TIN TỨC
  • Lý luận - Phê bình
  • “Trăm ngàn” – Hành trình truy nguyên bản thể giữa phế tích ký ức và nỗi cô đơn hiện sinh

“Trăm ngàn” – Hành trình truy nguyên bản thể giữa phế tích ký ức và nỗi cô đơn hiện sinh

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2025-07-30 17:29:06
mail facebook google pos stwis
820 lượt xem

Nhà thơ HƯƠNG THU

Thường tôi ít khi xen vào những tranh luận không mấy liên quan, không phải tôi hững hờ với cuộc sống chung quanh, mà vốn tôi không có thời gian. Gần đây, truyện ngắn “Trăm ngàn” của cây bút trẻ Ngô Tú Ngân bỗng nổi lên như một “hiện tượng” đã làm tôi chú ý.

Nhiều ý kiến trái chiều, nhiều bài viết mổ xẻ, phân tích ... đa số là “chê” hơn “khen”. Người VN mình nói chung, và làng văn nói riêng có một đặc tính rất lạ, đó là cứ hễ có một bài thơ, hay một tác phẩm ... được giải là thi nhau “ đưa lên bàn mỗ”. Đó cũng là lý do nhiều người “không dám dự thi” bất kỳ cuộc thi văn chương nào, vì sợ “lỡ xui” trúng giải sẽ làm đề tài bàn tán của dư luận.

Tôi tìm đọc truyện ngắn “Trăm ngàn” để xem thực hư thế nào. Và cảm nhận đầu tiên: Tôi ủng hộ Ngô Tú Ngân. Khoan đã bàn đến việc những điều được và chưa được của truyện, chỉ đơn giản một điều tôi ủng hộ bạn ấy vì bạn ấy là một cây bút trẻ - là một thế hệ kế thừa trong tương lai – cần được nuôi dưỡng và khích lệ tinh thần không chỉ với một Ngô Tú Ngân – mà còn với nhiều Ngô Tú Ngân khác. Tôi nghĩ đơn giản thôi, liệu có còn một Ngô Tú Ngân nào dám dự thi nữa không khi họ nghĩ đến những “lời sát thương” đang chờ đợi họ nếu họ trúng giải?

Trở lại với truyện ngắn “Trăm Ngàn”. Trong hầu hết các bài phê bình, đều có một điểm chung: “Trăm Ngàn” không phản ánh được đặc thù văn hóa miền Tây Nam bộ.

Dưới góc nhìn đơn thuần của một độc giả, tôi xin được nêu cảm nhận của riêng tôi như sau:  

1 “Trăm ngàn” là một truyện ngắn “vượt vùng” thay vì “thuần vùng”

Trước hết, cần xác định mục tiêu thẩm mỹ của truyện ngắn “Trăm Ngàn” không hoàn toàn nằm ở việc khắc họa đặc trưng vùng miền theo nghĩa hẹp. Dù truyện đặt bối cảnh ở một vùng quê phía Nam – có thể là miền Tây – nhưng Ngô Tú Ngân không chủ trương đi theo lối “tả thực vùng đất”, theo như cách Sơn Nam, Bình Nguyên Lộc hay Nguyễn Ngọc Tư thường làm. Truyện hướng về biểu tượng bản thể hơn là tư liệu dân tộc học.

Nói cách khác, ngôn ngữ, phong tục, địa danh, giọng điệu... không nhất thiết phải là “thuần Nam Bộ”, mà chỉ cần đủ để tạo nên một bầu không khí miền – thứ “hơi đất” mơ hồ nhưng ám ảnh, gợi nhớ. Truyện dùng tiếng Việt trung tính, tiết chế tối đa khẩu ngữ địa phương – đây không phải là thiếu hụt, mà là sự lựa chọn thẩm mỹ nhằm nhấn mạnh tính phổ quát của thân phận hơn là tính địa phương học

2. Vấn đề “thiếu đặc sản Nam Bộ” – là điểm trừ hay là một lựa chọn chiến lược?

Một số độc giả mong muốn bắt gặp trong “Trăm Ngàn” những chi tiết đậm chất miền Tây như: Ngôn ngữ mang âm sắc Nam Bộ rõ nét, môi trường sông nước, chợ nổi, cây cầu khỉ, lũ lụt…, Các thiết chế văn hóa quen thuộc như đình làng, đờn ca tài tử, hò trên sông …

Tuy nhiên, theo tôi, đó là một chiến lược của Ngô Tú Ngân. Cây bút trẻ chủ đích muốn tránh rơi vào “chủ nghĩa đặc sản” – tức là tận dụng các biểu tượng đặc thù địa phương để tạo vẻ bản địa hóa một cách phổ thông. Ở đây, điều mà tác giả làm, chính là dụng tâm tạo ra một “miền quê mất tên” – một nỗi mất mát không chỉ của miền Tây, mà là của mọi miền đất đang bị đô thị hóa và lãng quên. Vì vậy, nếu chúng ta cứ khăng khăng đòi hỏi tính “đặc thù văn hóa miền”, chúng ta sẽ vô tình giới hạn khả năng biểu đạt của văn học, khiến một truyện ngắn mang tầm phổ quát bị ép khuôn vào tính dân tộc học địa phương.

