TIN TỨC

Thơ Bùi Minh Vũ từ góc nhìn địa - văn hóa

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2025-07-27 17:05:19
mail facebook google pos stwis
463 lượt xem

HỒ THẾ HÀ

Bùi Minh Vũ là nhà thơ chuyên nghiệp có hành trình sáng tạo lâu dài, hình thành cá tính sáng tạo mới lạ, được bạn đọc yêu qúy và tiếp nhận nồng nhiệt. Ngoài những tác phẩm tiểu thuyết và những công trình sưu tầm, nghiên cứu truyện cổ và sử thi các dân tộc ít người ở Tây Nguyên có giá trị, anh dành nhiều đam mê và tâm huyết thể nghiệm thơ và dấn thân bạt mạng vì thơ. Đến nay, anh đã cho xuất bản 17 thi tập với thi pháp riêng, giọng điệu riêng. Mọi người dễ dàng nhận ra chất thơ và hồn thơ Bùi Minh Vũ ở các cấp độ: ngôn từ - hình tượng - tư tưởng. Tất cả đều thông qua cái nhìn có tính nền tảng mỹ học của tác giả, đó là cái nhìn địa - văn hóa mang đậm chất hiện thực - lịch sử - văn hóa Tây Nguyên. Không gian xã hội, lịch sử và văn hóa Tây Nguyên được anh chiếm lĩnh, ám ảnh và lý giải bằng cái nhìn sinh thái học, xã hội học và có cả nhân học văn hóa sâu sắc. Dĩ nhiên là chúng được dung hợp, nhào nặn và khúc xạ thành cái nhìn liên văn bản và liên khách thể dưới dạng ngôn từ nghệ thuật thi ca - một loại diễn ngôn mang tính hình tượng rất đặc biệt.


Bìa "Những tiếng đàn hồng" của Bùi Minh Vũ

Để chứng minh cho những nhận định khái quát trên về phẩm tính thơ Bùi Minh Vũ, chúng tôi xin tiếp nhận Những tiếng đàn hồng - tập thơ tiêu biểu của anh do Nhà xuất bản Hội Nhà văn ấn hành năm 2023. Có thể đây không phải là tập thơ hay nhất, nhưng là tập thơ mang đậm dấu chỉ căn cước Tây Nguyên của anh mà tôi cảm nhận được một cách ám ảnh và tâm linh như có một sức mạnh ma mị/ ma thuật nào đó khiến tôi bị thu hút và ám gợi một cách đặc biệt.

Trước khi đi vào tìm hiểu tập thơ này, tôi muốn phóng lướt về một cạnh khía có tính lý luận văn học về chủ thể sáng tạo và khách thể thẩm mỹ. Chủ thể ở đây là hình tượng tác giả Bùi Minh Vũ với tư cách là cái tôi trữ tình ngôi thứ nhất đang tư duy, đang cảm nhận khách thể và thể hiện chúng thành tiếng nói thi ca. Còn đối tượng/ khách thể ở đây là con người, cảnh vật mang tính địa - văn hóa Tây Nguyên. Thể loại ở tập thơ này chủ yếu là thơ tự do ngắn mà anh tỏ ra sở trường và làm chủ một cách tối đa. Còn cảm hứng nghệ thuật lại nghiêng về cảm hứng trữ tình đời tư - thế sự để lãng du và thức nhận về thiên nhiên và con người của vùng đất mà anh gắn bó sâu nặng. Cuối cùng là ngôn ngữgiọng điệu, ở đây là ngôn ngữ đời thường gần gũi và sâu lắng, tạo thành giọng điệu tự tình và đối thoại, chiêm nghiệm và triết lý, có cả giọng điệu giãi bày và nghi vấn. Tất cả đều toát lên không khí dân chủ, nồng nhiệt ngợi ca nhưng không kém phần nhức nhối khi nghĩ về những quan hệ nhân sinh và tâm linh Tây Nguyên trong cuộc sống hiện đại mà anh đang muốn truy tìm, chiếm lĩnh và cắt nghĩa chúng bằng cái nhìn thực chứng và cái nhìn hiện tượng luận thông qua thế giới hình tượng và ngôn ngữ thi ca mới lạ. Tất cả những đặc điểm trên tạo thành chất thơ và hồn thơ luôn xao động của Bùi Minh Vũ.

Tây Nguyên đã trở thành địa chỉ văn hóa, tinh thần của anh. Đây không chỉ là không gian sinh thái thiên nhiên - lịch sử - văn hoá với núi sông, nương rẫy, trăng sao, mùa màng và những đặc trưng văn hóa folklore kỳ diệu mà còn chính là sinh thái nhân văn - đạo đức - tinh thần với những con người đã làm nên hồn cốt và địa chỉ nhân văn của vùng đất âm vang, kỳ vĩ này cho đến ngày nay. Vì vậy, những trầm tích và hiên minh, những biểu tượng và cổ mẫu thấm đẫm chất sử thi và anh hùng ca được Bùi Minh Vũ tái hiện, phản ánh vừa cụ thể vừa khái quát, vừa truyền thống vừa hiện đại, làm cho không gian và thời gian như đang vận động và đồng hành cùng cuộc sống đương đại, bằng cái nhìn liên văn hóa sinh động của con người đương đại.

