thái tĩnh, khép nép và rúm ró để tránh va chạm gây nên đổ vỡ với những đứa con: “Nhưng cái lí ấy chỉ đủ sức bắt bà mẹ ngồi yên chớ không thuyết phục được tâm tư bà phải yên tĩnh. Bà nghĩ, không biết từ hồi nào cái bọn dưới quê cũng cùng một giọng với bọn ở thành, cái ngữ coi thường mọi cố gắng của bà mẹ chung quy cũng chỉ vì cuộc sống của chúng nó. (…) Nhưng nghĩ cho cùng chúng nó đều đã thành ông chủ bà chủ cả rồi, chúng cần được phán thế này thế nọ trong ngôi nhà của chúng” (Người của mỗi người – Dạ Ngân).

So sánh tác phẩm Người của mỗi người (Dạ Ngân) với Mẹ và con (Lý Lan), có thể thấy sự tương đồng khi tái hiện hiện thực. Ở điểm nhìn trần thuật hai chiều, cả khi tiêu điểm trần thuật là người mẹ (Người của mỗi người) hay là đứa con (Mẹ và con), những người mẹ già cỗi, yếu ớt đều tồn tại trong tình trạng cô độc, lạc lõng, rời rạc đến tận cùng và thậm chí, đối lập với đứa con của mình. Họ thu dần vào thái độ nhẫn nhục, cam chịu: “Bà lẳng lặng ngồi xuống chiếc ghế đặt cạnh kệ sách, đôi mắt cam chịu nhìn bức tường trống” (Mẹ và con); “Bà mẹ thấy mình bị xúc phạm nhưng bà chưa lần nào để lộ tâm trạng đó, bởi bà biết phận mình bây giờ là kẻ ăn theo trong nhà” (Người của mỗi người).

Một quy trình tâm lí diễn ra theo trình tự tất yếu. Ban đầu, những người mẹ gắng gượng kháng cự lại hoàn cảnh bằng đức hi sinh được gán cho họ từ quá khứ vàng son với đứa con. Họ giữ lại cho mình chút hào quang cuối của địa vị cao cả ngày xưa: “Bà không thèm chấp, ai lại đi chấp nhặt con cái mình” (Người của mỗi người); “Luôn luôn bà tự nhủ rằng nó là con gái của mình. (…) Bà nhủ là mình sẽ chịu đựng được, mình ráng chịu đựng đi, nó là con gái của mình” (Mẹ và con). Họ hoạt động bằng bộ máy cơ thể rệu rã với năng lượng của nguyên lí tình mẫu tử để trông chờ và khao khát bình yên, hạnh phúc cho mình, cho đứa con, để không trở thành kẻ thừa thãi: “Cái lí tình thương đang chỉ cho bà nhìn thấy bao nhiêu công việc mà bà phải thu xếp cho tinh tươm trong ngày tai họa này, cốt để làm hài lòng chúng nó” (Người của mỗi người); “Bà thường cố gắng tự suy diễn và nghĩ ra cái gì đó bà có thể làm để san sẻ hay để vui lòng con gái” (Mẹ và con). Rồi họ hành xử theo bản năng, rất thực, rất con người với ý nghĩ về sự trả thù bằng việc bỏ đi, bằng cái chết. Thế nhưng, cách hành xử nào cũng thất bại, một phần vì không có nơi nương tựa, một phần vì giằng xé lương tâm, sợ làm tổn thương đứa con. Mọi nỗ lực đều bị nén ép vào thế tuyệt vọng, những mâu thuẫn không thể hòa giải. Hình tượng người mẹ trở nên bất lực như “một chiến sĩ không vũ khí, không yên cương, không áo giáp”, và bị rút gọn lại, “bước đi lựng chựng như một đứa trẻ”, để rồi cuối cùng, bi kịch hóa trong diện mạo đầy chua xót: “Bà mẹ lò dò bước xuống, khật khừ không khác gì một bà lão ăn mày vì đói khát, nhọc mệt và đau nhức” (Người của mỗi người).

