TIN TỨC

Người mẹ đời thường trong văn xuôi nữ đương đại

Người đăng : phunghieu
Ngày đăng:
mail facebook google pos stwis
706 lượt xem

Những va chạm trong cuộc sống tạo ra nhiều chân lí khác với chân lí về sự cao cả, thiêng liêng của tình mẫu tử. Các nhà văn nữ là người lắng nghe sự va chạm ấy, đi đến tận cùng những tra vấn và tự tra vấn, những trăn trở sâu thẳm trong con người. 

Bên cạnh sự thiêng liêng, cao cả, tình mẫu tử cũng biểu hiện đa dạng, phức tạp. Trong văn xuôi đương đại, nơi một số tác phẩm, hình tượng người mẹ được đưa về những khuôn tấc của đời thường. Lặn ngụp sâu vào chính mình trong những hoàn cảnh sống cụ thể, cộng với sự quan sát những trải nghiệm của người cùng giới, hơn ai hết, các nhà văn nữ đã thể hiện tài tình những sắc thái này trên trang viết.

Không nhìn tình mẫu tử như là sự yêu thương mặc nhiên, một chiều, Nguyễn Thị Thu Huệ phơi trải đề tài này ở nhiều chiều kích, nhiều cung bậc cảm giác. Đó là nhân vật nữ đam mê lầm lạc, bị phản bội và phải sinh ra đứa con hoang. Nỗi đau uất càng sâu khi đứa con ấy mang gương mặt của người cha như sự hiện thân của quá khứ vĩnh viễn không thể xóa bỏ. Nhân vật người mẹ trong Hậu thiên đường đã đi qua những năm tháng dài bên cạnh đứa con gái bằng sự lạnh nhạt, hờ hững, đôi khi ghét bỏ và nhìn đứa con như một “chướng ngại vật cản trở trên đường đời”: “Tôi nuôi nó đầy đủ bằng vật chất nhưng không mấy khi chăm sóc bằng tình cảm. (…) Tôi và nó ít khi gặp nhau. Tôi đi làm. Nó đi học. Buổi chiều. Thỉnh thoảng tôi ăn cơm với nó. Buổi tối. Tôi thường vắng nhà. Nó có một khuôn mặt đợi chờ. Nó hay nhìn tôi bằng cái vẻ đợi chờ đó. Nếu tôi lạnh lùng thì nó lảng đi. Tôi vui và tỏ ý muốn gần vẻ mặt ấy thoắt biến mất, thay vào bằng khuôn mặt tràn trề hạnh phúc.”

Mười lăm trang của truyện ngắn Hậu thiên đường khắc họa bức chân dung tâm lí của người mẹ khá xa lạ với ý niệm mang tính kí hiệu về sự thiêng liêng và cao cả vốn trở thành một ước lệ khi chạm đến hình tượng nhân vật này. Một phức cảm không dễ thể hiện và bộc lộ của nhân vật xưng “tôi” chứa đựng sự hoà quyện giữa những sắc thái cảm xúc khác nhau, vừa yêu thương vừa ghẻ lạnh, vừa ích kỉ vừa vị tha, vừa kiêu hãnh lại đớn đau ân hận, giày vò và nuối tiếc, vừa giãi bày, bộc bạch lại vừa tự tra vấn, vừa thuộc về quá khứ lại nối dài, lan toả và chuyển biến trong hiện tại… Người mẹ đứng trên lằn ranh của những cảm xúc ấy, trong sự đồng hiện của mọi cung bậc, mọi không gian, mọi thời gian, đồng thời, cảm xúc và ý thức lại bắt buộc phá vỡ những lằn ranh ấy để cứu vãn hiện tại giữa ân hận muộn màng. Đứa con gái sinh ra từ cuộc tình lỡ lầm thơ dại mang gương mặt của người bố đã khiến cho người đàn bà trót làm mẹ suốt đời ám ảnh một nỗi căm hận không dứt với quá khứ và hiệu ứng của cảm giác ấy phóng chiếu lên thân phận đứa con: “Ngày ấy. Khi sung sướng. Chúng tôi chỉ nghĩ đến mình. Nhưng khi đau khổ. Tôi lại hay mang nó ra mà soi mà ngắm, rồi nhìn nó như chướng ngại vật cản trở tôi trên bước đường đời. Nó chẳng có tội gì. Nó là sản phẩm của nỗi đam mê. Ai sướng. Ai hạnh phúc. Nó không biết. Chỉ được biết và được hưởng nỗi cô đơn, nỗi dằn vặt mà thôi.”