Thám mã được những yếu tố cấu thành nội dung tập thơ Những tiếng đàn hồng như trên, tôi muốn nương theo đó để giải mã mỹ học sáng tạo của thơ của Bùi Minh Vũ. Dù anh không tuyên ngôn nghệ thuật một cách cụ thể, nhưng thông qua những suy nghĩ và diễn đạt rời bằng thơ, chúng ta có thể thấy được sự lao động thơ và đam mê thơ đầy suy tư và trăn trở của anh: “Hì hục làm câu thơ hay/ Cho những linh hồn nhỏ/ Khó hơn chặt tre/ / Hì hụi làm bài thơ hay/ Cho những người không có linh hồn/ Khó hơn nuốt mặt trời”. Anh thấy được sự khó khăn và vất vả khi có được câu thơ hay, bài thơ hay. Mà tác phẩm hay đó phải được lấy và chưng cất từ đất và đá của thiên nhiên, biến thành tâm hồn nhà thơ thì mới mong mang chúng về với con người và cuộc đời, được họ đón nhận đầy xúc cảm và nhức nhối:

Câu thơ hay trên núi

Bay về cuối trời

Bài thơ hay trên núi

Trôi về cuối bể

Từ lồng ngực tôi đầy đất và đá

         (Từ lồng ngực tôi)

Có vậy, thơ mới bắt nhịp với hiện thực khách quan và nhà thơ sẽ nhận ra mình giữa muôn ngàn đồng vọng của nhân gian: “Cho tôi đôi tiếng nói/ Giữa muôn ngàn tiếng quen/ Cho tôi nhận ra tôi/ Giữa muôn ngàn tiếng nói” (Bắt nhịp). Đó là khát vọng cao đẹp của mỗi nhà thơ nếu họ muốn mình và thơ mình có ích, luôn đi cạnh cuộc đời bao dung và nhân ái. Anh ví việc gieo lúa trên nương cũng như việc gieo chữ trên giấy, cả hai đều phải tạo ra những mùa vàng và mùa hy vọng: “Gieo lúa trên nương/ Như gieo chữ trên giấy/ Mấy đời con kiến leo cây”. Mục đích tối thượng của việc gieo lúa và gieo chữ là phải đem lại sự sinh sôi, tốt đẹp cho sự sống: “Gieo lúa trên nương kiếp này/ Nhặt những hạt mồ hôi múa/ Gieo chữ trên giấy kiếp sau/ Nhặt những viên sỏi hát”. Vì thế, mỗi giọt mồ hôi của người gieo lúa và mỗi giọt nghĩ của người làm thơ đều có giá trị tái sinh cho sự sống tự do và hạnh phúc của con người:

Đêm đêm

Ngoài rìa

Của ngôi sao chói sáng

Hạt lúa tròn như chữ

Lẫn trong viện bảo tàng

       (Giọt mồ hôi xanh)

Cái nhìn địa - văn hóa trong thơ Bùi Minh Vũ trở thành đối tượng để anh chiếm lĩnh và phát hiện ra những thuộc tính và giá trị cả hiển minh và trầm tích để nhận thức và bổ sung những hiểu biết của mình về chúng. Trước hết và cụ thể nhất là Buôn Ma Thuột - nơi anh gắn bó và duyên nợ máu thịt: “tôi gắn bó nơi này như chồng với vợ/ chẳng còn yên tĩnh khi phải bước chân xa/ chẳng còn ngẩng đầu khi phải bước chân xa”. Bởi vì, nó đã trở thành sinh mệnh của anh để từ đó anh nhìn ra chung quanh bằng cách vực dậy những ký ức gần và ký ức xa: “vỡ trong tôi đại ngàn/ vỡ trong tôi từng giờ và ký ức”. Thiên nhiên trở thành ngôi nhà để anh nương thân và trải hết những vui buồn dâu bể trong từng cảm giác bé nhỏ:

một nửa trái tim này chạm đến

màu xanh cánh rừng mắt mẹ bao dung

chọn nơi này tôi đủ buồn vui của con suối cạn

của buổi sum vầy nằm vắt qua nương

Những so sánh để rút ra bản chất của sự sống đến mức con người anh đã tan vào từng khách thể để tồn tại và thanh tẩy: “Buôn Ma Thuột ơi/ như một cuộc đời/ như em/ những chiều không có nhau/ nghe thèm miếng cơm lam/ nhớ cầu thang mẫu hệ/ nhớ tiếng reo hò trước lễ hội cầu mưa/ em ở cùng tôi trộn vào nhau hơi thở”. Và cuối cùng là hạnh phúc trong hiện tại, đắm chìm trong không gian cây trái ngút ngàn:

Buôn Ma Thuột ơi

tôi đã mải mê bên vườn cà đắng

bỏ quên tuổi thơ gió đỏ thổi xa mờ.

      (Buôn Ma Thuột)

Nhưng rồi, Buôn Ma Thuột vắng em, trong anh, mọi vật bỗng thành cái khác “Em đi xa nên cà phê vị đắng”. Không có dấu chân ngọc của em, anh đã trở thành người biết ước mơ lãng mạn: “Ta cưỡi suối về biển/ Ta bay cùng chim về rừng/ Ta cưỡi cong nỗi nhớ”. Dẫu đó chỉ là ảo tưởng, nhưng nó làm cho anh thỏa mãn những ước mơ vô thức:

Ta leo lên tầng mấy trắng

Chơi với trời xanh

Thấy đường về buôn

Còn in dấu chân ngọc

    (Dấu chân ngọc)

Từ Buôn Ma Thuột, anh nhìn ra những khách thể thẩm mỹ mang hồn sự sống. Cái nhìn địa - văn hóa trong thơ Bùi Minh Vũ không trừu tượng mà luôn cụ thể, sinh động qua từng cảnh vật, quan hệ và chứng tích. Nhìn rừng - biểu tượng hiển minh của Tây Nguyên hùng vĩ, anh nghĩ đến những gì gắn bó với con người, rừng trở thành âm thanh vang vọng trong tâm hồn của những ai yêu rừng và gắn bó với màu xanh tươi trẻ của rừng: “Rừng sẽ không già/ Khi tóc rừng là những tiếng đàn hồng”. Rừng và con người luôn tạo sinh, hòa hợp cùng nhau để điều bình sinh thái: “Rừng sẽ không bị tàn phá/ Khi người giữ rừng là những nốt nhạc câm”. Sinh thái thiên nhiên trong thơ Bùi Minh Vũ rất cụ thể, bất ngờ nhờ cái nhìn nhân hóa và tương hợp của anh: “Khi bạn đọc thơ cho rừng nghe/ Rừng vỗ tay bằng tiếng suối chảy”. Khi ấy, rừng sẽ mở lòng bao dung, che chở con người bằng những tiếng đàn hồng kỳ diệu của thiên nhiên:

