TIN TỨC

Những câu chuyện hấp dẫn và cảm động

Người đăng : phunghieu
Ngày đăng: 2025-08-08 22:52:07
mail facebook google pos stwis
291 lượt xem

 

Nguyễn Xuân Sang

Giữa tháng 6 năm 2025 nghệ sĩ Hồ Thanh Thoan cho ra mắt tập Bút ký mang tựa đề:“Một thời đã qua” do NXB Thuận Hóa ấn hành, dày 224 trang, khổ 14,5 x 20cm. Với vốn sống từng trải, đảm nhiệm nhiều trọng trách chuyên môn khác nhau, có dịp đến nhiều vùng miền, bắt gặp những câu chuyện thú vị, người nghệ sỹ đa tài ấy lặng lẽ chép vào sổ tay, nay mới có dịp viết xong 20 câu chuyện về “người thật, việc thật” đầy hấp dẫn và cảm động. Đó là nghệ sĩ Hồ Thanh Thoan, Phó Chủ tịch chuyên trách Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh Quảng Trị.

 

Bìa sách “Một thời đã qua” của Nhà báo Hồ Thanh Thoan

 

Họa sĩ, nghệ sĩ nhiếp ảnh, nhà báo Hồ Thanh Thoan sinh ngày 03-3-1957 tại xã An Lạc, TP. Đông Hà, tỉnh Quảng Trị; tốt nghiệp Trường Đại học Mỹ thuật Huế năm 1979. Anh là hội viên Hội Mỹ thuật Việt Nam, hội viên Hội Nhà báo Việt Nam, hội viên Hội Điện ảnh Việt Nam, hội viên Hội VHNT Quảng Trị. Tháng 5 năm 2019 anh cho ra mắt cuốn sách tranh mỹ thuật: “Sắc màu quê hương” với 80 bức tranh, khắc họa chân dung những người lao động ở một số ngành nghề trên khắp mọi vùng miền đất nước. Bên cạnh đó, họa sĩ tôn vinh hình ảnh Bộ đội Cụ Hồ ngày đêm cầm chắc tay súng bảo vệ lãnh hải, biên cương thiêng liêng của Tổ quốc. Tháng 5 năm 2021 anh cho ra mắt tiếp tập sách khảo cứu:“Một số lễ hội, làng nghề và trò chơi dân gian ở Quảng Trị”. Sách dày 213 trang, gồm 18 bài, mỗi bài có hình ảnh minh họa; chia làm 3 phần: Lễ hội, Làng nghề, Trò chơi dân gian riêng có ở Quảng Trị, không lẫn với địa phương nào trên dải đất hình chữ S thân yêu. Tháng 02 năm 2022, anh cùng con trai là Hồ Thanh Thọ xuất bản tập sách ảnh Nghệ thuật “Bản sắc vùng cao” gói gọn trong 120 trang màu nền nã về đề tài miền núi tỉnh nhà. Đến tháng 8 năm 2023, anh lại tiếp tục cho ra đời tập sách “Cầu nối nghệ thuật và không gian Mỹ thuật Quảng Trị”, dày 232 trang, viết về lĩnh vực Nghệ thuật tạo hình ở Quảng Trị.

