TIN TỨC

Nhà thơ Xuân Trường – mẫn cán và lãng tử

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2025-07-27 07:24:41
mail facebook google pos stwis
277 lượt xem

NGUYỄN VŨ TIỀM
(Đọc “Hai vệt nắng chiều”, thơ Xuân Trường, NXB Hội Nhà Văn 2018)

Nhà thơ Xuân Trường có sáng tác thơ và ít công bố ở Sài Gòn trước năm 1975. Anh hoạt động trong phong trào đấu tranh của sinh viên học sinh. Thơ anh theo trào lưu hiện thực pha chất bay bổng lãng mạn nên rất được các bạn trẻ ưa thich, dễ hòa nhập phong trào. Nay thì anh đã nghỉ hưu, sự say đắm thơ ca vẫn vẹn nguyên như trước mà còn có phần sâu sắc, giàu trải nghiệm. Dải đất Miền Trung và Tây Nguyên nơi anh sinh trưởng và gắn bó có mặt trong tập thơ ở mật độ khá cao làm nên sắc thái đặc biệt của tập thơ. Xuân Trường từng làm cán bộ cơ sở:

Đã bao năm ở huyện

Nay gửi nhớ về làng

Gửi hồn vào rừng núi

Gửi đời vào gió hoang.

(Kongchoro)

Ba dòng trên thể hiện khá rõ tình cảm của anh cán bộ mẫn cán gắn bó với làng bản, núi rừng. Câu thứ tư bỗng khác hẳn, không có anh cán bộ nào lại “gửi đời vào gió hoang”! Rõ là một anh nhà thơ máu lãng tử hào hoa không lẫn vào đâu được. Mẫn cán thì dễ gặp nhưng lãng tử thì gần đây hơi bị hiếm. Xuân Trường là vậy, trách nhiệm công dân kèm theo trách nhiệm thẩm mỹ, hai điều này hài hòa trong một con người không phải dễ chút nào. Đã có không ít trường hợp, một là, thơ bị rơi vào cổ động tuyên truyền, sơ lược giản đơn; hai là, thơ được, nhưng công việc thì… dở.

Vậy xin bạn cùng tôi hồi hộp chút xem Xuân Trường xử lý mối quan hệ giữa mẫn cán lãng tử này thế nào.

Những tên đất tên làng phố buôn rẫy được anh đưa vào thơ với tấm lòng tình cảm thương mến thiết tha.

Chợt con cá niên quẫy đuôi vào thơ

Hương vị đặc sản quê nhà

Cho ta lại thương về con cá bống Đại Lộc – Vu Gia.

(Mưa hạ Tam Kỳ)

Một cách tiếp cận hiện thực: “con cá niên quẫy đuôi vào thơ” khiến thơ xao động. “Cho ta lại thương về con cá bống Đại Lộc – Vu Gia”, từ hiện thực vào tác phẩm, từ tác phẩm tác động ra hiện thực một cách tự nhiên, con đường đi của nghệ thuật là vậy. Thời gian dài lăn lộn trong thực tiễn đời sống, gắn bó máu thịt với cuộc đời khiến Xuân Trường có được lợi thế. Có thể nói với người viết thì đây là vàng ròng quý báu.

Tôi muốn vẽ em trên phông chiều TNùng

Giữa đại ngàn cổ tích

Gùi cõng đầy nắng gió những ngàn năm.

(Chiều TNùng)

Đoạn thơ trên như một trích đoạn của bức tranh hoành tráng về con người và phong cảnh Tây Nguyên, vừa hoang sơ cổ đại vừa trẻ trung mới mẻ. “Gùi cõng đầy nắng gió”, nắng gió đựng đầy một gùi có vẻ “nhẹ tênh”, nhưng chỉ nhẹ về trọng lực nhưng ý nghĩa khái quát thì lại quá nặng, một kết hợp thực - ảo và do đó rất thơ. Thật thà quá dễ rơi vào tự nhiên chủ nghĩa, Xuân Trường biết rõ điều này, anh hay có những kết hợp từ kiểu ấy khá thành công. Nhưng ba chữ “những ngàn năm” thì hơi bị đại ngôn và sáo cũ, tiếc thay.

Nhưng anh tránh được điểm yếu đó trong trường hợp sau đây :

Em nhìn trong rượu có anh

Ngập ngừng chưa uống sợ thành ngày mai.