Tuy nhiên, xét về một góc độ nào đó, sự đòi hỏi của độc giả cũng không phải là không có lý.

Nếu muốn “Trăm Ngàn” được định vị như một tiếng nói riêng của vùng đất Nam Bộ, thì rõ ràng nó chưa thật sự “neo đậu” vào những chất liệu đặc trưng của văn hóa này. Ví dụ: Giọng kể trong truyện thiên về văn phong trung tính, đậm chất Bắc Trung Bộ hoặc phổ thông, thiếu âm sắc “ngọt” của người miền Tây. Tâm lý nhân vật của “Trăm ngàn” thiên về nội chiếu, cô độc, suy tư triết học – gần với văn học đô thị hơn là tính cộng đồng, xuề xòa, hài hước, hào sảng vốn có của người dân miền sông nước.

Điều này không sai, nhưng cũng đặt ra câu hỏi: Liệu cái “Trăm Ngàn” mất là ký ức của riêng miền Tây, hay là ký ức Việt Nam nói chung? Nếu là ký ức Việt Nam nói chung, thì việc thiếu “chất Nam Bộ” không phải lỗi, mà là dụng ý.

Theo tôi, truyện ngắn “Trăm Ngàn” không đi theo lối kể tuyến tính. Ngô Tú Ngân vận dụng hình thức hồi cố, đan xen giữa hiện tại – quá khứ, mộng – thực một cách mềm mại, tựa như mạch nước ngầm tê buốt xuyên qua lớp đất thời gian. Nhân vật “tôi” – cũng chính là Trăm Ngàn – trở về sau nhiều năm lưu lạc, để tìm kiếm căn nhà xưa, dòng họ cũ, ngọn khói bếp chiều, và cả hình bóng người mẹ đã tan vào tro bụi.

Cấu trúc đứt đoạn ấy không đơn thuần là kỹ thuật kể chuyện. Đó là cách thức mà văn chương hậu hiện đại sử dụng để phản ánh một thế giới vốn đã tan vỡ, nơi con người chỉ còn có thể tìm lại chính mình qua những mảnh rời rạc ký ức. Trong “Trăm Ngàn”, không gian làng quê hiện ra như một thứ “biểu tượng suy tàn” – vừa thực, vừa siêu thực, vừa dân dã, vừa hoang tàn: làng xưa đã không còn, người làng không nhận ra Trăm Ngàn, nhà thờ họ bị đập bỏ để xây công trình du lịch…

“Trăm Ngàn” không đơn thuần là tên gọi. Đó là định danh của một thân phận – thân phận của những kẻ bị “trôi dạt” giữa đời sống, những kẻ không còn được đặt đúng vào vị trí cội nguồn. Nhân vật trở về quê, mang theo tâm thế của kẻ lưu lạc, nhưng bi kịch nằm ở chỗ: chính nơi chốn gọi là quê ấy lại trở thành cõi tha hương.

Ngô Tú Ngân đã khắc họa rất tinh tế một “nỗi đau bản thể”: khi ký ức không còn đất cắm rễ, con người rơi vào trạng thái vô định. Trăm Ngàn không chỉ mất quê – anh mất cả khả năng được thừa nhận trong ký ức của người khác. Ngay đến tên gọi – thứ tưởng như là dấu ấn căn cước – cũng trở thành một sự xa lạ. Đây là motif quen thuộc trong văn học hiện sinh, từng xuất hiện ở Camus hay Kafka, nhưng được Ngô Tú Ngân nội địa hóa bằng chất liệu Việt – làng quê, người mẹ, cây cầu gỗ, cái cối xay…

Một điểm mạnh đặc biệt trong “Trăm Ngàn” là ngôn ngữ. Văn của Ngô Tú Ngân không ồn ào, không tráng lệ, nhưng dường như mỗi câu, mỗi hình ảnh đều được mài giũa để gợi lên tầng nghĩa biểu tượng. Mỗi chi tiết – từ cái quán nước cũ, những chiếc chum vỡ, đến đàn kiến bò trên nền gạch – đều thấm đẫm tính gợi và ám dụ.