Hôm nay, tác giả gom lại 20 câu chuyện mà anh là người trong cuộc hay được chứng kiến “mắt thấy, tai nghe” in thành sách, có ảnh minh họa do anh bấm máy để chia sẻ cùng bạn đọc gần xa những kỷ niệm không thể nào quên của Một thời đã qua”. Bài “Để lại trong ký ức” tác giả kể lại câu chuyện thân tình khi Đoàn kịch nói Bình Trị Thiên được phép đến thăm nhà đồng chí Tổng Bí thư Lê Duẩn, nhân dịp Đoàn ra biểu diễn phục vụ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng, diễn ra từ ngày 27 đến ngày 31/3/1982 tại Thủ đô Hà Nội. Một sự kiện đặc biệt nữa dành cho Đoàn kịch nói Bình Trị Thiên: “Đêm 26.3.1982. Đoàn vinh dự được biểu diễn phục vụ Bộ Chính trị trước lúc khai mạc Đại hội Đảng toàn quốc tại Hội trường Ba Đình. Đồng chí Lê Duẩn đến Hội trường sớm hơn các đại biểu khác để động viên và thăm hỏi Đoàn, bởi vì con em quê nhà Quảng Trị ra thủ đô làm nhiệm vụ cao cả. Sau buổi diễn, Đoàn đã được đồng chí Lê Duẩn thay mặt Bộ Chính trị chúc mừng và động viên khen ngợi”. Trong bài “Chuyện trùng hợp ngẫu nhiên”, khi chiếu bộ phim “Mùi cỏ cháy”, kịch bản Hoàng Nhuận Cầm, đạo diễn Nguyễn Hữu Mười do Hãng Phim truyện Việt Nam sản xuất. Trong phim có những tình tiết giống hệt câu chuyện xảy ra năm 2009 tại nhà bà Mai Thị Nuôi ở Thành Cổ Quảng Trị. Một đêm nọ bà Nuôi mơ thấy anh bộ đội Nguyễn Văn Long quê Hà Tĩnh về báo mộng “Tôi đã hy sinh trong vườn nhà chị, khoảng ba ngày tới tôi sẽ trở lại hướng dẫn cụ thể địa điểm để chị lấy xác tôi lên cùng 8 đồng đội ở bên cạnh, xong nhờ chị báo với chính quyền địa phương đưa vào Nghĩa trang thị xã, riêng tôi vẫn muốn ở lại đây một thời gian với nhiều đồng đội đang nằm trong vườn, nên chị cố gắng đắp cho tôi một phần mộ tại đó và chị nhớ khi đào tôi lên sẽ có hòn đá bên cạnh, đừng bỏ đi và hãy cất giữ lấy…” những tình tiết diễn ra tiếp theo của câu chuyện y như lời liệt sĩ Long báo mộng vậy! Phải chăng trong thế giới của những người đang sống còn có những linh hồn linh thiêng vì Tổ quốc ngã xuống cùng song hành bên ta?

Bài “Chào cờ trên đảo Trường Sa” với lối kể chuyện tự nhiên, tác giả cho ta thấy một phần lãnh thổ thiêng liêng của Tổ quốc được quân cùng dân bảo vệ và xây dựng. Ở nơi đó có cơ sở hạ tầng thiết yếu, như: Trung tâm y tế, trạm khí tượng thủy văn, nhà tưởng niệm Bác Hồ, nhà ở của dân; tượng đài các vị anh hùng dân tộc, anh hùng liệt sĩ. Điều đặc biệt để lại ấn tượng nhất với tác giả khi đến đảo Trường Sa và các đảo nhỏ khác: “Cứ mỗi buổi sáng vào lúc 5 giờ 30 phút, lễ thượng cờ được các chiến sĩ tiến hành ngay tại cột mốc chủ quyền, đây được coi là một trong những nhiệm vụ hết sức thiêng liêng của những người lính đảo. Ngoài ra, mỗi tháng một lần, các lực lượng trên đảo đều tổ chức lễ chào cờ vào sáng thứ hai đầu tiên. Tất cả quân và dân cùng tham gia hoạt động mang nhiều ý nghĩa này. Màu cờ đỏ giữa bao la nước biếc, trời xanh và mây trắng như được tươi thắm thêm và rực rỡ hơn, làm ai nhìn thấy đều xúc động. Lễ chào cờ trên Đảo Trường Sa luôn in sâu vào lòng của tất cả mọi người, kỷ niệm đó không thể nào quên trong mỗi chúng tôi khi được đến một vùng đất thiêng liêng. Bi vì cũng lá cờ Tổ quốc đỏ tươi, cũng bài hát quốc ca đã nằm lòng từ thuở đi học nhưng lúc này giữa biển trời Trường Sa, trong tim mọi người ai nấy đều bỗng nhiên nghẹn ngào, một nổi trào dâng đầy cảm xúc khó tả, nhiều người trong đoàn rơi nước mắt, nhất là các chị em phụ nữ, họ bật khóc thành tiếng. Là công dân của đất liền khi được ra với biển đảo mà  được dự lễ chào cờ thì chúng tôi nghĩ rằng: Tất cả dân tộc Việt Nam ở bất cứ nơi đâu đều luôn hướng về biển đảo thân yêu của Tổ quốc và ngược lại, các chiến sĩ Trường Sa lúc nào cũng hướng về đất liền thân yêu mà vũng chắc tay súng”.

