TIN TỨC
  • Lý luận - Phê bình
  • “Trăm ngàn” – Hành trình truy nguyên bản thể giữa phế tích ký ức và nỗi cô đơn hiện sinh

“Trăm ngàn” – Hành trình truy nguyên bản thể giữa phế tích ký ức và nỗi cô đơn hiện sinh

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2025-07-30 17:29:06
mail facebook google pos stwis
495 lượt xem

Nhà thơ HƯƠNG THU

Thường tôi ít khi xen vào những tranh luận không mấy liên quan, không phải tôi hững hờ với cuộc sống chung quanh, mà vốn tôi không có thời gian. Gần đây, truyện ngắn “Trăm ngàn” của cây bút trẻ Ngô Tú Ngân bỗng nổi lên như một “hiện tượng” đã làm tôi chú ý.

Nhiều ý kiến trái chiều, nhiều bài viết mổ xẻ, phân tích ... đa số là “chê” hơn “khen”. Người VN mình nói chung, và làng văn nói riêng có một đặc tính rất lạ, đó là cứ hễ có một bài thơ, hay một tác phẩm ... được giải là thi nhau “ đưa lên bàn mỗ”. Đó cũng là lý do nhiều người “không dám dự thi” bất kỳ cuộc thi văn chương nào, vì sợ “lỡ xui” trúng giải sẽ làm đề tài bàn tán của dư luận.

Tôi tìm đọc truyện ngắn “Trăm ngàn” để xem thực hư thế nào. Và cảm nhận đầu tiên: Tôi ủng hộ Ngô Tú Ngân. Khoan đã bàn đến việc những điều được và chưa được của truyện, chỉ đơn giản một điều tôi ủng hộ bạn ấy vì bạn ấy là một cây bút trẻ - là một thế hệ kế thừa trong tương lai – cần được nuôi dưỡng và khích lệ tinh thần không chỉ với một Ngô Tú Ngân – mà còn với nhiều Ngô Tú Ngân khác. Tôi nghĩ đơn giản thôi, liệu có còn một Ngô Tú Ngân nào dám dự thi nữa không khi họ nghĩ đến những “lời sát thương” đang chờ đợi họ nếu họ trúng giải?

Trở lại với truyện ngắn “Trăm Ngàn”. Trong hầu hết các bài phê bình, đều có một điểm chung: “Trăm Ngàn” không phản ánh được đặc thù văn hóa miền Tây Nam bộ.

Dưới góc nhìn đơn thuần của một độc giả, tôi xin được nêu cảm nhận của riêng tôi như sau:  

1 “Trăm ngàn” là một truyện ngắn “vượt vùng” thay vì “thuần vùng”

Trước hết, cần xác định mục tiêu thẩm mỹ của truyện ngắn “Trăm Ngàn” không hoàn toàn nằm ở việc khắc họa đặc trưng vùng miền theo nghĩa hẹp. Dù truyện đặt bối cảnh ở một vùng quê phía Nam – có thể là miền Tây – nhưng Ngô Tú Ngân không chủ trương đi theo lối “tả thực vùng đất”, theo như cách Sơn Nam, Bình Nguyên Lộc hay Nguyễn Ngọc Tư thường làm. Truyện hướng về biểu tượng bản thể hơn là tư liệu dân tộc học.

Nói cách khác, ngôn ngữ, phong tục, địa danh, giọng điệu... không nhất thiết phải là “thuần Nam Bộ”, mà chỉ cần đủ để tạo nên một bầu không khí miền – thứ “hơi đất” mơ hồ nhưng ám ảnh, gợi nhớ. Truyện dùng tiếng Việt trung tính, tiết chế tối đa khẩu ngữ địa phương – đây không phải là thiếu hụt, mà là sự lựa chọn thẩm mỹ nhằm nhấn mạnh tính phổ quát của thân phận hơn là tính địa phương học

2. Vấn đề “thiếu đặc sản Nam Bộ” – là điểm trừ hay là một lựa chọn chiến lược?

Một số độc giả mong muốn bắt gặp trong “Trăm Ngàn” những chi tiết đậm chất miền Tây như: Ngôn ngữ mang âm sắc Nam Bộ rõ nét, môi trường sông nước, chợ nổi, cây cầu khỉ, lũ lụt…, Các thiết chế văn hóa quen thuộc như đình làng, đờn ca tài tử, hò trên sông …