Khi bạn tự ý vào rừng

Những tiếng đàn hồng che khuất lối ra

Địa - văn hóa nơi nhà thơ đang sống và nếm trải là không gian nương rẫy bao la, ngút ngàn cây trái, tưởng như mọi vật đều nằm trọn trong màu xanh bất tận và phóng khoáng: “Rẫy cà phê bao la bao la/ Một cánh chim bay qua/ Chim bay/ Đàn chim bay/ Vẫn chưa qua cuối rẫy”, “Vẫn chưa qua hết trái xanh” đến nỗi: “Mặt trời trốn xuống đồi/ Đàn chim vẫn chưa qua cuối rẫy(Rẫy cà phê phóng khoáng). Bùi Minh Vũ hòa nhịp hoan ca với núi rừng, hoa lá theo nguyên tắc mỹ học của riêng anh: lấy sinh thái làm trung tâm luận và hướng đến cái nhìn đạo đức sinh thái khi hiểu được con người và thiên nhiên cùng tồn tại trong ngôi nhà xanh: “ta gọi cành/ gọi lá/ ta gọi ta bằng tâm hồn đắm đuối”. Nhà thơ thấy được sự cựa quậy của rừng khi có con người tương hợp: “nâng mảnh cây bỡ ngỡ/ trở dạ một cánh rừng”. Và mỗi chiếc lá là “tiếng vọng/ mũi tên xanh/ bắn ngược” (Mảnh cây bỡ ngỡ). Môi sinh luôn sinh sôi, hòa hợp với sự sống. “Suối chảy như sữa/ Đêm trăng no khò” (Suối trẻ con).

Các nhà sinh thái luận đều nhất trí cho rằng sáng tác văn học và phê bình sinh thái văn học đều tập trung phản ánh và nghiên cứu mối quan hệ giữa văn học và môi trường sống mà ở đó người sáng tạo là chủ thể ngôi thứ nhất đang hiện hữu mình trong từng quan hệ với cảnh và người của nhiều vùng quê khác - khách thể nhân hóa ngôi thứ hai để hiện hữu và đồng hiện các không gian địa - văn hóa và cắt nghĩa chúng theo tinh thần lấy con người và thiên nhiên làm trung tâm.

Tập thơ Những tiếng đàn hồng của Bùi Minh Vũ thể hiện mối quan hệ trên khá rõ. Thiên nhiên và con người chan hòa, cùng lắng nghe nhau: “Chiều nay/ Tôi qua suối/ Suối ngừng trôi/ Cá trêu đùa nắng mặn”. Vì vậy mà: “Suối đang tìm nơi ẩn náu/ Trong trái tim tôi” (Suối trẻ con). Nhà thơ lắng nghe từng chuyển động và cảm nhận từng vẻ đẹp của thiên nhiên đang tác động đến tâm hồn và thi ca của mình: “Đêm qua/ Tôi cõng bến nước trở về/ Bến nước lấm lem choàng qua cổ tôi/ Tấm lụa ruỗng/ / Tôi đặt bến nước ngoài rìa thành phố/ Tiếng nước xù xì mốc meo/ Bất chợt/ Trong như nước mắt”. Muôn loài luôn hòa điệu nhịp nhàng trong tiếng vọng sinh thái:

Thận trọng

Tôi tựa đầu gốc cây sung

Bảy quả rụng như núi đè thơm lựng

Thác nước ào ào

Tôi nằm vắt vẻo

Trên cành đá

Trước khi bình minh đến

                (Tiếng vọng)

Bùi Minh Vũ luôn đối chiếu lòng mình qua từng sự vật và hiện tượng trong khách thể để hiểu và hòa điệu với chúng bằng cảm quan tích cực, hướng về vẻ đẹp tương sinh, tương hợp vốn có của muôn loài: “Heo cắn trăng bờ rẫy/ Trăng/ Dịu dàng hơn/ / Gió hết hồn toài vào chòi/ Trăng cười khẩy”. Cái đẹp trong thiên nhiên không bao giờ biến mất mà luôn tạo sinh, biên đổi theo quy luật của chính nó và được anh diễn tả bằng cách tư duy của con người miền núi - luôn nhân hóa mọi sinh thể trong thiên nhiên để chúng đối thoại với con người:

Sương trườn qua lá cổ vũ

Trăng tựa gốc cây già

Heo đẹp như chiếu hoa

    (Cắn trăng)

Thiên nhiên luôn là chỗ dựa tinh thần cho con người nên con người phải tận hưởng và không thể khước từ, dẫu có lúc thiên nhiên bị thương tổn: “Tôi không thể khước từ âm thanh/ Chiếc lá non run trong gió/ Dưới gốc cây bị đẵn” hoặc “Khi chiếc lá non run run/ Có thể/ Rất có thể/ Từng ngọn cây như thanh kiếm/ Cắt đôi ánh mắt tôi”. Và dẫu vậy, con người không ngừng nuôi hy vọng vào sự tái sinh và non tơ của chồi cây, ngọn lá: “Dưới bóng trăng mới đẻ/ Thức dậy chồi non” (Tiếng hát ay ray). Chồi non đánh thức cái nhìn đầy khao khát của chủ thể:

Và vì vậy

Tôi tập nhìn

Khao khát về màu xanh của lá

   (Dưới gốc cây bị đẵn)

Địa - văn hóa được nhìn ngắm và lý giải từ tinh thần và đạo đức sinh thái sẽ làm hiện lên ý thức làm chủ sinh thái của con người. Vì vậy mà dù: “Nhớ rẫy/ Chẳng có gì bù đắp/ Nơi trái tim trống rỗng/ Đêm dài hơn đường chân trời” (Một lần nhớ rẫy) thì mỗi chủ thể hiện sinh vẫn cảm nhận được sự thanh tân kỳ diệu từ thiên nhiên: “Rẫy choàng qua cổ thời gian/ Những hạt cà đỏ mồ hôi vắt qua chiều/ Cài đóa hồng/ Sương là lạ lắm”. Có cả bến nước ráng chiều được nhân hóa thành chiếc nhẫn hồng đeo vào ngón tay buôn làng rực rỡ: “Bến nước ráng chiều/ Chiếc nhẫn hồng/ Đeo ngón tay buôn” (Nhẫn hồng). Cuối cùng là sự thanh tẩy kỳ diệu của tự nhiên:

Rẫy bức phù điêu buôn làng

Rẫy trang vở mới

Thanh tẩy trái tim tôi

Thanh tẩy nắng mưa giông bão

         (Thanh tẩy)

Bùi Minh Vũ trong Những tiếng đàn hồng đã thể hiện tinh thần sinh thái thiên nhiên theo kinh nghiệm và vốn sống của anh để thông điệp đến người đọc những quan hệ sinh thái mới, mang tính hiện đại gắn với vùng đất mà anh đang sống với những nếm trải vui buồn, ân nghĩa: “Tìm kỷ niệm bên bờ sông/ Gương mặt xưa hóa thạch/ Nghe tiếng ho thiên nhiên vọng lại/ Im lặng nhìn nhau không muốn về” (Tiếng ho thiên nhiên). Nghe tiếng ho của núi rừng (thính giác), anh chuyển sang hành động ôm, ghì, riết (xúc giác) để cộng cảm với thiên nhiên: “Tôi ghì nước/ Riết nước/ Ôm nước/ Tôi tưới nước cho cây/ Tôi tắm đất khô/ Tôi trải chiếu hoa nước nằm/ Tôi nghe hơi thở nước/ Ấm như hơi thiếu phụ”.  Từ khát khao giao hòa, nhà thơ đã thực sự làm chủ và song hành cùng thiên nhiên: “Tôi cười/ Nước khúc khích/ / Tôi ghì nước/ Nước ghì tôi/ Tôi riết nước/ Nước riết tôi/ Ôm nước vào lòng nhớ cây ngày khô hạn”. Cuối cùng là sự hòa tan trong nhau, sinh sôi trong nhau:

Nhiều khi nước là tôi

Tôi là nước

Đập một nhịp sinh sôi

(Lời khấn nước)

Sự hòa hợp và tan trong nhau giữa chủ thể và khách thể trong thơ Bùi Minh Vũ là có thật, chứng minh cho cái nhìn sinh thái lấy con người và thiên nhiên làm trung tâm mà anh cảm nhận được bằng tấm lòng yêu các sinh mệnh trong thiên nhiên, vũ trụ, thấy được tiếng nói giao tiếp, đồng vọng phong phú của thiên nhiên, nó sẵn sàng hôn phối và giao hòa với con người: “Anh lội qua suối/ Rõ ràng suối lội qua anh/ Khoảng trời lung linh/ Linh lung gắn kết/ Cỏ hoa/ Muôn thú/ Giàn giụa ánh trăng vàng/ / Giục thúc anh/ Mọc ra những cành tay/ Và gửi lại’ (Lội suối). Tính liên loài, liên chủ thể - khách thể hiện lên trong thơ Bùi Minh Vũ rất bất ngờ và mang tính đạo đức nhân văn mới mẻ.

Từ cái nhìn sinh thái thiên nhiên, Bùi Minh Vũ đã tiến thêm một bước trong nhận thức để vươn đến cái nhìn sinh thái xã hội - tinh thần để phản ánh mọi trạng thái nhân sinh. Các nhà lý luận sinh thái học cho rằng giai đoạn thứ nhất của sáng tác và phê bình sinh thái là hướng tiếp cận sinh thái học thiên nhiên (như đã tìm hiểu bên trên). Các chủ thể sáng tạo thấy được giữa con người và thiên nhiên trong mối quan hệ hài hòa vốn có của nó từ vi mô đến vỹ mô. Với luận đề “sinh thái là trung tâm”, họ đã tạo ra mối quan hệ cộng sinh, tương tác giữa con người và vũ trụ; từ đó vươn lên cân bằng sinh thái tinh thần và xã hội, tức là từ chỗ các tác giả quan tâm đến mối quan hệ giữa con người với tự nhiên, thì sau đó, họ lại quan tâm đến mối quan hệ giữa con người với con người. Như vậy, về mặt nhận thức, vấn đề sinh thái đã chuyển từ sinh thái học tự nhiên sang sinh thái học nhân văn. Đây chính là giai đoạn thứ hai của cảm quan sinh thái trong sáng tác và phê bình văn học. Khi ấy, mục đích của nhà thơ, nhà văn khi miêu tả thiên nhiên là để thể hiện tâm hồn, làm tôn thêm vẻ đẹp của con người đang khao khát vươn lên chiếm lĩnh thiên nhiên với những tương hợp và tương quan mới. Nhưng chưa dừng lại đó, các chủ thể sáng tạo tiến thêm một bước nữa, cộng hưởng hai giai đoạn sinh thái trên (giai đoạn thứ nhất và giai đoạn thứ hai) bằng việc phản ánh sinh thái học văn hóa tinh thần. Đây chính là giai đoạn thứ ba với ngày càng nhiều những diễn ngôn sinh thái bằng thơ và văn xuôi sâu sắc, có chiều sâu văn hóa và tinh thần đạo đức, nhân văn hiện đại.

Công bằng mà nói, trong Những tiếng đàn hồng, Bùi Minh Vũ đã thực hiện được bước chuyển này trong thơ với thế giới hình tượng và diễn ngôn hấp dẫn, mới mẻ. Mối quan hệ giữa con người và thiên nhiên giờ đây được chuyển thành mối quan hệ giữa con người với con người trong từng không gian - thời gian sự sống cụ thể.