 

Nghệ sĩ, Nhà báo Hồ Thanh Thoan (bên trái) và Tác giả.

 

Trong bài “Trận Bạch Đằng trên sông Hiếu” tác giả ôn lại trận đánh trên sông Hiếu của 57 năm về trước. Quân đội Mỹ dùng đường sông vận tải vũ khí từ Cửa Việt đến căn cứ quân sự Đông Hà, cung cấp cho chiến trường Đường 9 - Khe Sanh. Bộ Chỉ huy Quân Giải phóng Mặt trận Đường 9 - Bắc Quảng Trị phổ biến tới nhân dân các thôn Thượng Nghĩa, Đại Độ và Đông Lai (thuộc xã Cam Giang) vót nhọn gốc tre tập kết tại Đập Đại Độ I. Nhân dân xã Gio Hà (nay là Gio Mai và Gio Quang) được giao nhiệm vụ chặt cây dương liễu cũng vót nhọn dưới gốc. Sau mấy ngày huy động gấp rút có hơn 4.000 cây tre và cây dương liễu dài trên 4m được bí mật đưa đến địa điểm đã định. Bên cạnh đó, còn gom được 300kg dây kẽm gai để cột giằng với tre và dương liễu tạo nên chướng ngại vật nguy hiểm dưới lòng sông, nhằm làm hỏng chân vịt tàu chiến  Mỹ: “Nắm bắt được quy luật thủy triều lên xuống ở sông Hiếu, lúc 21 giờ đêm 28 tháng 02 năm 1968. Các lực lượng gồm: Biệt động thị trấn Đông Hà; du kích xã Cam Giang và Gio Hà (nay là Gio Mai và Gio Quang), bộ đội địa phương Cam Lộ, Trung đoàn 270, bộ đội Đoàn đặc công 126Hải Quân Việt Nam và ngư dân vạn chài ngã ba Vạn Trọng Đức và xã Cam Giang thực hiện. Tổ chức huy động được 18 chiếc thuyền chở cọc tre, cọc dương liễu, các bó nè tre và dây kẽm gai bí mật tiếp cận khúc sông từ Gia Độ đến cuối làng Đông Lai để bắt đầu thực hiện việc cắm cọc. Ở khu vực này sông khá hẹp, có độ sâu từ 6 đến 15m, hai bên bờ địa hình khá thuận lợi cho việc cất giấu, bố trí lực lượng và hỏa lực. Lúc 22 giờ, khi nước đứng, công việc cắm cọc bắt đầu được tiến hành, những chỗ nước sâu, cọc tre và dương liễu ở đầu gốc buộc với các tảng đá lớn thả xuống, nơi nước cạn thì cắm trực tiếp vào đáy sông, cứ 3 cây chụm lại rồi buộc chặt trên đầu, những cây cao khỏi mặt nước thì cắt bớt, giữa các cọc được giằng dây kẽm gai và những bó nè tre tạo thành mảng bè nửa chìm nửa nổi neo giữ khỏi trôi tự do. Cùng lúc đó Đoàn 126 đặc công bố trí gài mìn và thả ngư lôi xuống hệ thống các cọc cắm. Sau hơn một tiếng đồng hồ, trận địa được bố trí thành hai bãi cọc, kéo dài khoảng 800m và rộng hàng ngàn m2. Khoảng 8 giờ sáng ngày 02 tháng 3 năm 1968, một đoàn tàu gồm 12 chiếc trong đó có tàu tuần tiễu và các tàu tiếp viện đổ bộ đa năng của Hải quân Mỹ và quân lực Việt Nam cộng hòa từ Cửa Việt lên Đông Hà, mỗi chiếc đi cách nhau khoảng 20m. Phía trên là máy bay trinh sát, trực thăng vũ trang hộ tống. Lúc tiến vào trận địa phục kích, thủy triều xuống thấp, chiếc tàu đi đầu vấp phải bãi cọc và chướng ngại vật buộc tàu Mỹ phải dồn đội hình rồi đi chậm lại, đúng lúc này thủy lôi và mình phát nổ. Những chiếc tàu còn lại định rút lui nhưng bị hỏa lực thuộc Trung đoàn 270 cùng bộ binh và du kích địa phương mai phục bên bờ sông Hiếu từ Mai Xá, Vinh Quang Hạ và Đại Độ gồm ĐKZ, B41, 12,7mm, súng cối, súng bộ binh tấn công dồn dập. Trong đoàn tàu địch có một số chiếc chở xăng dầu bị trúng đạn tràn ra mặt nước bốc cháy dữ dội. Sau hơn một giờ bị quân ta chặn đánh, 07 tàu tiếp viện Mỹ bị bắn cháy và chìm tại chỗ, 5 tàu còn lại quay đầu rút lui bị pháo binh ta từ bờ Bắc sông Bến Hải bắn làm hư hỏng nặng. Tuyến tiếp viện hậu cần bằng đường thủy từ Cửa Việt lên Đông Hà của địch bị thất bại hoàn toàn. Chiến công trên sông Hiếu góp phần rất lớn cho chiến thắng của quân giải phóng tại chiến trường Đường 9 - Khe Sanh lúc bấy giờ”.