Tuy nhiên, theo tôi, đó là một chiến lược của Ngô Tú Ngân. Cây bút trẻ chủ đích muốn tránh rơi vào “chủ nghĩa đặc sản” – tức là tận dụng các biểu tượng đặc thù địa phương để tạo vẻ bản địa hóa một cách phổ thông. Ở đây, điều mà tác giả làm, chính là dụng tâm tạo ra một “miền quê mất tên” – một nỗi mất mát không chỉ của miền Tây, mà là của mọi miền đất đang bị đô thị hóa và lãng quên. Vì vậy, nếu chúng ta cứ khăng khăng đòi hỏi tính “đặc thù văn hóa miền”, chúng ta sẽ vô tình giới hạn khả năng biểu đạt của văn học, khiến một truyện ngắn mang tầm phổ quát bị ép khuôn vào tính dân tộc học địa phương.

Tuy nhiên, xét về một góc độ nào đó, sự đòi hỏi của độc giả cũng không phải là không có lý.

Nếu muốn “Trăm Ngàn” được định vị như một tiếng nói riêng của vùng đất Nam Bộ, thì rõ ràng nó chưa thật sự “neo đậu” vào những chất liệu đặc trưng của văn hóa này. Ví dụ: Giọng kể trong truyện thiên về văn phong trung tính, đậm chất Bắc Trung Bộ hoặc phổ thông, thiếu âm sắc “ngọt” của người miền Tây. Tâm lý nhân vật của “Trăm ngàn” thiên về nội chiếu, cô độc, suy tư triết học – gần với văn học đô thị hơn là tính cộng đồng, xuề xòa, hài hước, hào sảng vốn có của người dân miền sông nước.

Điều này không sai, nhưng cũng đặt ra câu hỏi: Liệu cái “Trăm Ngàn” mất là ký ức của riêng miền Tây, hay là ký ức Việt Nam nói chung? Nếu là ký ức Việt Nam nói chung, thì việc thiếu “chất Nam Bộ” không phải lỗi, mà là dụng ý.

Theo tôi, truyện ngắn “Trăm Ngàn” không đi theo lối kể tuyến tính. Ngô Tú Ngân vận dụng hình thức hồi cố, đan xen giữa hiện tại – quá khứ, mộng – thực một cách mềm mại, tựa như mạch nước ngầm tê buốt xuyên qua lớp đất thời gian. Nhân vật “tôi” – cũng chính là Trăm Ngàn – trở về sau nhiều năm lưu lạc, để tìm kiếm căn nhà xưa, dòng họ cũ, ngọn khói bếp chiều, và cả hình bóng người mẹ đã tan vào tro bụi.

Cấu trúc đứt đoạn ấy không đơn thuần là kỹ thuật kể chuyện. Đó là cách thức mà văn chương hậu hiện đại sử dụng để phản ánh một thế giới vốn đã tan vỡ, nơi con người chỉ còn có thể tìm lại chính mình qua những mảnh rời rạc ký ức. Trong “Trăm Ngàn”, không gian làng quê hiện ra như một thứ “biểu tượng suy tàn” – vừa thực, vừa siêu thực, vừa dân dã, vừa hoang tàn: làng xưa đã không còn, người làng không nhận ra Trăm Ngàn, nhà thờ họ bị đập bỏ để xây công trình du lịch…

“Trăm Ngàn” không đơn thuần là tên gọi. Đó là định danh của một thân phận – thân phận của những kẻ bị “trôi dạt” giữa đời sống, những kẻ không còn được đặt đúng vào vị trí cội nguồn. Nhân vật trở về quê, mang theo tâm thế của kẻ lưu lạc, nhưng bi kịch nằm ở chỗ: chính nơi chốn gọi là quê ấy lại trở thành cõi tha hương.

Ngô Tú Ngân đã khắc họa rất tinh tế một “nỗi đau bản thể”: khi ký ức không còn đất cắm rễ, con người rơi vào trạng thái vô định. Trăm Ngàn không chỉ mất quê – anh mất cả khả năng được thừa nhận trong ký ức của người khác. Ngay đến tên gọi – thứ tưởng như là dấu ấn căn cước – cũng trở thành một sự xa lạ. Đây là motif quen thuộc trong văn học hiện sinh, từng xuất hiện ở Camus hay Kafka, nhưng được Ngô Tú Ngân nội địa hóa bằng chất liệu Việt – làng quê, người mẹ, cây cầu gỗ, cái cối xay…

Một điểm mạnh đặc biệt trong “Trăm Ngàn” là ngôn ngữ. Văn của Ngô Tú Ngân không ồn ào, không tráng lệ, nhưng dường như mỗi câu, mỗi hình ảnh đều được mài giũa để gợi lên tầng nghĩa biểu tượng. Mỗi chi tiết – từ cái quán nước cũ, những chiếc chum vỡ, đến đàn kiến bò trên nền gạch – đều thấm đẫm tính gợi và ám dụ.