Hình tượng người mẹ trong văn học hôm nay đang dần bị lột bỏ những lớp áo thiêng liêng và hiện ra trong dáng vẻ hiện thực. Các nhà văn nữ để cho những người mẹ lầm lạc được cất lên tiếng nói giãi bày tâm tư sâu kín của mình, bộc bạch những ẩn ức mà họ phải nén chịu. Người mẹ luôn tồn tại với hai tư thế: tư thế con người cá nhân trong quan hệ với chính mình và tư thế người mẹ trong quan hệ với đứa con. Khi hai tư thế này đối nghịch nhau, họ rơi vào bi kịch của sự lựa chọn, sự được mất. Họ bị phán xét từ xã hội, từ chính đứa con và khát khao được minh giải. Trong những trang viết của mình, Dạ Ngân, Lý Lan, Nguyễn Thị Thu Huệ, Nguyễn Ngọc Tư và các nhà văn nữ khác hướng đến những hiện thực trong cuộc sống đời thường. Những ý nghĩa nhiều khi rải rác, âm thầm, mờ nhạt giữa cuộc sống bộn bề mà con người có lúc quên lãng hoặc không nhận ra, nhưng nhà văn lại nhận thấy và đánh thức nó bằng nghệ thuật ngôn từ.

 Hồ Khánh Vân/Vanvn

 