Trong “Một thời làm báo” tác giả kể lúc nhỏ ước mơ lớn lên trở thành “ký giả”. Với niềm đam mê, anh bắt đầu tự học nghề ảnh khi đang còn ngồi trên ghế bậc phổ thông trung học. Ngày nghỉ cuối tuần anh ra hiệu ảnh thuê máy đi chụp ngoại cảnh. Một thời gian sử dụng máy thành thạo, anh đã kiếm sống bằng nghề ảnh. Nguyện vọng của anh là cầm bút và cầm máy nhưng anh lại học Trường Mỹ thuật Huế. Sau 5 năm đào tạo, anh được phân công về Đoàn Kịch nói Bình Trị Thiên làm công tác thiết kế Mỹ thuật sân khấu. Đoàn đi diễn dài ngày khắp mọi miền đất nước. Ban đêm theo Đoàn phục vụ khán giả, ban ngày anh dành thời gian tác nghiệp cả hai loại hình: Mỹ thuật và Nhiếp ảnh, cộng tác cho Tạp chí Sân khấu và Báo Dân (tỉnh Bình Trị Thiên). Khi chia tách tỉnh trở lại quê nhà, anh được giao tổ chức triển lãm thành tựu, hội chợ, trưng bày tranh, ảnh tư liệu và nghệ thuật nên anh có điều kiện tiếp xúc và thực hiện. Anh được xem như là phóng viên chuyên nghiệp Báo Quảng Trị về mảng ảnh thời sự. Kỷ niệm một năm chia tách tỉnh, lãnh đạo tỉnh có kế hoạch triển lãm ảnh tư liệu và ảnh thời sự về xây dựng quê hương trên tất cả các phương diện. Ảnh của anh được chuẩn bị từ trước nên anh tự in, phóng to để triển lãm. Năm 1991, Tạp chí Văn hóa Quảng Trị được thành lập, anh được điều động về làm họa sĩ trình bày, đồng thời là phóng viên ảnh nên chính thức trở thành Nhà báo từ đó. Nghệ sĩ Hồ Thanh Thoan vui vẻ nhớ lại: “Sau hơn ba năm hoạt động, Tạp chí Văn hóa Quảng Trị nhập với Tạp chí Cửa Việt thành Tạp chí Cửa Việt bộ mới, đã duy trì và phát triển cho đến hôm nay. Một công việc rất phù hợp với tôi, đồng thời cũng do tổ chức nhìn nhận để sắp xếp. Trong gần 16 năm công tác ở hai đơn vị báo văn nghệ, có rất nhiều kỷ niệm về thể loại ảnh báo chí đã đi vào ký ức không thể nào quên, tôi nhớ mãi đến suốt đời…”. Những bài còn lại trong tập sách, mỗi bài mỗi câu chuyện sống động, như một tư liệu quý, đầy thú vị: “Dấu ấn ngày đầu thành lập”, “Làng hoa bên sông Hiếu”, “Giai thoại một thời”, “Tạp chí Cửa Việt - Dấu ấn hành trình”, “Thầy giáo biên phòng vùng cao”, “Hội ngộ đồng hương”, “Thắng cảnh miền Tây Quảng Trị”, “Người thổi hồn văn hóa dân tộc”, “Một câu chuyện huyền bí”, “Vọng thiêng du lịch hoài niệm”, “Mạch nguồn biển đảo”, “Điểm đến du lịch cộng đồng”, “Những kỷ niệm về trưng bày báo xuân”, “Hạnh phúc tuổi già”…

Tập Bút ký “Một thời đã qua” của nghệ sĩ Hồ Thanh Thoan có nội dung phong phú, mỗi bài mỗi câu chuyện thú vị, cách kể chân thật, văn phong giản dị dễ hiểu, những tình tiết sống động lôi cuốn người đọc, vì sức hút của câu chuyện là “người thật, việc thật”.