(Sao em uống rượu một mình)

Dòng trên, thơ ở mức độ khá. Nửa dòng dưới “ngập ngừng chưa uống”, bình thường. Nhưng “sợ thành ngày mai” thì là một phát kiến… giật mình. Tợp một ly rượu mà khoảnh khắc hiện tại trở thành ngày mai ư? Vô  lý. Nhưng rượu mà, nó sẽ dẫn ta đến đâu đố ai biết được. Viết ra cái điều khó nói này quả thật hiếm có. Thơ viết về rượu, cổ kim đông tây nhiều lắm, vậy mà Xuân Trường vẫn có được một tìm tòi độc đáo. Khá khen thay!

Đến câu thơ về em sau đây:

Em tơ lụa đến cả chiều cũng mỏng mảnh lưa thưa

Ai đã vàng thu sang kín đáo chỗ ta ngồi.

(Trở lại với mùa thu Phan Thiết)

“Em tơ lụa” là một kết hợp từ rất khá, và “đến cả chiều cũng mỏng mảnh lưa thưa” thì khéo và hay. Dòng thơ dưới “Ai đã vàng thu sang kín đáo chỗ ta ngồi”: tinh tế đến ảo diệu. Đọc câu này phải vỗ đùi đánh đét một cái mới đã! Thơ đạt đến độ này là rất khó, phải dày công tu luyện lắm mới thành chánh quả.

Trường hợp khác:

Em vẫn còn mãi trong tôi những gì dã mất

Tôi vẫn còn mãi trong em những cố ý vô tình.

(Thăm thẳm bờ xa)

Câu thơ vẻ như thiên về lý trí nhiều hơn tình cảm. Dòng trên là một nghịch lý: “những gì đã mất” mà sao lại “vẫn còn mãi”? Mới nghe thấy phi lý, nhưng suy ngẫm thì quả thật trong tình yêu có sự éo le, tưởng mất ở trong nhau rồi, hai người không đến được với nhau nữa (về hôn nhân) nhưng những kỷ niệm thì họ lưu giữ mãi trong lòng, sống để dạ, chết mang đi. Câu thơ thành chí lý và sâu sắc. Phi lý hình thức trong hợp lý nội dung. Nói thơ hay phải đạt tới sự phi lý là vậy. Thơ đương đại, hậu hiện đại thường vận dụng dạng thức này rất hiệu quả.

Tuổi ngoại lục tuần, Xuân Trường có những trăn trở:

Bình minh và hoàng hôn chất vấn nhau

Trong ta dữ dội

Thôi thì ta cứ chấp nhận niềm vui

Trời đất cho ta trong trận cuối.

(Trưa Đà Nẵng)

Ẩn dụ về cái mới và cái cũ: “bình minh và hoàng hôn”, luôn “chất vấn” nhau, thể hiện sự giằng xé trong tâm hồn. Trì trệ bảo thủ vốn là kẻ thù của lao động sáng tạo, ý thức được điều này không dễ, chiến thắng được bảo thủ trì trệ còn khó hơn và không ít người đã không thắng nổi. Khoảng cách của sự thành - bại chỉ bằng sợi tóc và nhận ra nó cũng không phải dễ, thường thì nó được che phủ bởi màn sương ảo tưởng. Mắc chứng bệnh này nhiều nhất có lẽ là những người làm thơ chăng? “Ra ngõ là gặp nhà thơ” vò đầu bứt tai nung nấu tác phẩm “để lại cho đời sau”! Nhiều lúc phải che miệng cười! Một điều nữa, khoảng cách giữa thơ và không thơ cũng chỉ bằng sợi tóc, rất nhiều trường hợp “giống như thơ” nhưng thực ra chỉ là văn vần. Phân biệt được sự khác nhau này cũng không phải dễ, căn bệnh ảo tưởng thường phát sinh từ đây. “Thôi thì ta cứ chấp nhận niềm vui/ Trời đất cho ta trong trận cuối” cũng là một cách tự răn mình để tránh rơi vào ảo tưởng. Nói vậy thôi, chứ khát vọng sáng tạo của thi nhân là không có điểm dừng. Đây là mâu thuẫn giữa cái hữu hạn (Trời cho) và vô hạn (lòng người) trong cõi nhân sinh mà văn nghệ sĩ nói chung (trong đó có nhà thơ) phải gánh chịu. Người nào nhận chân được điều này thì đỡ rơi vào hài kịch, bi kịch.