Giọng điệu buồn, hoài niệm mà không bi lụy; tiếc nuối mà không than vãn. Đó là cái buồn của một trí tuệ đã chạm đến giới hạn của tri nhận.

Dưới lớp vỏ cá nhân, “Trăm Ngàn” là tiếng nói nhắc nhở về sự mai một của ký ức cộng đồng. Khi một làng quê không còn nhớ nổi tên con cháu, khi nhà thờ tổ bị xóa khỏi bản đồ để nhường chỗ cho công trình hiện đại – đó không chỉ là bi kịch của cá nhân Trăm Ngàn, mà là bi kịch của cả một nền văn hóa đang đánh mất chính mình.

Cái tên “Trăm Ngàn” có thể hiểu theo nhiều cách: là đơn vị tiền – như một ám chỉ đến giá trị vật chất lấn át tâm linh; là số lượng vô định – như muôn vạn thân phận vô danh bị cuốn trôi trong guồng máy đô thị hóa; hoặc là một ẩn dụ thiêng liêng về những gì đang dần chìm khuất mà lẽ ra phải được gìn giữ.

Nếu nhìn văn học trẻ như một dòng chảy đang tìm hướng đi, thì “Trăm Ngàn” chính là minh chứng cho một dòng văn mới – không chạy theo thị hiếu nhất thời, mà đi sâu vào những câu hỏi muôn thuở: “Tôi là ai?”, “Tôi thuộc về đâu?”, và “Ai còn nhớ tôi không?”

Tuy nhiên, nếu tác giả muốn tiếp cận đại chúng hoặc xác lập căn cước miền – như một “văn học miền Tây mới” – thì việc gia cố chất Nam Bộ qua ngôn ngữ, tâm lý và không gian sẽ cần được xem xét nghiêm túc trong các tác phẩm sau.
 

Mời theo dõi và tham gia "Bàn tròn văn học" bằng cách click vào avatar sau đây: 

Rất mong tiếp tục nhận được nhiều bài viết, ý kiến phản biện hoặc góc nhìn học thuật liên quan đến truyện ngắn Trăm Ngàn cũng như các vấn đề văn học khác theo địa chỉ email: khoa7073@gmail.comChúng tôi sẽ ưu tiên chọn đăng trên Văn chương TP. Hồ Chí Minh những bài viết có tinh thần xây dựng, tên tuổi rõ ràng và có giá trị học thuật.