Bài viết liên quan

Xem thêm
Triệu Kim Loan - Khúc độc thoại xanh của hồng gai
Bài viết sâu sắc dưới đây của nhà văn Kao Sơn dành cho buổi ra mắt sách Chữ gọi mùa trăng - Tập thơ thứ 7 đánh dấu chặng đường chín muồi của nhà thơ Triệu Kim Loan
Xem thêm
Quan niệm của Xuân Diệu về thơ từ những câu chuyện đời thường
Sinh thời, theo thống kê của Mã Giáng Lân, thi sĩ Xuân Diệu đã có hơn 500 buổi bình thơ trước công chúng. Đây là hoạt động nghệ thuật mà hiếm có nhà thơ, nhà văn nào ở Việt Nam và cả trên thế giới có thể sánh được. Không chỉ trong nước, chính “ông Hoàng thơ tình” Xuân Diệu đã có công quảng bá thi ca Việt Nam ra thế giới, giúp độc giả nước ngoài biết đến Nguyễn Du, Nguyễn Trãi, Tú Xương, Hồ Xuân Hương…
Xem thêm
Hành trình nước - Bước chuyển mình của kẻ sĩ chu du
Với Hành trình nước, Vũ Mai Phong cho phép người đọc thám hiểm một cõi tâm hồn mình, để chiêm nghiệm, để cảm nhận sự chuyển hóa kỳ diệu của nước - từ giọt sương nhỏ bé hóa thành đại dương bao la, từ tâm hồn cá nhân hòa vào tính thiêng của Tổ quốc.
Xem thêm
Gió Phương Nam 4 - Những lời thơ chân thực
Trang thơ “Gió Phương Nam 4” dễ dàng gợi lại những bước chân đồng đội năm xưa – bước chân thời chiến, bước chân thời bình, mang theo niềm vui, nỗi nhớ và cả những nỗi buồn sâu lắng.
Xem thêm
“Bến nước kinh Cùng” - Bến đợi của ký ức và tình người…
“Giữa bao vội vã, còn mấy ai lắng lòng với những phận người quê mộc mạc?” - Chính từ trăn trở ấy, “Bến nước kinh Cùng” của nhà văn Nguyễn Lập Em được tìm đến như một lời nhắc nhở tha thiết, đưa ta trở về với đất và người Nam Bộ, nơi tình quê và tình người thấm đẫm trong từng trang viết.
Xem thêm
Người thơ xứ Quảng: “Ảo hương lãng đãng bên trời cũ”
Nhà thơ Xuân Trường - tên thật Nguyễn Trường - là một tâm hồn phiêu bạt. Ông sinh ngày 12/12/1949 (theo giấy khai sinh) nhưng thực tế là năm 1945 (tuổi Ất Dậu), tại xã Đại Phong, huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam.
Xem thêm
Nước sông Sa Lung chưng cất bầu rượu thơ
Nhà thơ Nguyễn Hữu Thắng lớn lên bên dòng sông Sa Lung xanh trong. Có phải dòng sông Sa Lung là dòng sông thơ ca của đất Rồng - Vĩnh Long?. Tuổi thơ anh vô tư ngụp lặn vẫy vùng bơi lội tắm mát trong dòng sông ấy, nên anh rất yêu thơ, tập tành sáng tác thơ và thành công thơ khá sớm.
Xem thêm
Cung ngà xưa – Tiếng vọng ký ức trong miền tiếp nhận hôm nay
Đặt trong bối cảnh văn hóa, “cung ngà” còn gợi đến truyền thống âm nhạc dân tộc, nơi tiếng đàn, tiếng sáo từng là phương tiện gắn kết cộng đồng. Người miền Trung – đặc biệt là Huế và xứ Quảng – vốn sống trong không gian khắc nghiệt, thường tìm đến âm nhạc như một nơi trú ngụ tinh thần. Vì vậy, bài thơ không chỉ là ký ức cá nhân, mà còn mang dấu vết của ký ức tập thể.
Xem thêm
“Công chúa Ngọc Anh – bể khổ kiếp nhân sinh”
Văn học lịch sử vốn được xem là mảng khó viết bởi vừa đảm bảo tính chính xác vừa phải tạo được tính hấp dẫn lôi cuốn. Người viết văn học lịch sử không thể xuyên tạc, tô vẽ hay làm méo mó đi nội dung câu chuyện. Chính vì khó viết nên văn học lịch sử luôn là đề tài thu hút nhiều người đọc, bởi đó là cơ hội để người đọc và người sáng tác chiêm nghiệm lại quá khứ, suy ngẫm về tương lai, trăn trở về những hưng thịnh của thời đại, là một dòng chảy làm tái sinh những giai thoại dựa trên sự kiện lịch sử. Người viết văn học lịch sử là người phục dựng lại những bí ẩn còn chìm sâu trong bức màn thời gian, làm sáng tỏ những giá trị nghệ thuật mang tính truyền thống hay tín ngưỡng.
Xem thêm
Nhẹ nhàng bài ca cuộc sống nơi “Những cơn mưa thu” của Thanh Tám
Thanh Tám, Hội viên Hội Văn học nghệ thuật Lai Châu là cây viết truyện ngắn khá quen thuộc với bạn đọc. Một số truyện ngắn của Thanh Tám đã được đăng tải trên các trang báo sang trọng Báo Văn nghệ, Trang báo điện tử Vanvn.vn của Hội Nhà văn Việt Nam. Một trong những truyện ngắn của em, tôi tin rằng nhiều người thiện cảm, đó là truyện ngắn Những cơn mưa thu. Một câu chuyện gọn gàng, xinh xắn, gợi trong lòng độc giả những ấm áp, yêu thương như giọng văn nhẹ nhàng, truyền cảm của tác giả vậy.