Để diễn tả phức thể hoà trộn của cảm giác ấy, người viết phải có sự thẩm thấu tâm hồn với nhân vật cao độ, để nhân vật hiện ra nơi nội tại của chính nó và khiến người đọc thấu hiểu, cảm thông, hơn nữa, nhận ra một góc hiện thực trong đời sống con người, trong tình mẫu tử. Một người mẹ ích kỉ mà vẫn độ lượng yêu thương, lạnh lùng mà vẫn nồng nàn đến khắc khoải. Ngòi bút nhà văn phải lách sâu vào tận cội nguồn gốc rễ của phức cảm ấy, căng trải nó ra ở mọi góc độ, mọi khía cạnh để miêu tả hình tượng người mẹ hiện thực, không thánh hoá cũng không thú hoá mà thuộc về đúng nghĩa con người với bản năng xúc cảm và bản năng thương yêu cao cả.

Những cảm giác gần như “phản truyền thống” này của người mẹ lại rất thực trong đời sống. Nhà văn khám phá người mẹ trước hết ở góc độ một con người, một người phụ nữ với những bản năng yêu ghét tự nhiên chứ không phải là một người mẹ bị đóng khung bằng các chuẩn mực. Hoàn cảnh trớ trêu, khắc nghiệt của đời sống đã chi phối và tác động đến họ. Chính bản thân họ không có quyền được lựa chọn và buộc phải ứng xử theo bản tính con người: đau đớn và thù hận. Vì vậy, Nguyễn Ngọc Tư đã tái hiện bức chân dung hiện thực nghiệt ngã ở những vùng đất còn hoang dại và nghèo khó: người phụ nữ từng bị những gã đàn ông đầy dục vọng cưỡng bức, rất có thể sẽ tạo ra những “đứa trẻ tên Hận, tên Thù mang khuôn mặt rắp tâm” của đấng sinh thành trên cánh đồng bất tận của kiếp người (Cánh đồng bất tận).

Cùng điểm nhìn, Phan Thị Vàng Anh đã tinh tế khắc họa lại cả một tiến trình tâm lí của cô gái trẻ trong những ngày chờ đợi kết quả thực hư của cái thai sau một lần giao hoan. Bằng thiên tính làm mẹ vốn ngụ ẩn thường trực trong bản thể, Tuyền đã tưởng tượng ra cảnh tự tay nuôi nấng, chăm sóc đứa con. Thế nhưng, khi trí tưởng tượng chạm phải những khó khăn, trở ngại của cuộc sống, Tuyền rơi vào e dè, lo lắng, sợ hãi và bế tắc, nhất là lúc đối diện với tình huống bị người yêu bỏ rơi. Những xúc cảm trong cô gái không phải là một đường thẳng tịnh tiến giản đơn mà đi trên đường biên mong manh giữa các trạng thái đối lập theo hình xoắn ốc, pha lẫn vào nhau với sự biến động liên tục. Ý thức về trách nhiệm, tình thương yêu, nỗi sợ hãi mất tự do, những toan tính không lối thoát cho cuộc sống phía trước… khiến tình mẫu tử bắt đầu hình thành, nảy nở bỗng tan biến, rồi lại hiện hữu, trào dâng và trồi sụt liên tục: “Tuyền không chắc đã có đứa bé trong bụng chưa nhưng tình cảm dành cho nó đã bắt đầu phai nhạt. Bây giờ thì Tuyền không chắc mình có còn yêu đứa bé không nếu không có bố nó bên cạnh và chỉ còn nó như một cục nợ” (Có con).