 Đọc Xuân Trường thấy rõ điều này, ấy là anh luôn trăn trở giữa cái mới và cái cũ trong thơ. Những giá trị ổn định và sự chuyển động thường nảy sinh mâu thuẫn cũng là lẽ thường. Không chịu yên vị mà luôn khát khao làm mới thơ mình là một phẩm chất đẹp. Đây là thử thách lớn với tất cả các nhà thơ, vũ môn này lúc nào cũng dựng lên ở trước mặt, có người vượt được và không ít người bị rớt lại, bỏ cuộc.

Tôi ngạc nhiên và thích thú câu này:

Em làm mới tôi bằng những nụ cười quê.

(Chiều quê)

Đối tượng sáng tạo (em) làm mới chủ thể (tôi) là một phát kiến hay, cũng là một cách thể hiện quan điểm nghệ thuật. Điều này tưởng đơn giản nhưng không dễ chút nào, không phải ai cũng thấy được cái đẹp, cái mới của “nụ cười quê”. Để rồi tiếp nhận, hóa giải nó thành nghệ thuật và làm cho thơ mình khác hơn, mới hơn là cả một quá trình gian nan vất vả… Sự kết hợp giữa chủ thể sáng tạo và đối tượng sáng tạo trong một khát khao thẩm mỹ khiến câu thơ vừa nghệ thuật vừa phảng phất chút ít chính luận.

Em vội vàng gùi sương lên nương lên rẫy

Thương chân trần gian khó một vùng sâu…

Có tiêng cười cứ chạm vào nhau leo dốc

Và tôi thở mùa bằng đôi mắt em nâu.

(Nhớ Daktopang)

Hai dòng đầu: hiện thực chuyển động; dòng thứ ba: thực - ảo song hành; dòng thứ tư: hiện thực - siêu thực cùng hòa nhau trong một lung linh kỳ ảo.

Em làm mới tôi bằng những nụ cười quê”.

“Và tôi thở mùa bằng đôi mắt em nâu”

Là hai câu thơ hay của nhà thơ Xuân Trường, tôi sẽ chọn vào tập “Nghìn câu thơ tài hoa Việt Nam” cùng với một số câu hay khác của anh.

Sự hồi hộp của bạn và tôi đến đây đã được giải tỏa: anh chàng cán bộ nhà thơ mẫn cánlãng tử đã hạ cánh an toàn ở một tỉnh Tây Nguyên cách nay ít năm rồi hạ sơn xách khăn gói cùng bầu rượu túi thơ về thành phố.

Viết đến đây tôi nhận được tin Xuân Trường vừa nhận giải thưởng thơ của Tạp chí Nhà văn & Tác phẩm, anh khoe tấm bằng rất đẹp trên facebook. Chúc mừng và chờ khao!