Xem thêm
Tượng đài một anh hùng
Trường ca Tiếng chim rừng và đất lửa Tây Ninh (NXB Quân đội nhân dân, 2025) của tác giả Châu La Việt đã kiến tạo thành công nhiều biểu tượng về cuộc kháng chiến chống Mỹ một cách hệ thống, đa dạng về cấu trúc, sâu sắc về ý nghĩa, giàu có về tín hiệu thẩm mỹ.
Xem thêm
Cô gái Quảng Trị với nồng cay tiêu Cùa
Đọc 14 bài bút ký của nữ nhà báo Đào Khoa Thư, trong tập bút ký “Mùa bình thường” in chung với nhà báo Đào Tâm Thanh, do Nxb Thuận Hóa ấn hành tháng 7 năm 2025, tôi thật sự khâm phục cách viết khoáng hoạt của cô gái trẻ. Không gian được đề cập là mảnh đất quê nhà thân thương và những đất nước mà cô đặt chân đến để học tập, công tác, giao lưu, trải nghiệm. Lời văn tươi mới tràn đầy cảm xúc, lối viết chân thực, cởi mở, ngắn gọn cho ta thấy bao điều mới mẻ. Đọc lần lượt từng bài bút ký, thật thích thú với bao điều hấp dẫn qua từng câu chuyện kể về cuộc sống đời thường và các sự kiện diễn ra rất bổ ích.
Xem thêm
Đọc thơ Phương Viên – Ba khúc tình, rụng và gặp gỡ
Bằng giọng văn tinh tế, giàu cảm xúc và với kiến văn sâu rộng, tác giả đã khẳng định: thơ Phương Viên là nơi “chữ rụng mà hồn nở hoa”, một giọng thơ biết lặng đi để người đọc còn nghe tiếng của yêu thương và hồi sinh. Văn chương TP. Hồ Chí Minh xin giới thiệu bài viết này tới bạn đọc.
Xem thêm
Hạt bụi lênh đênh – Từ đất Ý hóa kiếp thân thương dưới trời nam
Rơi ra từ căn phòng bài trí trang trọng của một tòa lâu đài cổ kính. “HẠT BỤI” kia đã chọn kiếp “LÊNH ĐÊNH” để rồi một ngày lưu dấu hồn trần nơi “quê người đất khách”. Hẳn là trong sự lựa chọn “nghịch thường” đó, hàm chứa một điều lớn lao địa cửu thiên trường nơi thân mệnh mong manh cánh chuồn. HẠT BỤI LÊNH ĐÊNH – ngay từ nhan đề… đã cho thấy sắc tính Á Đông thông dụng. Điều đặc biệt ở đây. Nó được viết bởi ELENA PUCILLO TRƯƠNG một nhà văn, một nhà Khoa học/ học giả Ngữ Văn của Tây Phương – Ý.
Xem thêm
Hoài niệm quê hương trong thơ Nguyễn Quang Thuyên
Nguyễn Quang Thuyên vốn là “dân xây dựng” - Giám đốc Vinaconex 3 Phú Thọ , quê Tam Nông, Phú Thọ. Ai từng gặp anh thời điểm hiện tại sẽ có thiện cảm bởi nụ cười có duyên, thân thiện. Ấy là Nguyễn Quang Thuyên của hôm nay, hay chí ít cũng là cảm nhận của tôi, rằng nhiều năm trước, gặp anh sẽ ngỡ anh khó tính, có sự bụi bặm phong trần của nghề nghiệp, có vẻ lạnh lùng và cảm giác khó gần. Anh là “dân ngoại đạo” nhưng đã 10 tập thơ được xuất bản. Tập thơ “Đưa em về quê nội”, NXB Hội Nhà văn 2024 của anh vừa đạt giải A của Hội Liên hiệp văn học nghệ thuật Phú Thọ (Giải thưởng hàng năm, năm 2024).
Xem thêm
Khoảng trống trong thơ đương đại
Sang giai đoạn thơ hiện đại, đặc biệt từ thời kỳ Đổi Mới (1986) đến nay, dưới ảnh hưởng của thơ tự do, thơ thị giác, thơ hậu hiện đại,… khoảng trống được vận dụng đa dạng hơn: là dấu hiệu cấu trúc, chiến lược gợi mở ý nghĩa, cũng là phương tiện giải cấu trúc câu chữ. Việc nhận diện, phân loại và giải thích cơ chế thẩm mỹ của khoảng trống vì vậy cần được đặt trong dòng chảy lịch sử rộng hơn – từ các quy phạm cổ điển đến những cách tân hiện đại – nhằm làm rõ lý do và cơ chế khiến “sự im lặng” trở thành tiếng nói quan trọng trong thơ.
Xem thêm
Triệu Kim Loan – nỗi mình bộc bạch cùng trăng
Một bài viết chân thành, giàu rung cảm của Ngô Minh Oanh về tập thơ Chữ gọi mùa trăng của Triệu Kim Loan.
Xem thêm
Phan Nhật Tiến - Thời cầm bút nói về thời cầm súng
Bài viết của Trần Hóa về tập thơ mới của Phan Nhật Tiến
Xem thêm
Nắng xanh pha hương giọt mật đầy
Văn Chương TP.HCM xin giới thiệu bài của Tuấn Trần.
Xem thêm
Cảm nhận tác phẩm “Mật ngữ đen trắng”
Bài viết của nhà thơ Huỳnh Tấn Bảo từ Bà Rịa - Vũng Tàu
Xem thêm