Nhìn cánh đồng, anh thấy được thuộc tính của nó từ gương mặt thanh tú của mẹ, từ đó mọi sự sống đang nhịp nhàng, sinh động: “Cánh đồng thanh tú/ Gương mặt mẹ/ Chim rẽ đường bay/ Tha những cọng rơm mỏng”. Từ đó, sự sống cánh đồng - gương mặt trái xoan của mẹ trở nên thanh bình và no ấm trong viễn cảnh tương lại:  “Cánh đồng trái xoan/ Gương mặt mẹ/ Đường cày thời gian/ Hèn lên những chồi lửa”. Và cánh đồng bỗng trở thành khát vọng tươi non:

Ấp ủ mùa no

Bò hiền như lúa

Một cánh đồng sang

Ngàn tiếng sáo chăn dắt linh hồn những con cò trắng

Ngàn dấu chân mẹ cao đến ngọn nắng

Ngàn giọt mồ hôi mẹ ủ ấp đầy chòi

                  (Cánh đồng thanh tú)

Có mẹ, mọi muộn phiền, mỏi mệt đều tan biến để nhường chỗ cho sự im lặng trong khát khao níu giữ: “Trên tất cả những gì mỏi mệt/ Bóng mẹ hiện ra/ Hoa trái tan trên môi/ Một cõi im lìm/ Cho tôi ghì giữ” (Mãi mãi).  Vẫn là mẹ - cội nguồn của tình yêu và sự sống: “Nếu con đếm hết dấu chân mẹ trên cánh đồng/ Mẹ tin/ Lúa chạy về nhà / Không ngủ”. Mồ hôi của mẹ đã biến thành cây xanh, trái ngọt và đồng lúa trĩu bông: “Nếu con nhặt được giọt mồ hôi của mẹ/ Mẹ tin/ Đọt nắng xanh cũng vội trổ bông” (Nói với mẹ). Và đây là cách quan sát và đặc tả rất hay và lạ về mẹ của Bùi Minh Vũ:

Lưng mẹ cong núm chiêng

Còng lưng mẹ cõng lúa

Lưng mẹ cong thương nhớ

Gùi con trên lối mòn

Lưng mẹ cong niềm vui

Nhặt chồi trăng muộn

Cấy vào trái tim mình

Tỏa sáng

                (Lưng mẹ)

Trong thơ Bùi Minh Vũ, không gian cánh đồng và không gian miền núi Cao Nguyên hiện lên nhiều kiểu: liên hoàn và phân mảnh, hẹp và rộng, hiện thực và tâm linh. Còn thời gian thì cũng diễn ra nhiều thời khoảng và chiều hướng: sáng và chiều, chiều tà và đêm, hiện tại và quá khứ, hiện thực và tâm linh. Nhờ các kiểu không - thời gian này mà môi sinh luôn vận động, biến ảo, phản ánh sự tồn tại, hoạt động, suy nghĩ và phong tục của con người miền núi khá đặc trưng để cuối cùng giúp người đọc nhận ra địa - văn hóa của một vùng đất.

Hiện thực cánh đồng đã đập vào mắt nhà thơ bằng cái nhìn ngỡ ngàng, hoang dại như từ không gian sử thi và truyện cổ ùa về vui cùng cảnh vật: “Tôi hoang dại đứng nhìn/ bãi cỏ chăn trâu trong trái tim/ hay trên đại lộ gió lùa thênh thênh/ như dáng trâu đi” đến nỗi “Chẳng ai nhận ra tôi/ trên quảng trường cỏ xanh / đang lầm lũi tiến về bến nước tuyệt đẹp/ trong sử thi truyện cổ” (Nơi reo vang). Mối quan hệ giữa con người với con người và xã hội giờ đây lại có thêm đặc điểm và thuộc tính mới:

Em ở đó

Cứ ở đó

Lặng lẽ

Điểm tô màu âm thanh sủng ái

Vọng lại cõi thanh bình

Nơi bóng râm cây tông lông trong sương mù bến nước

mưa thuận gió hòa

ẩn náu đằng sau mùa xuân muộn

                   (Cây tông lông)

Rõ ràng sự tương tác giữa con người và môi sinh đã tạo nên bức tranh địa - văn hoá toàn cảnh của vùng đất từ phong tục, tập quán đến những kết tinh văn hoá, cổ mẫu, hình thành cách tư duy và hành vi của mỗi chủ thể người. Ở cạnh khía này, Bùi Minh Vũ có chịu ảnh hưởng ít nhiều về kiến thức dân tộc học và nhân học văn hoá tộc người, có cả sự ảnh hưởng từ tư duy huyền thoại, cổ tích… kết tinh thành hình tượng và ngôn từ rất đặc biệt mà ta bắt gặp trong các tác phẩm sử thi, anh hùng ca Tây Nguyên. Hãy xem anh nhân hoá vườn tiêu và gắn cho nó những định tính bất ngờ, không có trong trường liên tưởng của chúng ta: “Vườn tiêu mái tóc thiếu nữ đóa mặt trời/ Xanh giọt mồ hôi hạt cườm/ Thiếu nữ hái nắng mặn/ Nhặt giọt cười cần mẫn”. Cách nói lạ hoá này tạo ấn tượng thị giác lạ trong người đọc:

Mắt tôi bị giam

Trong mắt

Trong vắt

Trong vườn tiêu mái tóc thiếu nữ

Căng đầy những chiếc bao

Ánh sáng

            (Vườn tiêu)

Nhìn vùng ngoại ô quen thuộc, anh cũng gắn cho nó những thuộc tính mang tầm vũ trụ - một kiểu tư duy hướng thượng của con người miền núi: “Vùng ngoại ô/ Quen quen/ Lời gió cỏ xanh / Đen/ Mặt người lấp lánh/ Trắng/ Ngôi sao tập đánh vần” (Tập đánh vần). Mọi sinh thể luôn biến ảo với những so sánh, biến ảo để nối liền hiện thực với giấc mơ, mong những gì tốt đẹp sẽ đến trong hiện thực: “Tiếng côn trùng vọng như tiếng sáo/ Hay giấc mơ tôi/ Có thể/ Biến thành côn trùng/ Tỉnh thức những chồi non/ / Đêm dịu dàng trăng xám/ Tôi như hòn đá bị ném vào màn sương/ Ve vãn từng chú côn trùng reo vang/ Đẹp như bông hoa trên rẫy lúa”. Ngay cả trong giấc mơ cũng hiện về những liên tưởng trùng phức, nhưng đều đồng nghĩa với sự sinh sôi, biến ảo thành niềm vui và âm thanh rộn rã:

Giấc mơ có khi già hơn những ngôi sao

Tiếng côn trùng đôi khi trẻ như tiếng sáo

Gió lùa

Tiếng sáo trăng múa

Tiếng sáo lá cười

Tiếng sáo mùa trôi

Tôi lắng nghe tiếng sáo côn trùng hút mật

Đêm vỡ những vì sao

        (Tiếng sáo đêm)

Dù không gọi tên địa danh cụ thể, nhưng qua từng hình tượng, từng không - thời gian được khắc hoạ, người đọc vẫn nhận ra địa - văn hóa và địa - tâm thức Tây Nguyên rất rõ. Đây là cảnh giã gạo của tộc người miền cao lúc đêm về bên nhà sàn và dưới ánh trăng cùng những điệu khan quen thuộc: “Trăng càng xuống gần hơn/ Va chạm đến cầu thang mẫu hệ/ Em vẫn giã gạo/ Cho đến khi lời khan bắt đầu/ Tay em thoăn thoắt/ Như ngọn lửa mới nhen/ Môi thấm rượu cần/ Tay được cầm tay” (Giã gạo). Còn đây là cảnh uống rượu cần của sơn nữ rất lãng mạn và đắm đuối: “Mắt em nghiêng phía nào/ Vít rượu cần nôn nao/ Môi của em/ Trổ sắc/ Nhấm thêm đôi ngụm nữa/ Châm nước vào làm chi/ Cho say/ Đôi mắt lửa/ Ngoài kia/ Trăng dậy thì” (Rượu cần). Cái nhìn sinh thái nhân văn giờ đây được Bùi Minh Vũ thể hiện qua mối quan hệ giữa con người với con người. Nhà thơ nói hộ vẻ đẹp em trong đêm trăng nơi nương rẫy, có trăng sao và hoa trái toả sáng chung quanh:

Em đến rẫy trăng non nghệ pha tro

Suối nguồn màu quả cà chín tới

Rừng núi như trứng vừa lọt ổ

Tỏa sáng, tỏa sáng

Nhưng em không hề biết

     (Trước khi mặt trời tắm)

Ở đâu, mọi sinh thể đều diễn ra theo chiều hướng và viễn cảnh tốt đẹp: “Khi em đến/ Quả chua thành ngọt/ Nắng thèm thòm vàng mắt ngày đàng/ Mưa khao khát nước mềm như tóc/ Suối đầy lại cạn lá vàng sang xanh/Chim thay đổi giọng hát/ Màn đêm như tấm đắp/ Choàng qua đất/ Gió mong một phút phận người”. Em giờ đây đã thành suối nguồn mát rượi tâm hồn anh, anh được trôi trong thế giới nước, cả em và anh đều nước: “Lao chao em nước/ Lao chao anh nước/ Lao chao thế giới nước”. Nước là cổ mẫu có tác dụng trôi chảy, tươi mát, sinh sôi và thanh tẩy:

Em bến nước ta trôi

Lung linh thú vị như lật cuốn sách hay

Những ngón tay thon nước chảy thơm

Trên sân khấu tâm hồn anh

        (Vĩnh cửu)

Mùa xuân là thời gian đẹp và xôn xao nhất của núi rừng, khiến lòng người cũng dạt dào thương nhớ. Nỗi nhớ đầu tiên là nhớ về mẹ: “Trời tối đêm ba mươi/ Thắp ngọn đèn chờ mẹ/ Gió đòi ăn như trẻ” (Mong). Kế đến là nhớ cố hương với mùa xuân lấp loáng, đồi núi xôn xao: “Tiếng cố hương trong trẻo/ Hay tiếng suối trong veo/ Làm sao/ Bình thản làm sao” (Núi xôn xao). Trăng mở ánh vàng và lòng anh mở cửa, mọi trinh bạch ùa về cho nỗi nhớ được thanh tân. Được trở về làng là được sinh lại lần thứ hai: “Lòng tôi như cổng làng/ Gió lùa béo ngậy/ Nửa bóng ai đi” (Đêm qua). Ngôn ngữ hình tượng của Bùi Minh Vũ rất hay và lạ, làm cho người đọc phải lần tìm ẩn nghĩa phía sau câu chữ: “Tưởng tượng ra ta đó/ Trở về làng/ Như nắng/ Được sinh ra” (Tưởng tượng). Cách nói “hữu hình hoá cái vô hình” kiểu “Lòng tôi như cổng làng” và Trở về làng/ Như nắng/ Được sinh ra” là khá nhiều và khá độc đáo trong thơ Bùi Minh Vũ. Ví như các câu thơ sau thuộc cấu trúc ngôn ngữ mới và bất ngờ như thế: “Hoàng hôn chiếc giẻ rách/ Vá khâu bằng bóng đêm/ Nắm tay trăng vàng/ Lặng lẽ ngã lăn ra ký ức” (Sự nhầm lẫn). Nguyên lý đối lập và song song được anh thể hiện độc đáo trong nhiều bài thơ. Vì vậy, khả năng tạo sinh nghĩa trong thơ anh là rất đa dạng và hiệu quả.

Trên đây là cách tiếp nhận của tôi về thơ Bùi Minh Vũ. Bạn đọc khác sẽ có cách tiếp cận khác để làm đầy nghĩa cho tác phẩm của anh.