Tập Bút ký “Một thời đã qua” rất đáng cho mỗi chúng ta đón nhận và thưởng thức.

N.X.S

Bài viết liên quan

Xem thêm
Thơ là linh dược
Tôi nhận được tập thơ Cả những ngày đã quên của tác giả Trần thị Thuỳ Vy, sinh năm 1975, quê Duy Xuyên Quảng Nam. Tập thơ dày 115 trang, khổ 18x18, bìa cứng giấy đẹp, trình bày rất trang nhã, do Nhà XB Hội Nhà Văn ấn hành tháng 10 năm 2024. Cầm tập thơ lên tôi đọc đi đọc lại đôi lần, thấy hay hay, cái dễ nhận ra là tâm tư tình cảm của tác giả đã gởi trọn vào đây! Về quê hương về suy tư, về cuộc sống đã được tác giả biến hoá thành những con chữ có cánh bay xa, biết nói, biết giao tiếp với mọi người. Trong đó, sự cảm nhận rất mới với Thơ.
Xem thêm
Sắc thái Thời gian và cảm xúc Hoài niệm trong tập thơ Khi tâm hồn đầy nắng của Biện Tiến Hùng
Tập thơ Khi tâm hồn đầy nắng của Biện Tiến Hùng không chỉ là một tuyển tập gồm 107 bài thơ, mà còn là một tấm gương phản chiếu sinh động thế giới nội tâm phong phú và sâu lắng của thi sĩ. Bằng một giọng điệu trữ tình, chân thành và đượm màu ký ức, Biện Tiến Hùng đã khéo léo kiến tạo một không gian nghệ thuật nơi thiên nhiên, thời gian và con người hòa quyện vào nhau, tạo nên một bản giao hưởng cảm xúc đa tầng, một dòng chảy liên hồi của cảm xúc. Sức hấp dẫn của tập thơ nằm ở cách tác giả nhân hóa thời gian và biến hoài niệm thành chất liệu thi ca, qua đó không chỉ tái hiện một khung cảnh đã qua mà còn khơi gợi những nỗi niềm chung của độc giả về sự phù du của đời sống của kiếp người trong cõi nhân sinh.
Xem thêm
Cái “ngông” của Nguyễn Công Trứ
Thượng Uy Viễn – Nguyễn Công Trứ là một hiện tượng đặc biệt trong thời kỳ trung đại. Đời ông đầy giai thoại, mà giai thoại nào cũng cho thấy bản lĩnh sống, trí tuệ, triết lý nhân văn sâu sắc nhưng cũng rất hóm hỉnh, bình dân…
Xem thêm
Hơi thở cuộc sống trong thơ Nguyễn Kim Thanh
Trong hành trình sáng tạo của mỗi nhà văn đến với văn chương thì “ngôn ngữ là yếu tố thứ nhất của văn học” để làm nên tác phẩm. Ngôn ngữ trong thơ (trữ tình), truyện (tự sự) và kịch (kịch bản văn học) đều có sự giống và khác nhau. Cùng với sự đam mê, năng khiếu, và “thiên phú” (trời cho) thì mỗi tác giả có sự thành công ở những thể loại khác nhau. Có người sáng tác thơ hay nhưng viết truyện lại dở và ngược lại có người viết truyện hay nhưng thơ thì không ra gì. Lại có người thành công ở nhiều thể loại: thơ, truyện, kịch, ký, lý luận phê bình. Nhà văn Nguyễn Kim Thanh là cây bút chuyên viết truyện ngắn, tiểu thuyết, tản văn, bút ký và đã xuất bản bốn tác phẩm văn xuôi. Nhưng nay chị lại “thử sức” sang thể loại thơ với tập thơ đầu tay “Giọt nước mắt thủy tinh” có 30 bài.
Xem thêm
Nỗi buồn chiến tranh - và cách nhìn về việc đổi mới dạy học văn trong nhà trường