Những va chạm trong cuộc sống tạo ra nhiều chân lí khác với chân lí về sự cao cả, thiêng liêng của tình mẫu tử. Các nhà văn nữ là người lắng nghe sự va chạm ấy, đi đến tận cùng những tra vấn và tự tra vấn, những trăn trở sâu thẳm trong con người. Lý Lan đã đặt ra song đề cho sự hi sinh khi đẩy nhân vật Quyên và người mẹ vào những xung đột không lối thoát. Có những va chạm tưởng chừng vặt vãnh, tủn mủn trong cuộc sống thường ngày nhưng hóa ra, khi nó lặp đi lặp lại và không thay đổi được thì bỗng phình to, khiến mọi thứ đứng trước nguy cơ đổ vỡ, mất mát. Thói quen ngăn nắp của người mẹ làm xáo trộn và gây hỏng hóc cho đời sống của người con khiến cô bức bối, ngột ngạt. Rơi vào tình huống ấy, nhân vật bắt đầu nảy sinh những nghi ngờ đối với các chân lí đã định sẵn: “Thật sự Quyên có yêu mẹ không? (…) Vậy thì tại sao hai mẹ con cứ làm khổ nhau?” (Mẹ và con). Tình cảm mẹ con của Quyên vẫn luôn được mọi người ca tụng vì mẹ Quyên, khi bị người tình bỏ rơi, đã sống đời cô độc để nuôi con, còn Quyên “vì không nỡ bỏ lại mẹ một mình” nên vẫn còn là cô gái lỡ thì chưa chồng. Trong con mắt của thế gian, họ đã hi sinh cuộc đời cho nhau. Thế nhưng, Quyên tự phản tỉnh cái chân lí cao đẹp ấy bằng sự thực rằng cô chưa lấy chồng vì “tình duyên lỡ dở”, “vì chưa thực sự yêu ai, yêu mãnh liệt để lấy làm chồng”. Và có thể người mẹ, trong quá khứ, cũng rơi vào tình huống tương tự. Một song đề hình thành khiến con người phải ngẫm nghĩ về các giá trị chuẩn và giá trị thực của đời sống: “Hồi trẻ Quyên nghĩ là sự hi sinh của mẹ là cao cả. Khi bước qua tuổi ba mươi, có lúc Quyên nghĩ mẹ có cần thiết phải hi sinh như vậy không. Người ta cần trung thực sống cuộc đời mình, hay cứ huyễn hoặc mình bằng cuộc sống cho người khác? Quyên đã nhận ra rằng khi một người biến người khác thành lẽ sống của mình thì đã chất một gánh nặng tồi tệ nhất lên vai người đó. Quyên càng ngày càng mệt mỏi với cái gánh nặng đó.”

Song đề của Quyên lại gần như trở thành phản đề tuôn chảy hối hả và không ngừng ám ảnh với nhân vật xưng “tôi” trong truyện ngắn Thành phố không mùa đông của Nguyễn Thị Thu Huệ khi nhận được lá thư chỉ mươi dòng của người mẹ. Một lá thư thông báo đầy đủ thông tin sự kiện và thông tin tình cảm khi quyết định chia tay của đôi vợ chồng khoác vẻ ngoài hạnh phúc sau bao năm “sống vì con”. Bao câu hỏi day dứt, lật ngược mọi chân lí, mọi giá trị về tình yêu, hạnh phúc và sự hi sinh được đặt ra đầy trăn trở: “Bố mẹ bây giờ đang tự sống cho mình! Thế nào là sống cho mình và sống cho mình thì khác sống cho người nhỉ? Bao năm nay, cứ cho là bố mẹ sống cho tôi, bố mẹ cũng có mất gì đâu? Tại sao lại sinh ra tôi trên đời, rồi lại phải sống vì tôi cơ chứ? Hay bố mẹ vin vào tôi như một thứ an ủi, một cứu cánh là họ cũng ghê lắm, giỏi giang lắm, họ phải như vậy là vì tôi?”