***

Vậy là từ góc nhìn địa - văn hoá, tôi đã lần theo thế giới thơ Bùi Minh Vũ để phát hiện ra vẻ đẹp và giá trị thơ anh ở các các độ ngôn từ - hình tượng - tư tưởng. Toàn bộ tập thơ Những tiếng đàn hồng được tác giả thể hiện bằng tư duy hình, tư duy ý rất mới mẻ và giàu tính sáng tạo. Tạo được hiệu quả thơ như thế là do Bùi Minh Vũ chiếm lĩnh trọn vẹn hiện thực cuộc sống, mở lòng mình hướng về khách thể và biến mọi khách thể - từ đối tượng của cái nhìn trực quan thành đối tượng nội tại của ý thức thẩm mỹ. Do vậy, mọi hình tượng/ đối tượng thơ đều trở thành ý hướng cảm xúc nội tâm, thành cảm hứng sáng tạo của chính tác giả. Anh lắng nghe sự diễn biến của mọi hiện tượng bên ngoài để hiểu lòng mình, để hưởng thụ cái đẹp khách quan thông qua sự nhập vai nồng say vào thiên nhiên và con người một cách chân thành, mê đắm. Thơ Bùi Minh Vũ thuộc mỹ học của cái đẹp và cái cao cả, nhân văn, có khả năng nội cảm hoá trực tiếp trong lòng bạn đọc.