Vừa qua, tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh của nhà văn Bảo Ninh được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch vinh danh là một trong 50 tác phẩm tiêu biểu của văn học Việt Nam 50 năm qua đã tạo nên nhiều tranh luận trái chiều. Nhiều ý kiến cũng đã đặt ra vấn đề là có nên đưa tác phẩm này vào sách giáo khoa Chương trình Giáo dục phổ thông 2018 hay không. Là những người đã từng học văn qua nhiều lần thay sách và là những người đang dạy môn văn nhiều năm trong nhà trường phổ thông, chúng tôi có một số suy nghĩ trong cách nhìn về việc đổi mới dạy học văn trong nhà trường về Nỗi buồn chiến tranh với tính chất là “những người trong cuộc”.
Xem thêm
Văn học đương đại Trung Quốc từ lăng kính các giải thưởng Hội Nhà văn (2015 - 2025)
Nhìn chung, hệ thống giải thưởng Hội Nhà văn Trung Quốc giai đoạn 2015 - 2025 đã làm nổi bật vai trò “điều hướng” và “chuẩn hóa” của mình trong việc thiết lập các tiêu chí thẩm mĩ, định hình phong cách sáng tác và thúc đẩy tương tác giữa văn học - học thuật - công chúng. Điều này cho thấy một mô hình văn học với định hướng chiến lược - kết hợp giữa nhu cầu nghệ thuật, định hướng chính sách và cơ chế truyền thông - đang ngày càng chiếm vị trí trung tâm trong đời sống văn hóa đương đại Trung Quốc.
Xem thêm
Chân dung tâm hồn của nhà thơ Nguyên Bình qua “Mật ngữ trắng đen”
“Mật ngữ trắng đen” (NXB Thuận Hóa, 2025) của nhà thơ Nguyên Bình, hội viên Hội Nhà văn TP.HCM, là một thế giới thi ca đầy suy tưởng, nơi ánh sáng và bóng tối, mộng mị và hiện thực, nỗi đau và niềm yêu thương luôn song hành, soi chiếu vào nhau. Tựa như cái tên Mật ngữ trắng đen, thơ Nguyên Bình gợi cảm giác về sự đối lập, nhưng không phải để phân định ranh giới thiện ác, buồn vui, mà để khai mở một cõi cảm xúc và nhận thức đa chiều về tình yêu, cuộc sống, con người. Ở mỗi bài thơ, tập thơ của anh đều ẩn chứa một lớp nghĩa nhân sinh sâu sắc.
Xem thêm
Quan điểm của Nguyễn Đình Chiểu đối với Phật giáo
Nguyễn Đình Chiểu (1822-1888) là một nhà Nho tuy đỗ đạt không cao nhưng cụ là một nhà Nho đức nghiệp, một con người trong ba tư cách: một nhà thơ, một thầy giáo và một thầy thuốc suốt đời vì dân vì nước.
Xem thêm
Thơ Nguyễn Bình Phương – Tiểu luận của Thiên Sơn
Việc làm thơ của Nguyễn Bình Phương như một sự bừng lóe của linh giác. Mỗi lần cầm bút viết là khám phá cái thế giới lạ lùng, huyền bí như thế giới của giấc mơ. Mà làm thơ, như anh, chính là đang theo đuổi những giấc mơ. Như bước vào một cảnh giới kỳ lạ, với cách nhìn, cảnh cảm và cách nghĩ khác, xa lạ với hầu hết mọi người.
Xem thêm
Văn học và dân tộc như một vấn đề học thuật
Kết nối ngôn ngữ, văn học với sự tồn tại một dân tộc đã là một thực hành phổ biến trong đời sống tri thức ở châu Âu từ nửa đầu thế kỉ XVIII. Một dân tộc là lí tưởng khi nó thống nhất tất cả những người nói cùng một ngôn ngữ trong một lãnh thổ chung, từ đó tạo thành một quốc gia - dân tộc. Văn học, với tư cách là hiện thân rõ ràng và lâu đời nhất của ngôn ngữ một dân tộc, có vai trò như là yếu tố ràng buộc và thống nhất. Nhà phê bình văn học Hoa Kì René Wellek viết: “Văn học vào thế kỉ XVIII bắt đầu được cảm thấy như là tài sản quốc gia, như là một sự thổ lộ tâm trí dân tộc, như là một phương tiện cho quá trình tự xác định của dân tộc”(1).