Giọng điệu buồn, hoài niệm mà không bi lụy; tiếc nuối mà không than vãn. Đó là cái buồn của một trí tuệ đã chạm đến giới hạn của tri nhận.

Dưới lớp vỏ cá nhân, “Trăm Ngàn” là tiếng nói nhắc nhở về sự mai một của ký ức cộng đồng. Khi một làng quê không còn nhớ nổi tên con cháu, khi nhà thờ tổ bị xóa khỏi bản đồ để nhường chỗ cho công trình hiện đại – đó không chỉ là bi kịch của cá nhân Trăm Ngàn, mà là bi kịch của cả một nền văn hóa đang đánh mất chính mình.

Cái tên “Trăm Ngàn” có thể hiểu theo nhiều cách: là đơn vị tiền – như một ám chỉ đến giá trị vật chất lấn át tâm linh; là số lượng vô định – như muôn vạn thân phận vô danh bị cuốn trôi trong guồng máy đô thị hóa; hoặc là một ẩn dụ thiêng liêng về những gì đang dần chìm khuất mà lẽ ra phải được gìn giữ.

Nếu nhìn văn học trẻ như một dòng chảy đang tìm hướng đi, thì “Trăm Ngàn” chính là minh chứng cho một dòng văn mới – không chạy theo thị hiếu nhất thời, mà đi sâu vào những câu hỏi muôn thuở: “Tôi là ai?”, “Tôi thuộc về đâu?”, và “Ai còn nhớ tôi không?”

Tuy nhiên, nếu tác giả muốn tiếp cận đại chúng hoặc xác lập căn cước miền – như một “văn học miền Tây mới” – thì việc gia cố chất Nam Bộ qua ngôn ngữ, tâm lý và không gian sẽ cần được xem xét nghiêm túc trong các tác phẩm sau.
 

Mời theo dõi và tham gia "Bàn tròn văn học" bằng cách click vào avatar sau đây: 

Rất mong tiếp tục nhận được nhiều bài viết, ý kiến phản biện hoặc góc nhìn học thuật liên quan đến truyện ngắn Trăm Ngàn cũng như các vấn đề văn học khác theo địa chỉ email: khoa7073@gmail.comChúng tôi sẽ ưu tiên chọn đăng trên Văn chương TP. Hồ Chí Minh những bài viết có tinh thần xây dựng, tên tuổi rõ ràng và có giá trị học thuật.