Bài viết liên quan

Xem thêm
Triệu Kim Loan - Khúc độc thoại xanh của hồng gai
Bài viết sâu sắc dưới đây của nhà văn Kao Sơn dành cho buổi ra mắt sách Chữ gọi mùa trăng - Tập thơ thứ 7 đánh dấu chặng đường chín muồi của nhà thơ Triệu Kim Loan
Xem thêm
Quan niệm của Xuân Diệu về thơ từ những câu chuyện đời thường
Sinh thời, theo thống kê của Mã Giáng Lân, thi sĩ Xuân Diệu đã có hơn 500 buổi bình thơ trước công chúng. Đây là hoạt động nghệ thuật mà hiếm có nhà thơ, nhà văn nào ở Việt Nam và cả trên thế giới có thể sánh được. Không chỉ trong nước, chính “ông Hoàng thơ tình” Xuân Diệu đã có công quảng bá thi ca Việt Nam ra thế giới, giúp độc giả nước ngoài biết đến Nguyễn Du, Nguyễn Trãi, Tú Xương, Hồ Xuân Hương…
Xem thêm
Hành trình nước - Bước chuyển mình của kẻ sĩ chu du
Với Hành trình nước, Vũ Mai Phong cho phép người đọc thám hiểm một cõi tâm hồn mình, để chiêm nghiệm, để cảm nhận sự chuyển hóa kỳ diệu của nước - từ giọt sương nhỏ bé hóa thành đại dương bao la, từ tâm hồn cá nhân hòa vào tính thiêng của Tổ quốc.
Xem thêm
Gió Phương Nam 4 - Những lời thơ chân thực
Trang thơ “Gió Phương Nam 4” dễ dàng gợi lại những bước chân đồng đội năm xưa – bước chân thời chiến, bước chân thời bình, mang theo niềm vui, nỗi nhớ và cả những nỗi buồn sâu lắng.
Xem thêm
“Bến nước kinh Cùng” - Bến đợi của ký ức và tình người…
“Giữa bao vội vã, còn mấy ai lắng lòng với những phận người quê mộc mạc?” - Chính từ trăn trở ấy, “Bến nước kinh Cùng” của nhà văn Nguyễn Lập Em được tìm đến như một lời nhắc nhở tha thiết, đưa ta trở về với đất và người Nam Bộ, nơi tình quê và tình người thấm đẫm trong từng trang viết.
Xem thêm
Người thơ xứ Quảng: “Ảo hương lãng đãng bên trời cũ”
Nhà thơ Xuân Trường - tên thật Nguyễn Trường - là một tâm hồn phiêu bạt. Ông sinh ngày 12/12/1949 (theo giấy khai sinh) nhưng thực tế là năm 1945 (tuổi Ất Dậu), tại xã Đại Phong, huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam.
Xem thêm
Nước sông Sa Lung chưng cất bầu rượu thơ
Nhà thơ Nguyễn Hữu Thắng lớn lên bên dòng sông Sa Lung xanh trong. Có phải dòng sông Sa Lung là dòng sông thơ ca của đất Rồng - Vĩnh Long?. Tuổi thơ anh vô tư ngụp lặn vẫy vùng bơi lội tắm mát trong dòng sông ấy, nên anh rất yêu thơ, tập tành sáng tác thơ và thành công thơ khá sớm.
Xem thêm
Cung ngà xưa – Tiếng vọng ký ức trong miền tiếp nhận hôm nay
Đặt trong bối cảnh văn hóa, “cung ngà” còn gợi đến truyền thống âm nhạc dân tộc, nơi tiếng đàn, tiếng sáo từng là phương tiện gắn kết cộng đồng. Người miền Trung – đặc biệt là Huế và xứ Quảng – vốn sống trong không gian khắc nghiệt, thường tìm đến âm nhạc như một nơi trú ngụ tinh thần. Vì vậy, bài thơ không chỉ là ký ức cá nhân, mà còn mang dấu vết của ký ức tập thể.
Xem thêm
“Công chúa Ngọc Anh – bể khổ kiếp nhân sinh”
Văn học lịch sử vốn được xem là mảng khó viết bởi vừa đảm bảo tính chính xác vừa phải tạo được tính hấp dẫn lôi cuốn. Người viết văn học lịch sử không thể xuyên tạc, tô vẽ hay làm méo mó đi nội dung câu chuyện. Chính vì khó viết nên văn học lịch sử luôn là đề tài thu hút nhiều người đọc, bởi đó là cơ hội để người đọc và người sáng tác chiêm nghiệm lại quá khứ, suy ngẫm về tương lai, trăn trở về những hưng thịnh của thời đại, là một dòng chảy làm tái sinh những giai thoại dựa trên sự kiện lịch sử. Người viết văn học lịch sử là người phục dựng lại những bí ẩn còn chìm sâu trong bức màn thời gian, làm sáng tỏ những giá trị nghệ thuật mang tính truyền thống hay tín ngưỡng.
Xem thêm
Nhẹ nhàng bài ca cuộc sống nơi “Những cơn mưa thu” của Thanh Tám
Thanh Tám, Hội viên Hội Văn học nghệ thuật Lai Châu là cây viết truyện ngắn khá quen thuộc với bạn đọc. Một số truyện ngắn của Thanh Tám đã được đăng tải trên các trang báo sang trọng Báo Văn nghệ, Trang báo điện tử Vanvn.vn của Hội Nhà văn Việt Nam. Một trong những truyện ngắn của em, tôi tin rằng nhiều người thiện cảm, đó là truyện ngắn Những cơn mưa thu. Một câu chuyện gọn gàng, xinh xắn, gợi trong lòng độc giả những ấm áp, yêu thương như giọng văn nhẹ nhàng, truyền cảm của tác giả vậy.