Như vậy, con người đã tự tạo ra các chuẩn mực giá trị hay bị những chuẩn mực giá trị đóng khuôn và cuốn xoáy vào? Đặt trong sự phức tạp, chằng chéo của hiện thực, mối quan hệ giữa người mẹ và đứa con đã bộc phát ra toàn bộ bản chất với sự đan xen, chuyển hóa của nhiều cung bậc, tính chất, trạng thái bên ngoài tính “ước lệ hóa” vốn được loài người định dạng sẵn. Trong phức thể phong phú ấy, tình mẫu tử không chỉ khuôn vào chính nó, không chỉ lấy nó làm cái đích duy nhất để miêu tả. Ở mức độ sâu hơn và khái quát hơn, từ mối quan hệ mẹ – con, các tác giả đã tái hiện cả mối quan hệ của con người nói chung. Đó là con người trong tính cá nhân, cá thể; con người của những tính cách, suy nghĩ và cảm xúc hiện thực; con người lựa chọn giữa bản thân và tha nhân…

Việc xây dựng người mẹ nhỏ bé, yếu đuối và bất lực cũng là sự co giãn thước tấc của hình tượng trong khuôn khổ hiện thực của chính nó. Người mẹ bao giờ cũng được xác định khi đặt trong quan hệ với đứa con. Điểm nhìn từ cảm hứng của cái thiêng luôn đặt người mẹ trong vị thế của sự sinh thành và dưỡng dục, nuôi nấng và che chở, một vị thế toàn năng: “Mẹ bao giờ cũng tìm ra được một cái gì trong những hoàn cảnh khắc nghiệt” (Tâm hồn mẹ – Nguyễn Huy Thiệp).

Thế nhưng, theo quy luật tất yếu của vận động, sự lớn dậy, vững vàng và độc lập của đứa con luôn tỉ lệ thuận với sự già cỗi, yếu ớt dần của người mẹ. Đến một lúc, họ hoán vị cho nhau và đứa con trở thành người chi phối, bảo bọc, còn người mẹ lại biến thành kẻ bị phụ thuộc, kiệt quệ.

Cảm hứng thương cảm gắn liền với cái bi khi tiếp cận hiện thực đời thường đã đưa ngòi bút của nhiều nhà văn đến chân dung người mẹ ở những ngày tháng cuối cuộc đời. Nguồn năng lượng thể xác cạn kiệt khiến họ trở thành chiếc bóng thầm lặng, xa hơn nữa là thành kẻ thừa thãi, và đau đớn hơn, thành chướng ngại vật trong cuộc sống đang rào rạt, tràn trề sinh lực của đứa con. Bà mẹ trở nên yếm thế, dồn ép mọi chuyển động của mình ngay cả lúc ăn, lúc ngủ, lúc thở về trạng thái tĩnh, khép nép và rúm ró để tránh va chạm gây nên đổ vỡ với những đứa con: “Nhưng cái lí ấy chỉ đủ sức bắt bà mẹ ngồi yên chớ không thuyết phục được tâm tư bà phải yên tĩnh. Bà nghĩ, không biết từ hồi nào cái bọn dưới quê cũng cùng một giọng với bọn ở thành, cái ngữ coi thường mọi cố gắng của bà mẹ chung quy cũng chỉ vì cuộc sống của chúng nó. (…) Nhưng nghĩ cho cùng chúng nó đều đã thành ông chủ bà chủ cả rồi, chúng cần được phán thế này thế nọ trong ngôi nhà của chúng” (Người của mỗi người – Dạ Ngân).