Bài viết liên quan

Xem thêm
“Khoảng trời xanh ký ức” – khúc lắng đọng, yêu thương
Sau buổi ra mắt ấm áp tập thơ “Khoảng trời xanh ký ức” (30/5/2025), bài viết của TS. Hoàng Thị Thu Thủy tiếp tục khắc họa nét đẹp dung dị và giàu cảm xúc trong thơ Nguyễn Thị Phương Nam – một “nhật ký tâm hồn” chạm đến trái tim người đọc.
Xem thêm
Một cách nghĩ khác về tình yêu
Nhà văn Đỗ Viết Nghiệm với tham luận “Một cách nghĩ khác về tình yêu” mang đến nhiều gợi mở sâu sắc về cách nhìn và sức sáng tạo của tác phẩm.
Xem thêm
Nhà văn Mai Văn Tạo – Viết từ tấm lòng sâu nặng để tri ân nguồn cội
Vùng đất miền Tây Nam Bộ đã luôn ghi khắc văn nghiệp của các nhà văn kỳ cựu, đưa tên tuổi họ trở thành những nguồn sáng rạng rỡ với những trang viết đậm hồn đất và tình người của xứ sở nơi đây. Có thể kể đến nhà văn, nhà nghiên cứu, học giả Nguyễn Chánh Sắt, Nguyễn Hiến Lê, Nguyễn Văn Hầu…; các nhà văn Sơn Nam, Anh Đức, Trang Thế Hy, Nguyễn Quang Sáng, Lê Văn Thảo, Nguyễn Lập Em, Phạm Trung Khâu, Lê Đình Trường, Ngô Khắc Tài…; các nhà thơ Thanh Hải, Phạm Hữu Quang, Đinh Thị Thu Vân, Trịnh Bửu Hoài, Thu Nguyệt, Phạm Nguyên Thạch, Ngọc Phượng, Song Hảo…
Xem thêm
Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam đương đại - một số xu hướng chủ yếu
Giữa lúc tiểu thuyết và phim Mưa đỏ của Chu Lai làm dấy lên nhiều tranh cãi về ranh giới giữa lịch sử và hư cấu, bài viết của PGS-TS Nguyễn Văn Dân đem lại một cái nhìn hệ thống về tiểu thuyết lịch sử Việt Nam đương đại.
Xem thêm
Khơi dậy sức sáng tạo văn học nghệ thuật trong lực lượng sáng tác trẻ ở miền núi - Thực tiễn và kỳ vọng
Cần phải làm gì, làm như thế nào để khơi dậy sức sáng tạo của những người sáng tác trẻ; để tạo môi trường nuôi dưỡng họ trở thành lực lượng sáng tác chuyên nghiệp?
Xem thêm
Thử giải mã ba nhà văn khó đọc ba miền
Ba miền đất nước, ba cá tính sáng tạo khác biệt – Nguyễn Bình Phương với “hiện thực lũy thừa”, Nhật Chiêu cùng “thể Sương” mơ huyền, và Ngô Phan Lưu qua “lối viết nông dân” thấm đẫm đời thường.
Xem thêm
Thoát khỏi thân phàm - Tiểu luận của Hồ Anh Thái
Bản năng tự vẫn nằm im cũng có khi bất ngờ trỗi dậy. Không phải là muốn chết. Chỉ là “một lúc” mà thôi. Được thoát ra khỏi thế giới này trong chốc lát, được thấy mình đã thoát hồn khỏi thân phàm, được thấy người ở lại người cười người khóc. Xong đâu đấy, ta trở lại, tái sinh, nhìn cuộc đời bằng cặp mắt mới. Cuộc đời dù có vắng ta cũng chẳng làm sao.
Xem thêm
Chạm thu - chạm ngưỡng cửa thu về
Chạm thu – tập thơ mới của bác sĩ, nhà thơ Mai Hữu Phước mang đến những chiêm nghiệm lắng sâu về đời người và tình thơ. Bài viết của Lê Bá Duy gợi mở một hành trình thi ca giàu cảm xúc, chân thành và đầy dư âm.
Xem thêm
“Tình đất biên cương” – Tập truyện giàu giá trị hiện thực và giá trị nhân văn
Những người từng quen biết và cùng công tác với anh luôn nhận thấy anh là một cán bộ gương mẫu, trách nhiệm, tác phong nhanh nhẹn, ngôn từ giao tiếp hoạt bát. Tuy nhiên, ít ai biết trong anh tiềm tàng một khả năng sáng tác văn chương như vậy. Khi hoàn thành nhiệm vụ công chức, được nhà nước cho nghỉ chế độ, cũng chính là lúc “anh hoa phát tiết”, các thể loại thơ, tản văn, truyện ký, tiểu thuyết,… được thể nghiệm và đáng nể nhất là hai tập sách dày dặn (Truyện ký Tình yêu người lính - NXB Thanh niên năm 2021, 364 trang và tiểu thuyết Hoa trong mắt bão - NXB Hội Nhà văn năm 2023, 570 trang) và hiện tại trên tay tôi là tập truyện ngắn Tình đất biên cương.
Xem thêm
Ẩn số đường đến thơ của Trần Hóa
Bài đăng Diễn đàn Văn nghệ Việt Nam, số tháng 9/2025
Xem thêm
Nhà lý luận phê bình Đỗ Nguyên Thương và tập thơ “Tìm về miền ký ức”