Xem thêm
Nhà văn Thomas Mann: Bậc thầy của mâu thuẫn
Xuất bản lần đầu vào năm 1924, Núi thần nhanh chóng trở thành cuốn sách bán chạy và được cho là tiểu thuyết tiếng Đức có ảnh hưởng bậc nhất thế kỉ 20. Nhưng ít ai biết nó được viết ra trong sự gián đoạn của chiến tranh và thay đổi của thời đại.
Xem thêm
“Những ngọn gió biên cương” - Khúc sử thi đi qua căn bếp có mùi nhang
Bài đăng trên Tạp chí Diễn đàn Văn nghệ Việt Nam, số 12/2025.
Xem thêm
Ngọn gió chiều thổi qua “Nắng dậy thì”
Dòng thời gian sáng, trưa, chiều, tối đã chảy vào văn thơ bao thời theo cách riêng và theo cái nhìn của mỗi người cầm bút. Nguyễn Ngọc Hạnh đã thả cách nhìn về phía thời gian qua những sáng tác của ông. Thâm nhập vào không gian thơ trong Nắng dậy thì*, bạn đọc sẽ nhận thấy cảm thức thời gian của một thi sĩ ở tuổi đang chiều.
Xem thêm
Văn chương Nobel và thông điệp nhân văn
“Không chỉ ngày nay loài người mới khốn khổ? Chúng ta luôn luôn khốn khổ. Sự khốn khổ gần như đã trở thành bản chất của con người (Osho, Chính trực, Phi Mai dịch, Nxb Lao động, 2022, tr.14). Thế giới ngày càng bất an, con người ngày càng mỏng mảnh. Sức chống cự của con người giảm thiểu trước quá nhiều biến động: chiến tranh, dịch bệnh, thiên tai; đứt gãy cộng đồng, sự đơn độc, cái chết. Vì con người, dòng văn học chấn thương ra đời. Cũng vì con người, xu hướng văn học chữa lành hình thành vào thế kỉ XXI.
Xem thêm
Những nét đẹp văn hóa truyền thống Việt Nam trong “Mùa lá rụng trong vườn” của Ma Văn Kháng
Trong hành trình trở về cội nguồn, Ma Văn Kháng đã dựng nên nhiều chân dung cao đẹp tiêu biểu cho truyền thống ân nghĩa thuỷ chung của dân tộc. Nhưng nổi bật giữa bản đồng ca trong trẻo ấy là nhân vật chị Hoài - một con người coi “cái tình, cái nghĩa” là quý nhất. Hình ảnh chị Hoài trở về thăm và ăn tết với gia đình chồng cũ vào chiều ba mươi tết đã gây xúc động lòng người, để lại nhiều tình cảm đẹp đẽ cho bao thế hệ độc giả.
Xem thêm
Đọc ‘Bão’ – Ánh sáng nhân tâm giữa cơn bão thời cuộc
Tiểu thuyết Bão của PGS.TS, nhà văn Nguyễn Đức Hạnh được nhà văn Phan Đình Minh tiếp cận trên cả ba phương diện: nội dung xã hội, nghệ thuật tự sự và chiều sâu nhân văn.
Xem thêm
Khơi thông điểm nghẽn, đổi mới tư duy và cơ chế để văn học nghệ thuật phát triển
Văn học nghệ thuật luôn giữ vị trí đặc biệt trong tiến trình phát triển của đất nước, là nền tảng tinh thần vững chắc cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Xem thêm
Hạt gạo tháng Giêng – Nỗi nhớ xuân từ những phòng trọ xa quê
Trong mạch thơ viết về mùa xuân, nhiều thi sĩ đã chọn gam màu tươi sáng, ăm ắp hội hè và sum họp. Nhưng với nhà thơ Xuân Trường, mùa xuân trong bài “Hạt gạo tháng Giêng” lại mang sắc điệu trầm buồn, thấm đẫm nỗi xa quê của những phận người lao động nghèo nơi đô thị.
Xem thêm