So sánh tác phẩm Người của mỗi người (Dạ Ngân) với Mẹ và con (Lý Lan), có thể thấy sự tương đồng khi tái hiện hiện thực. Ở điểm nhìn trần thuật hai chiều, cả khi tiêu điểm trần thuật là người mẹ (Người của mỗi người) hay là đứa con (Mẹ và con), những người mẹ già cỗi, yếu ớt đều tồn tại trong tình trạng cô độc, lạc lõng, rời rạc đến tận cùng và thậm chí, đối lập với đứa con của mình. Họ thu dần vào thái độ nhẫn nhục, cam chịu: “Bà lẳng lặng ngồi xuống chiếc ghế đặt cạnh kệ sách, đôi mắt cam chịu nhìn bức tường trống” (Mẹ và con); “Bà mẹ thấy mình bị xúc phạm nhưng bà chưa lần nào để lộ tâm trạng đó, bởi bà biết phận mình bây giờ là kẻ ăn theo trong nhà” (Người của mỗi người).

Một quy trình tâm lí diễn ra theo trình tự tất yếu. Ban đầu, những người mẹ gắng gượng kháng cự lại hoàn cảnh bằng đức hi sinh được gán cho họ từ quá khứ vàng son với đứa con. Họ giữ lại cho mình chút hào quang cuối của địa vị cao cả ngày xưa: “Bà không thèm chấp, ai lại đi chấp nhặt con cái mình” (Người của mỗi người); “Luôn luôn bà tự nhủ rằng nó là con gái của mình. (…) Bà nhủ là mình sẽ chịu đựng được, mình ráng chịu đựng đi, nó là con gái của mình” (Mẹ và con). Họ hoạt động bằng bộ máy cơ thể rệu rã với năng lượng của nguyên lí tình mẫu tử để trông chờ và khao khát bình yên, hạnh phúc cho mình, cho đứa con, để không trở thành kẻ thừa thãi: “Cái lí tình thương đang chỉ cho bà nhìn thấy bao nhiêu công việc mà bà phải thu xếp cho tinh tươm trong ngày tai họa này, cốt để làm hài lòng chúng nó” (Người của mỗi người); “Bà thường cố gắng tự suy diễn và nghĩ ra cái gì đó bà có thể làm để san sẻ hay để vui lòng con gái” (Mẹ và con). Rồi họ hành xử theo bản năng, rất thực, rất con người với ý nghĩ về sự trả thù bằng việc bỏ đi, bằng cái chết. Thế nhưng, cách hành xử nào cũng thất bại, một phần vì không có nơi nương tựa, một phần vì giằng xé lương tâm, sợ làm tổn thương đứa con. Mọi nỗ lực đều bị nén ép vào thế tuyệt vọng, những mâu thuẫn không thể hòa giải. Hình tượng người mẹ trở nên bất lực như “một chiến sĩ không vũ khí, không yên cương, không áo giáp”, và bị rút gọn lại, “bước đi lựng chựng như một đứa trẻ”, để rồi cuối cùng, bi kịch hóa trong diện mạo đầy chua xót: “Bà mẹ lò dò bước xuống, khật khừ không khác gì một bà lão ăn mày vì đói khát, nhọc mệt và đau nhức” (Người của mỗi người).