Tôi quen nhà giáo, nhà Lý luận Phê bình văn học Đỗ Nguyên Thương thật tình cờ trong buổi Tọa đàm về Thơ 1-2-3 do nhà thơ Phan Hoàng chủ trì có sự phối hợp của Hội nhà văn Cần Thơ và khoa Khoa học Xã hội và Nhân văn tường Đại học Cần Thơ.
Xem thêm
Tư tưởng nhân dân anh hùng
1. Vì tình yêu quê hương đất nước, Trần Bảo Định đến với văn chương. Nhà văn Long An để lại dấu ấn đáng kể trong sinh hoạt văn chương từ những năm 2010 đến nay. Bên cạnh bộ sách Đất và người Nam Bộ mến yêu gồm 14 tập truyện ngắn, Trần Bảo Định còn có 6 tập thơ, 5 tập tiểu luận phê bình. Năm 2024, nhà văn trình làng tuyển tập Đất Việt trời Nam liệt truyện gồm 3 tập (thượng, trung, hạ) do Nxb Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh ấn hành. Tái hiện diễn trình lịch sử vùng đất Nam Bộ từ hồi một 1620, hồi hai 1859, đến hồi ba 1900, tuyển tập có thể xem như trường thiên tiểu thuyết ca ngợi tinh thần đấu tranh yêu nước anh dũng của nhân dân Nam Bộ, như lời giới thiệu của Nhà xuất bản: “Chính các anh hùng vô danh mới thể hiện toàn bộ chủ đích nghệ thuật của Trần Bảo Định, cho thấy tư tưởng: nhân dân anh hùng!”
Xem thêm
Thơ tình Nguyên Bình đắm đuối
(Vanchuongthanhphohochiminh.vn) - Các nhà thơ từ cổ chí kim không nhiều thì ít đều viết thơ tình, điều đó không có gì lạ; vì tâm hồn họ lãng mạn, mơ mộng, tôn thờ phái đẹp. Nhà thơ Nguyên Bình không nằm ngoài số đó. Anh viết văn làm thơ từ thời sinh viên, cả trước và sau năm 1975. Những bài thơ tình, anh không dám trao tay cô nữ sinh xinh đẹp xứ Huế anh yêu say đắm: Vẫn mãi “Là bài thơ còn hoài trong vở/Giữa giờ chơi mang đến lại mang về” thơ Đỗ Trung Quân.
Xem thêm
Mỹ cảm của kiểu tự sự trong suốt trong tập tản văn “Nỗi buồn trong suốt” của Nguyễn Đức Phú Thọ
Tản văn là một thể loại dễ tiếp cận với mọi mặt của đời sống thông qua những lát cắt hiện thực, nhưng trung tâm tinh thần của thể loại này lại là cái tôi tư tưởng, cảm xúc của người nghệ sĩ. Tản văn vừa đậm chất trữ tình, vừa mang bản chất tự sự. Mỗi tác phẩm là một cách diễn giải về “Thế giới như tôi thấy”, đồng thời cũng là một tấm gương phản chiếu cấu trúc nội tâm của nhà văn.
Xem thêm
Cảm nhận thơ Trần Xuân Hóa từ một góc nhìn đa cảm
Bài viết của nhà thơ CCB Trần Trí Thông
Xem thêm
Hơi thở đất quê trong miền nhớ của Huỳnh Khang
Chủ đề và nội dung trong MIỀN NHỚ xoay quanh ký ức quê hương, tình mẫu tử, nghĩa làng nghĩa xóm, thiên nhiên, tình yêu đôi lứa, nỗi buồn mất mát, cùng những triết lý đời thường.
Xem thêm
Tiếng văn từ phía “bạn nguồn”
Nguyễn Minh Sơn, Hồ Tấn Vũ và Nguyễn Thị Như Hiền là ba cây bút thuộc thế hệ 7X và 9X
Xem thêm
Về trên dặm trường thiên lý “Miền Ô châu”
Tiếp theo các cuốn tản văn Sông vẫn chảy đời sông (NXB Thanh Niên 2023), Bốn mùa thương nhớ (NXB Thanh Niên 2024), nhà văn Nguyễn Linh Giang vừa ra mắt cuốn tản văn mới: “Miền Ô Châu” (NXB Phụ Nữ Việt Nam, 2025).
Xem thêm
Thơ ca chào đón Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2/9
Cách mạng tháng Tám - 1945 thành công, mở ra trang sử vàng chói lọi cho dân tộc. Bác Hồ đọc “Tuyên ngôn độc lập”, khai sinh ra Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á được thành lập. Hai tiếng Việt Nam vang lên đầy phấn khởi, tự hào trên trường quốc tế, đã khơi nguồn, làm bừng dậy biết bao cảm hứng về thơ ca, nhạc, họa thật mới mẻ, mãnh liệt và sôi nổi, làm không khí văn nghệ đổi sắc thay da. Từ đây nền văn học của ta chỉ còn duy nhất một trào lưu là văn học cách mạng.
Xem thêm
Hồi hộp trước “phút bù giờ” của Minh Đan
Ngôn ngữ của Minh Đan đôi lúc không còn chỉ là ký tự để giải nghĩa, mà là vật liệu có tâm hồn – biết khít lại, giãn ra, để tạo hình tượng và âm thanh.
Xem thêm