Xem thêm
Tượng đài một anh hùng
Trường ca Tiếng chim rừng và đất lửa Tây Ninh (NXB Quân đội nhân dân, 2025) của tác giả Châu La Việt đã kiến tạo thành công nhiều biểu tượng về cuộc kháng chiến chống Mỹ một cách hệ thống, đa dạng về cấu trúc, sâu sắc về ý nghĩa, giàu có về tín hiệu thẩm mỹ.
Xem thêm
Cô gái Quảng Trị với nồng cay tiêu Cùa
Đọc 14 bài bút ký của nữ nhà báo Đào Khoa Thư, trong tập bút ký “Mùa bình thường” in chung với nhà báo Đào Tâm Thanh, do Nxb Thuận Hóa ấn hành tháng 7 năm 2025, tôi thật sự khâm phục cách viết khoáng hoạt của cô gái trẻ. Không gian được đề cập là mảnh đất quê nhà thân thương và những đất nước mà cô đặt chân đến để học tập, công tác, giao lưu, trải nghiệm. Lời văn tươi mới tràn đầy cảm xúc, lối viết chân thực, cởi mở, ngắn gọn cho ta thấy bao điều mới mẻ. Đọc lần lượt từng bài bút ký, thật thích thú với bao điều hấp dẫn qua từng câu chuyện kể về cuộc sống đời thường và các sự kiện diễn ra rất bổ ích.
Xem thêm
Đọc thơ Phương Viên – Ba khúc tình, rụng và gặp gỡ
Bằng giọng văn tinh tế, giàu cảm xúc và với kiến văn sâu rộng, tác giả đã khẳng định: thơ Phương Viên là nơi “chữ rụng mà hồn nở hoa”, một giọng thơ biết lặng đi để người đọc còn nghe tiếng của yêu thương và hồi sinh. Văn chương TP. Hồ Chí Minh xin giới thiệu bài viết này tới bạn đọc.
Xem thêm
Hạt bụi lênh đênh – Từ đất Ý hóa kiếp thân thương dưới trời nam
Rơi ra từ căn phòng bài trí trang trọng của một tòa lâu đài cổ kính. “HẠT BỤI” kia đã chọn kiếp “LÊNH ĐÊNH” để rồi một ngày lưu dấu hồn trần nơi “quê người đất khách”. Hẳn là trong sự lựa chọn “nghịch thường” đó, hàm chứa một điều lớn lao địa cửu thiên trường nơi thân mệnh mong manh cánh chuồn. HẠT BỤI LÊNH ĐÊNH – ngay từ nhan đề… đã cho thấy sắc tính Á Đông thông dụng. Điều đặc biệt ở đây. Nó được viết bởi ELENA PUCILLO TRƯƠNG một nhà văn, một nhà Khoa học/ học giả Ngữ Văn của Tây Phương – Ý.
Xem thêm
Hoài niệm quê hương trong thơ Nguyễn Quang Thuyên
Nguyễn Quang Thuyên vốn là “dân xây dựng” - Giám đốc Vinaconex 3 Phú Thọ , quê Tam Nông, Phú Thọ. Ai từng gặp anh thời điểm hiện tại sẽ có thiện cảm bởi nụ cười có duyên, thân thiện. Ấy là Nguyễn Quang Thuyên của hôm nay, hay chí ít cũng là cảm nhận của tôi, rằng nhiều năm trước, gặp anh sẽ ngỡ anh khó tính, có sự bụi bặm phong trần của nghề nghiệp, có vẻ lạnh lùng và cảm giác khó gần. Anh là “dân ngoại đạo” nhưng đã 10 tập thơ được xuất bản. Tập thơ “Đưa em về quê nội”, NXB Hội Nhà văn 2024 của anh vừa đạt giải A của Hội Liên hiệp văn học nghệ thuật Phú Thọ (Giải thưởng hàng năm, năm 2024).
Xem thêm
Khoảng trống trong thơ đương đại
Sang giai đoạn thơ hiện đại, đặc biệt từ thời kỳ Đổi Mới (1986) đến nay, dưới ảnh hưởng của thơ tự do, thơ thị giác, thơ hậu hiện đại,… khoảng trống được vận dụng đa dạng hơn: là dấu hiệu cấu trúc, chiến lược gợi mở ý nghĩa, cũng là phương tiện giải cấu trúc câu chữ. Việc nhận diện, phân loại và giải thích cơ chế thẩm mỹ của khoảng trống vì vậy cần được đặt trong dòng chảy lịch sử rộng hơn – từ các quy phạm cổ điển đến những cách tân hiện đại – nhằm làm rõ lý do và cơ chế khiến “sự im lặng” trở thành tiếng nói quan trọng trong thơ.
Xem thêm
Triệu Kim Loan – nỗi mình bộc bạch cùng trăng
Một bài viết chân thành, giàu rung cảm của Ngô Minh Oanh về tập thơ Chữ gọi mùa trăng của Triệu Kim Loan.
Xem thêm
Phan Nhật Tiến - Thời cầm bút nói về thời cầm súng
Bài viết của Trần Hóa về tập thơ mới của Phan Nhật Tiến
Xem thêm
Nắng xanh pha hương giọt mật đầy
Văn Chương TP.HCM xin giới thiệu bài của Tuấn Trần.
Xem thêm
Cảm nhận tác phẩm “Mật ngữ đen trắng”
Bài viết của nhà thơ Huỳnh Tấn Bảo từ Bà Rịa - Vũng Tàu
Xem thêm