Hình tượng người mẹ trong văn học hôm nay đang dần bị lột bỏ những lớp áo thiêng liêng và hiện ra trong dáng vẻ hiện thực. Các nhà văn nữ để cho những người mẹ lầm lạc được cất lên tiếng nói giãi bày tâm tư sâu kín của mình, bộc bạch những ẩn ức mà họ phải nén chịu. Người mẹ luôn tồn tại với hai tư thế: tư thế con người cá nhân trong quan hệ với chính mình và tư thế người mẹ trong quan hệ với đứa con. Khi hai tư thế này đối nghịch nhau, họ rơi vào bi kịch của sự lựa chọn, sự được mất. Họ bị phán xét từ xã hội, từ chính đứa con và khát khao được minh giải. Trong những trang viết của mình, Dạ Ngân, Lý Lan, Nguyễn Thị Thu Huệ, Nguyễn Ngọc Tư và các nhà văn nữ khác hướng đến những hiện thực trong cuộc sống đời thường. Những ý nghĩa nhiều khi rải rác, âm thầm, mờ nhạt giữa cuộc sống bộn bề mà con người có lúc quên lãng hoặc không nhận ra, nhưng nhà văn lại nhận thấy và đánh thức nó bằng nghệ thuật ngôn từ.

 Hồ Khánh Vân/Vanvn

 