Vỹ Dạ, tháng 7/ 2025

H . T . H

Bài viết liên quan

Xem thêm
Khơi dậy sức sáng tạo văn học nghệ thuật trong lực lượng sáng tác trẻ ở miền núi - Thực tiễn và kỳ vọng
Cần phải làm gì, làm như thế nào để khơi dậy sức sáng tạo của những người sáng tác trẻ; để tạo môi trường nuôi dưỡng họ trở thành lực lượng sáng tác chuyên nghiệp?
Xem thêm
Thử giải mã ba nhà văn khó đọc ba miền
Ba miền đất nước, ba cá tính sáng tạo khác biệt – Nguyễn Bình Phương với “hiện thực lũy thừa”, Nhật Chiêu cùng “thể Sương” mơ huyền, và Ngô Phan Lưu qua “lối viết nông dân” thấm đẫm đời thường.
Xem thêm
Thoát khỏi thân phàm - Tiểu luận của Hồ Anh Thái
Bản năng tự vẫn nằm im cũng có khi bất ngờ trỗi dậy. Không phải là muốn chết. Chỉ là “một lúc” mà thôi. Được thoát ra khỏi thế giới này trong chốc lát, được thấy mình đã thoát hồn khỏi thân phàm, được thấy người ở lại người cười người khóc. Xong đâu đấy, ta trở lại, tái sinh, nhìn cuộc đời bằng cặp mắt mới. Cuộc đời dù có vắng ta cũng chẳng làm sao.
Xem thêm
Chạm thu - chạm ngưỡng cửa thu về
Chạm thu – tập thơ mới của bác sĩ, nhà thơ Mai Hữu Phước mang đến những chiêm nghiệm lắng sâu về đời người và tình thơ. Bài viết của Lê Bá Duy gợi mở một hành trình thi ca giàu cảm xúc, chân thành và đầy dư âm.
Xem thêm
“Tình đất biên cương” – Tập truyện giàu giá trị hiện thực và giá trị nhân văn
Những người từng quen biết và cùng công tác với anh luôn nhận thấy anh là một cán bộ gương mẫu, trách nhiệm, tác phong nhanh nhẹn, ngôn từ giao tiếp hoạt bát. Tuy nhiên, ít ai biết trong anh tiềm tàng một khả năng sáng tác văn chương như vậy. Khi hoàn thành nhiệm vụ công chức, được nhà nước cho nghỉ chế độ, cũng chính là lúc “anh hoa phát tiết”, các thể loại thơ, tản văn, truyện ký, tiểu thuyết,… được thể nghiệm và đáng nể nhất là hai tập sách dày dặn (Truyện ký Tình yêu người lính - NXB Thanh niên năm 2021, 364 trang và tiểu thuyết Hoa trong mắt bão - NXB Hội Nhà văn năm 2023, 570 trang) và hiện tại trên tay tôi là tập truyện ngắn Tình đất biên cương.
Xem thêm
Ẩn số đường đến thơ của Trần Hóa
Bài đăng Diễn đàn Văn nghệ Việt Nam, số tháng 9/2025
Xem thêm
Nhà lý luận phê bình Đỗ Nguyên Thương và tập thơ “Tìm về miền ký ức”
Tôi quen nhà giáo, nhà Lý luận Phê bình văn học Đỗ Nguyên Thương thật tình cờ trong buổi Tọa đàm về Thơ 1-2-3 do nhà thơ Phan Hoàng chủ trì có sự phối hợp của Hội nhà văn Cần Thơ và khoa Khoa học Xã hội và Nhân văn tường Đại học Cần Thơ.
Xem thêm
Tư tưởng nhân dân anh hùng
1. Vì tình yêu quê hương đất nước, Trần Bảo Định đến với văn chương. Nhà văn Long An để lại dấu ấn đáng kể trong sinh hoạt văn chương từ những năm 2010 đến nay. Bên cạnh bộ sách Đất và người Nam Bộ mến yêu gồm 14 tập truyện ngắn, Trần Bảo Định còn có 6 tập thơ, 5 tập tiểu luận phê bình. Năm 2024, nhà văn trình làng tuyển tập Đất Việt trời Nam liệt truyện gồm 3 tập (thượng, trung, hạ) do Nxb Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh ấn hành. Tái hiện diễn trình lịch sử vùng đất Nam Bộ từ hồi một 1620, hồi hai 1859, đến hồi ba 1900, tuyển tập có thể xem như trường thiên tiểu thuyết ca ngợi tinh thần đấu tranh yêu nước anh dũng của nhân dân Nam Bộ, như lời giới thiệu của Nhà xuất bản: “Chính các anh hùng vô danh mới thể hiện toàn bộ chủ đích nghệ thuật của Trần Bảo Định, cho thấy tư tưởng: nhân dân anh hùng!”
Xem thêm
Thơ tình Nguyên Bình đắm đuối
(Vanchuongthanhphohochiminh.vn) - Các nhà thơ từ cổ chí kim không nhiều thì ít đều viết thơ tình, điều đó không có gì lạ; vì tâm hồn họ lãng mạn, mơ mộng, tôn thờ phái đẹp. Nhà thơ Nguyên Bình không nằm ngoài số đó. Anh viết văn làm thơ từ thời sinh viên, cả trước và sau năm 1975. Những bài thơ tình, anh không dám trao tay cô nữ sinh xinh đẹp xứ Huế anh yêu say đắm: Vẫn mãi “Là bài thơ còn hoài trong vở/Giữa giờ chơi mang đến lại mang về” thơ Đỗ Trung Quân.
Xem thêm
Mỹ cảm của kiểu tự sự trong suốt trong tập tản văn “Nỗi buồn trong suốt” của Nguyễn Đức Phú Thọ
Tản văn là một thể loại dễ tiếp cận với mọi mặt của đời sống thông qua những lát cắt hiện thực, nhưng trung tâm tinh thần của thể loại này lại là cái tôi tư tưởng, cảm xúc của người nghệ sĩ. Tản văn vừa đậm chất trữ tình, vừa mang bản chất tự sự. Mỗi tác phẩm là một cách diễn giải về “Thế giới như tôi thấy”, đồng thời cũng là một tấm gương phản chiếu cấu trúc nội tâm của nhà văn.
Xem thêm
Cảm nhận thơ Trần Xuân Hóa từ một góc nhìn đa cảm
Bài viết của nhà thơ CCB Trần Trí Thông
Xem thêm
Hơi thở đất quê trong miền nhớ của Huỳnh Khang
Chủ đề và nội dung trong MIỀN NHỚ xoay quanh ký ức quê hương, tình mẫu tử, nghĩa làng nghĩa xóm, thiên nhiên, tình yêu đôi lứa, nỗi buồn mất mát, cùng những triết lý đời thường.
Xem thêm
Tiếng văn từ phía “bạn nguồn”
Nguyễn Minh Sơn, Hồ Tấn Vũ và Nguyễn Thị Như Hiền là ba cây bút thuộc thế hệ 7X và 9X
Xem thêm
Về trên dặm trường thiên lý “Miền Ô châu”
Tiếp theo các cuốn tản văn Sông vẫn chảy đời sông (NXB Thanh Niên 2023), Bốn mùa thương nhớ (NXB Thanh Niên 2024), nhà văn Nguyễn Linh Giang vừa ra mắt cuốn tản văn mới: “Miền Ô Châu” (NXB Phụ Nữ Việt Nam, 2025).
Xem thêm
Thơ ca chào đón Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2/9
Cách mạng tháng Tám - 1945 thành công, mở ra trang sử vàng chói lọi cho dân tộc. Bác Hồ đọc “Tuyên ngôn độc lập”, khai sinh ra Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á được thành lập. Hai tiếng Việt Nam vang lên đầy phấn khởi, tự hào trên trường quốc tế, đã khơi nguồn, làm bừng dậy biết bao cảm hứng về thơ ca, nhạc, họa thật mới mẻ, mãnh liệt và sôi nổi, làm không khí văn nghệ đổi sắc thay da. Từ đây nền văn học của ta chỉ còn duy nhất một trào lưu là văn học cách mạng.
Xem thêm
Hồi hộp trước “phút bù giờ” của Minh Đan
Ngôn ngữ của Minh Đan đôi lúc không còn chỉ là ký tự để giải nghĩa, mà là vật liệu có tâm hồn – biết khít lại, giãn ra, để tạo hình tượng và âm thanh.
Xem thêm
Phát triển
Nội dung quyết định hình thức. Xét cả quá trình văn học lâu dài, các hình thức tác phẩm kế tiếp nhau xuất hiện, tác động vào nền văn học, góp phần tạo ra phát triển văn chương. Bài viết chỉ đề cập đến chủ đề này của cuốn sách.
Xem thêm
Vẻ đẹp tình người và nỗi niềm ưu tư trong thơ Phạm Nguyên Thạch
Một trong những cánh én đầu đàn của văn học An Giang - nhà thơ Phạm Nguyên Thạch, anh sinh năm 1948, hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, nguyên Phó Chủ tịch Hội Văn học Nghệ thuật An Giang và hiện là Chi hội trưởng Chi hội Nhà văn Việt Nam tỉnh An Giang. Anh sáng tác từ trước năm 1975. Từ đó đến nay, nhà thơ đã có những tác phẩm tạo tiếng vang được xuất bản: “Ngôi nhà lợp ngói âm dương” (Văn Nghệ AG, 1986); “Theo tình” (VNAG, 1994); “Gió” (NXB Trẻ, 1999); “Thị trấn đá” (VNAG, 2002); “Cỏ lá quẩn quanh” (VNAG, 2006); “Mưa ảo” (NXB Hội Nhà văn, 2019).
Xem thêm
Nghiên cứu truyện Nam Cao theo góc nhìn thi pháp
Bằng cách ghi nhận từ các bài nghiên cứu, lời giới thiệu, chắt lọc những ý kiến nho nhỏ, có khi chỉ một vài nhận xét liên quan, có thể đưa ra một cách nhìn về tình hình nghiên cứu truyện ngắn Nam Cao trên góc độ thi pháp học hiện đại.
Xem thêm
Nguyễn Thành Phong – Nhà thơ tài hoa trữ tình, quan chiêm ngoại vi và nội hàm tự sự luận cảm của thơ Việt Nam thời kỳ đổi mới
Trữ tình và tự sự là những khái niệm của thơ, ngoại diên và nội hàm là những khái niệm của logic học. Ngoại vi là một phần của ngoại diên chỉ các đối tượng có phạm vi nhất định và chỉ định. Trong thơ, nó là các địa danh, hoặc các nhân vật trữ tình, các không thời gian xác định, tạo nguồn cảm hứng. Ngoại vi nhỏ hơn ngoại diên. Nội hàm là nội dung thuộc tính bên trong cả chủ quan và khách quan của sự vật, hiện tượng. Trữ tình nói bằng cảm xúc, gắn với bộc lộ chủ thể. Tự sự kể lại, tả lại khách thể. Phàm lệ mấy câu để bài viết này đỡ cảm thấy gượng ép, mong được đồng cảm.
Xem thêm