Bài viết liên quan

Xem thêm
Hành trình nước - Bước chuyển mình của kẻ sĩ chu du
Với Hành trình nước, Vũ Mai Phong cho phép người đọc thám hiểm một cõi tâm hồn mình, để chiêm nghiệm, để cảm nhận sự chuyển hóa kỳ diệu của nước - từ giọt sương nhỏ bé hóa thành đại dương bao la, từ tâm hồn cá nhân hòa vào tính thiêng của Tổ quốc.
Xem thêm
Gió Phương Nam 4 - Những lời thơ chân thực
Trang thơ “Gió Phương Nam 4” dễ dàng gợi lại những bước chân đồng đội năm xưa – bước chân thời chiến, bước chân thời bình, mang theo niềm vui, nỗi nhớ và cả những nỗi buồn sâu lắng.
Xem thêm
“Bến nước kinh Cùng” - Bến đợi của ký ức và tình người…
“Giữa bao vội vã, còn mấy ai lắng lòng với những phận người quê mộc mạc?” - Chính từ trăn trở ấy, “Bến nước kinh Cùng” của nhà văn Nguyễn Lập Em được tìm đến như một lời nhắc nhở tha thiết, đưa ta trở về với đất và người Nam Bộ, nơi tình quê và tình người thấm đẫm trong từng trang viết.
Xem thêm
Người thơ xứ Quảng: “Ảo hương lãng đãng bên trời cũ”
Nhà thơ Xuân Trường - tên thật Nguyễn Trường - là một tâm hồn phiêu bạt. Ông sinh ngày 12/12/1949 (theo giấy khai sinh) nhưng thực tế là năm 1945 (tuổi Ất Dậu), tại xã Đại Phong, huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam.
Xem thêm
Nước sông Sa Lung chưng cất bầu rượu thơ
Nhà thơ Nguyễn Hữu Thắng lớn lên bên dòng sông Sa Lung xanh trong. Có phải dòng sông Sa Lung là dòng sông thơ ca của đất Rồng - Vĩnh Long?. Tuổi thơ anh vô tư ngụp lặn vẫy vùng bơi lội tắm mát trong dòng sông ấy, nên anh rất yêu thơ, tập tành sáng tác thơ và thành công thơ khá sớm.
Xem thêm
Cung ngà xưa – Tiếng vọng ký ức trong miền tiếp nhận hôm nay
Đặt trong bối cảnh văn hóa, “cung ngà” còn gợi đến truyền thống âm nhạc dân tộc, nơi tiếng đàn, tiếng sáo từng là phương tiện gắn kết cộng đồng. Người miền Trung – đặc biệt là Huế và xứ Quảng – vốn sống trong không gian khắc nghiệt, thường tìm đến âm nhạc như một nơi trú ngụ tinh thần. Vì vậy, bài thơ không chỉ là ký ức cá nhân, mà còn mang dấu vết của ký ức tập thể.
Xem thêm
“Công chúa Ngọc Anh – bể khổ kiếp nhân sinh”
Văn học lịch sử vốn được xem là mảng khó viết bởi vừa đảm bảo tính chính xác vừa phải tạo được tính hấp dẫn lôi cuốn. Người viết văn học lịch sử không thể xuyên tạc, tô vẽ hay làm méo mó đi nội dung câu chuyện. Chính vì khó viết nên văn học lịch sử luôn là đề tài thu hút nhiều người đọc, bởi đó là cơ hội để người đọc và người sáng tác chiêm nghiệm lại quá khứ, suy ngẫm về tương lai, trăn trở về những hưng thịnh của thời đại, là một dòng chảy làm tái sinh những giai thoại dựa trên sự kiện lịch sử. Người viết văn học lịch sử là người phục dựng lại những bí ẩn còn chìm sâu trong bức màn thời gian, làm sáng tỏ những giá trị nghệ thuật mang tính truyền thống hay tín ngưỡng.
Xem thêm
Nhẹ nhàng bài ca cuộc sống nơi “Những cơn mưa thu” của Thanh Tám
Thanh Tám, Hội viên Hội Văn học nghệ thuật Lai Châu là cây viết truyện ngắn khá quen thuộc với bạn đọc. Một số truyện ngắn của Thanh Tám đã được đăng tải trên các trang báo sang trọng Báo Văn nghệ, Trang báo điện tử Vanvn.vn của Hội Nhà văn Việt Nam. Một trong những truyện ngắn của em, tôi tin rằng nhiều người thiện cảm, đó là truyện ngắn Những cơn mưa thu. Một câu chuyện gọn gàng, xinh xắn, gợi trong lòng độc giả những ấm áp, yêu thương như giọng văn nhẹ nhàng, truyền cảm của tác giả vậy.
Xem thêm
Tượng đài một anh hùng
Trường ca Tiếng chim rừng và đất lửa Tây Ninh (NXB Quân đội nhân dân, 2025) của tác giả Châu La Việt đã kiến tạo thành công nhiều biểu tượng về cuộc kháng chiến chống Mỹ một cách hệ thống, đa dạng về cấu trúc, sâu sắc về ý nghĩa, giàu có về tín hiệu thẩm mỹ.
Xem thêm