Bài viết liên quan

Xem thêm
Nhà thơ Ngọc Khương vẫn giữ được một tâm hồn thơ trong trẻo
Nhà thơ Ngọc Khương sinh năm 1949 tại Quảng Bình. Mảnh đất Quảng Bình đã góp cho nền văn chương Việt Nam hiện đại nhiều tên tuổi như Lưu Trọng Lư, Xuân Hoàng, Lâm Thị Mỹ Dạ, Lê Xuân Đố, Hải Kỳ, Ngô Minh, Hoàng Vũ Thuật, Trần Quang Đạo…
Xem thêm
Hoàng Lan - Truyện ngắn Trần Thế Tuyển
Không nói chuyện không thể biết chị là người Việt. Mỗi sáng, tôi mở cửa mang rác ra vệ đường, nơi có thùng rác công cộng đều gặp chị. Là hàng xóm, nhà chị sát vách nhà con gái chúng tôi, nên tôi thấy chị cũng thường xuyên đổ rác.
Xem thêm
Mặn nồng một chút tình thơ với nhà giáo Phạm Như Vân
Rời chiến trường / Thầy về hậu phương/ với những vết thương đau nhức trên mình/ và một bên chân đứt lìa gửi lại/
Xem thêm
Trắng tay mình những cánh ngọc lan tang
Bài đăng Tạp chí Văn nghệ TP. Hồ Chí Minh
Xem thêm
Nguyễn Tấn On với tập Tiết tấu thơ
Nhận được tập sách Tiết tấu thơ của Nguyễn Tấn On gửi tặng vào một chiều cuối thu đã muộn, tôi vội mở ra và tìm đọc ngay bài thơ cùng tên. Tên tập thơ và những câu thơ trong bài thơ cùng tên với thi tập Tiết tấu thơ đã tạo cho tôi ấn tượng. Ở đó, hiển hiện tâm thế, tấm lòng, sự chân thành của một người yêu thơ và sống trọn vẹn cho thơ.
Xem thêm
Những vần thơ nẩy mầm đơm hoa theo dấu chân nhà thơ khoát áo lính
     Tôi cầm trong tay tập thơ “Quang Chuyền thơ và đời” điện thoại hỏi anh: “Đây có phải là tuyển tập thơ không anh”? Anh cười: “Cũng là gom các bài thơ viết cả đời lại thành một tập, vì mình nay cũng đã tới ngưỡng tuổi 80 rồi”. Cắm cúi đọc hết tập thơ,tôi mới hiểu ra đây gần như là tập nhật ký bằng thơ của nhà thơ Quang Chuyền.
Xem thêm
Trình Quang Phú - tầm nhìn trong kí sự
Nguồn: Tạp chí Văn nghệ quân đội
Xem thêm
Êm ả một nỗi buồn của Lê Hoàng Anh
Rút từ tập thơ “Hạt Thời Gian” của Lê Hoàng Anh
Xem thêm
Cảm nhận về tập phê bình văn học “Đi tìm hương sắc văn chương” của Nguyễn Thanh
“Hương là mùi thơm, sắc là vẻ đẹp”. “Đi tìm hương sắc văn chương” * chính là thấu cảm sự thanh cao (hương) và trác tuyệt (sắc) của văn chương. Điều gì làm cho đời người thêm phong phú, điều ấy chính là cái Đẹp. Nước ta tự hào là “Văn hiến chi bang” với một nền văn học thơm hương đậm sắc. Cái hương sắc ấy trường tồn trong nhiều thư tịch, gởi tấm lòng người viết để lại muôn đời. Nếu người xưa quan niệm trong sách có người ngọc (Thư trung hữu nữ nhan như ngọc), thì ngày nay Nguyễn Thanh lại tìm thấy “hương sắc” trong văn chương ! Gẫm lại, người đẹp cũng chính là hương sắc (Quốc sắc thiên hương).
Xem thêm
Lưu Quang Vũ- Để gió và tình yêu thổi mãi
Lưu Quang Vũ (1948-1988) là một nghệ sĩ tài năng trên nhiều lĩnh vực: thơ, văn, kịch, họa... ông được đánh giá là nhà viết kịch xuất sắc nhất của nền kịch Việt Nam hiên đại, bên cạnh đó ở lĩnh vực thơ ông cũng có những đóng góp giá trị.
Xem thêm
Hoàng Phủ Ngọc Tường – Người hái nỗi buồn trong cõi phù vân
Không phải ngẫu nhiên trong Tuyển tập Hoàng Phủ Ngọc Tường, tập 4 – Thơ (Nxb. Trẻ ấn hành, 2002), trong lời mở đầu ông đã xác quyết: “Mỗi người chỉ thực là chính mình trong căn nhà của nó. Thơ cũng vậy. Thơ cần phải trở về căn – nhà - ở - đời của nó là nỗi buồn. Một quyền của thi sĩ là quyền được buồn”. (1)
Xem thêm
Lưu Quang Vũ từng say đắm 3 Nàng Thơ
Công chúng ngưỡng mộ nhà viết kịch Lưu Quang Vũ (1948-1988) không chỉ bởi những vở diễn “Tôi và chúng ta”, “Hồn Trương Ba da hàng thịt”, “Tin ở hoa hồng”, “Lời thề thứ 9”, “Hoa cúc xanh trên đầm lầy”, “Lời nói dối cuối cùng”... có sức rung động mạnh mẽ, mà còn bởi trái tim đa cảm mà ông thổ lộ trong thơ “đã có lần tôi muốn nguôi yên/ khép cánh cửa lòng mình cho gió lặng/ nhưng vô ích làm sao quên được/ những yêu thương khao khát của đời tôi”.
Xem thêm
Quang Chuyền: Sáng một tấm lòng lành
Với nhà thơ Quang Chuyền, đã có rất nhiều báo, đài dựng chân dung, phỏng vấn, viết về ông và thơ của ông. Những trình bày của tôi hôm nay, chỉ là góp thêm một góc nhìn về một đời người, một đời thơ khá đồ sộ, một sự nghiệp thơ vững vàng, đáng ngưỡng mộ.
Xem thêm
Hồi ức chân thực của một người lính thời chống Mỹ cứu nước
Nhân đọc tập Ký - Tản văn Tìm dấu chân xưa của Trần Ngọc Phượng, Nxb Hội Nhà văn
Xem thêm
Tĩnh vật - Thơ
Bài đăng Văn nghệ số 33/2023
Xem thêm
Người suốt đời nhập cuộc thơ
Quang Chuyền ở Hội Văn Nghệ Việt Bắc ba năm, năm 1968 chích máu viết đơn xin đi bộ đội, ở binh chủng Thông tin cho tới ngày nghỉ hưu.
Xem thêm
Nguyễn Bính Hồng Cầu - Thức với miền xưa
Bài viết về tập thơ “Thức với miền xưa”, NXB Hội Nhà văn
Xem thêm