Cô gái Quảng Trị với nồng cay tiêu Cùa
Đọc 14 bài bút ký của nữ nhà báo Đào Khoa Thư, trong tập bút ký “Mùa bình thường” in chung với nhà báo Đào Tâm Thanh, do Nxb Thuận Hóa ấn hành tháng 7 năm 2025, tôi thật sự khâm phục cách viết khoáng hoạt của cô gái trẻ. Không gian được đề cập là mảnh đất quê nhà thân thương và những đất nước mà cô đặt chân đến để học tập, công tác, giao lưu, trải nghiệm. Lời văn tươi mới tràn đầy cảm xúc, lối viết chân thực, cởi mở, ngắn gọn cho ta thấy bao điều mới mẻ. Đọc lần lượt từng bài bút ký, thật thích thú với bao điều hấp dẫn qua từng câu chuyện kể về cuộc sống đời thường và các sự kiện diễn ra rất bổ ích.
Xem thêm
Đọc thơ Phương Viên – Ba khúc tình, rụng và gặp gỡ
Bằng giọng văn tinh tế, giàu cảm xúc và với kiến văn sâu rộng, tác giả đã khẳng định: thơ Phương Viên là nơi “chữ rụng mà hồn nở hoa”, một giọng thơ biết lặng đi để người đọc còn nghe tiếng của yêu thương và hồi sinh. Văn chương TP. Hồ Chí Minh xin giới thiệu bài viết này tới bạn đọc.
Xem thêm
Hạt bụi lênh đênh – Từ đất Ý hóa kiếp thân thương dưới trời nam
Rơi ra từ căn phòng bài trí trang trọng của một tòa lâu đài cổ kính. “HẠT BỤI” kia đã chọn kiếp “LÊNH ĐÊNH” để rồi một ngày lưu dấu hồn trần nơi “quê người đất khách”. Hẳn là trong sự lựa chọn “nghịch thường” đó, hàm chứa một điều lớn lao địa cửu thiên trường nơi thân mệnh mong manh cánh chuồn. HẠT BỤI LÊNH ĐÊNH – ngay từ nhan đề… đã cho thấy sắc tính Á Đông thông dụng. Điều đặc biệt ở đây. Nó được viết bởi ELENA PUCILLO TRƯƠNG một nhà văn, một nhà Khoa học/ học giả Ngữ Văn của Tây Phương – Ý.
Xem thêm
Hoài niệm quê hương trong thơ Nguyễn Quang Thuyên
Nguyễn Quang Thuyên vốn là “dân xây dựng” - Giám đốc Vinaconex 3 Phú Thọ , quê Tam Nông, Phú Thọ. Ai từng gặp anh thời điểm hiện tại sẽ có thiện cảm bởi nụ cười có duyên, thân thiện. Ấy là Nguyễn Quang Thuyên của hôm nay, hay chí ít cũng là cảm nhận của tôi, rằng nhiều năm trước, gặp anh sẽ ngỡ anh khó tính, có sự bụi bặm phong trần của nghề nghiệp, có vẻ lạnh lùng và cảm giác khó gần. Anh là “dân ngoại đạo” nhưng đã 10 tập thơ được xuất bản. Tập thơ “Đưa em về quê nội”, NXB Hội Nhà văn 2024 của anh vừa đạt giải A của Hội Liên hiệp văn học nghệ thuật Phú Thọ (Giải thưởng hàng năm, năm 2024).
Xem thêm
Khoảng trống trong thơ đương đại
Sang giai đoạn thơ hiện đại, đặc biệt từ thời kỳ Đổi Mới (1986) đến nay, dưới ảnh hưởng của thơ tự do, thơ thị giác, thơ hậu hiện đại,… khoảng trống được vận dụng đa dạng hơn: là dấu hiệu cấu trúc, chiến lược gợi mở ý nghĩa, cũng là phương tiện giải cấu trúc câu chữ. Việc nhận diện, phân loại và giải thích cơ chế thẩm mỹ của khoảng trống vì vậy cần được đặt trong dòng chảy lịch sử rộng hơn – từ các quy phạm cổ điển đến những cách tân hiện đại – nhằm làm rõ lý do và cơ chế khiến “sự im lặng” trở thành tiếng nói quan trọng trong thơ.
Xem thêm
Triệu Kim Loan – nỗi mình bộc bạch cùng trăng
Một bài viết chân thành, giàu rung cảm của Ngô Minh Oanh về tập thơ Chữ gọi mùa trăng của Triệu Kim Loan.
Xem thêm
Phan Nhật Tiến - Thời cầm bút nói về thời cầm súng
Bài viết của Trần Hóa về tập thơ mới của Phan Nhật Tiến
Xem thêm
Nắng xanh pha hương giọt mật đầy
Văn Chương TP.HCM xin giới thiệu bài của Tuấn Trần.
Xem thêm
Cảm nhận tác phẩm “Mật ngữ đen trắng”
Bài viết của nhà thơ Huỳnh Tấn Bảo từ Bà Rịa - Vũng Tàu
Xem thêm
Nặng tình qua những miền quê
Bài viết tạo được chân dung “lữ khách thi ca” Vũ Trọng Thái
Xem thêm
Thế giới nữ tính đằm thắm và điệu nhạc tình yêu trong thơ Võ Thị Như Mai
“Nhớ anh nhiều bao nhiêu / Như thế nào là nhiều…” – những câu thơ giản dị mà đằm thắm ấy chính là nhịp điệu riêng của Võ Thị Như Mai.
Xem thêm