TIN TỨC
  • Lý luận - Phê bình
  • Văn học các dân tộc thiểu số sau ngày đất nước thống nhất và hướng đi mới trong kỉ nguyên số

Văn học các dân tộc thiểu số sau ngày đất nước thống nhất và hướng đi mới trong kỉ nguyên số

Người đăng : phunghieu
Ngày đăng: 2025-08-08 23:30:05
mail facebook google pos stwis
521 lượt xem

Văn học hiện đại các dân tộc thiểu số sau gần một thế kỉ hình thành và phát triển, đến nay đã có gần 1500 hội viên ở các loại hình nghệ thuật. Các thế hệ nhà văn dân tộc thiểu số đã đạt được những thành tựu và ghi dấu ấn độc đáo trong nền văn học nước nhà.

Hình ảnh trên bìa sách Lặng yên dưới vực sâu (tác giả Đỗ Bích Thúy, Nhã Nam và NXB Hội Nhà văn)

 

Họ được ghi nhận bằng những giải thưởng danh giá, uy tín như Giải thưởng Hồ Chí Minh, Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật, Giải thưởng ASEAN, Giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam, Giải thưởng của Liên hiệp các hội VHNT Việt Nam…

Xét riêng về từng thể loại, văn học dân tộc thiểu số có những bước phát triển không đồng đều tùy từng giai đoạn. Hiện nay, thơ vẫn là thể loại chiếm nhiều ưu thế. Thơ dân tộc thiểu số với lực lượng đông đảo từ Nông Quốc Chấn, Nông Minh Châu, Cầm Biêu, Hoàng Nó, Lương Quy Nhân, Bàn Tài Đoàn lớp trước đến những nhà thơ thế hệ sau này và thời kì đương đại như: Mã Thế Vinh, Vương Anh, Triều Ân, Y Phương, Mã A Lềnh, Lò Ngân Sủn, Lâm Quý, Triệu Kim Văn, Ma Trường Nguyên, Mai Liễu, Pờ Sảo Mìn, Lò Cao Nhum, Dương Thuấn... Các tác giả viết trường ca có thể kể đến Vương Trung (Thái) với Sóng Nậm Rốm, rồi Vương Anh (Mường) với Hồn chiêng gánh núi, Inrasara (Chăm) có Tháp nắng (thơ và trường ca Quê hương) đến 2002 thêm Lễ tẩy trần tháng Tư... Dân tộc Tày thành công với những tên tuổi nổi bật: Ma Trường Nguyên (Mát xanh rừng cọ), Y Phương (Chín tháng, Đò trăng), Dương Thuấn (Mười bảy khúc đảo ca), Nông Thị Ngọc Hòa (Nước hồ mãi trong xanh), Nông Thị Tô Hường (Hằn sâu trên đá)…

Văn xuôi các dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại bắt đầu hình thành từ những năm 50 của thế kỉ XX, đến nay đã có một đội ngũ tác giả đông đảo và những thành tựu nhất định. Về tiểu thuyết và truyện ngắn có thể kể đến, dù chưa đầy đủ, những tên tuổi nổi bật: Y Điêng, Vi Hồng, Triều Ân, Kim Nhất, Vương Trung, Ma Trường Nguyên, Hoàng Hữu Sang, Cao Duy Sơn, Hoàng Quảng Uyên, Vi Thị Kim Bình, Hà Thị Cẩm Anh, Hữu Tiến, Hà Lâm Kỳ, Đoàn Lư… Sau 1986, văn xuôi dân tộc thiểu số phát triển ngày một mạnh mẽ hơn, nhất là sự xuất hiện của tiểu thuyết với số lượng lớn, chất lượng tốt với đội ngũ sáng tác đông đảo các nhà văn người dân tộc thiểu số. Các tiểu thuyết nói chung đều phản ánh đời sống của người miền núi với những phong tục, tập quán, lối sống đầy tình nghĩa, chất phác, mộc mạc và đặc biệt là những khát vọng về cuộc sống hạnh phúc. Từ những năm cuối thế kỉ XX đến thập niên đầu tiên của thế kỉ XXI xuất hiện những tác giả tiểu thuyết đáng chú ý không chỉ của riêng văn học dân tộc thiểu số mà còn ghi dấu ấn nhất định trong nền văn học Việt Nam. Những thể loại như kí, tản văn của dân tộc thiểu số tuy không phát triển mạnh nhưng cũng có những dấu ấn nhất định với nhiều thế hệ tiếp nối nhau như Mã A Lềnh, Y Điêng, Lý Lan, Hoàng Quảng Uyên rồi đến các cây viết trẻ như Hoàng A Sáng, Hoàng Chiến Thắng, Nông Quang Khiêm, Phùng Hải Yến… Dấu ấn nổi bật nhất về tản văn có thể kể đến Y Phương với Tháng Giêng tháng Giêng một vòng dao quắmKungfu người Co Xàu...

Về lí luận phê bình, trước 1986 có cố nhà thơ Nông Quốc Chấn viết nhiều và được biết đến nhiều trong cả công việc sáng tác lẫn nghiên cứu, phê bình, tập trung nhất là ba công trình phê bình tiểu luận: Đường ta đi (1970), Một vườn hoa nhiều hương sắc (1977), Chặng đường mới (1985). Giai đoạn sau 1986 ghi nhận những thành công nổi bật của nhà nghiên cứu người Nùng Lâm Tiến với Văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đạiVề một mảng văn học dân tộcVăn học và miền núi. Cùng với đó là một đội ngũ những người làm công tác lí luận, phê bình được bổ sung trong hai thập niên đầu thế kỉ XXI đến nay đã mang đến một diện mạo đầy đặn hơn, cũng nhờ đó mà văn học các dân tộc thiểu số được nghiên cứu, tìm hiểu từ nhiều góc độ tiếp cận hơn.

Những năm đầu thế kỉ XXI, “có sự sàng lọc gay gắt, sự thách thức nghiệt ngã đối với văn học dân tộc thiểu số. Các nhà văn, nhà thơ dân tộc hiểu rõ điều này hơn ai hết. Nên có người do lực bất tòng tâm không sáng tác nữa hoặc sáng tác ít đi mà chuyển sang nghiên cứu, sưu tầm văn hóa, văn học dân gian. Điều này thể hiện rõ nhất ở những nhà văn xuất hiện ở thế hệ đầu tiên, người trẻ nhất trong số những nhà văn này hiện nay là Vương Anh (62 tuổi). Như vậy, sự đổi mới thơ, văn dân tộc thiểu số trong sáu năm đầu thế kỉ XXI là thuộc về lớp nhà văn thứ hai. Số nhà văn này hiện nay là 28 người, trong đó có 17 nhà thơ, 11 nhà văn”(1). Điểm qua hai công trình đã thực hiện là Thơ dân tộc và miền núi đầu thế kỷ XXI do Mai Liễu, Y Phương, Inrasara, Trịnh Hà biên soạn, giới thiệu 169 tác giả; Văn xuôi dân tộc và miền núi đầu thế kỉ XXI do Cao Duy Sơn, Hoàng Tuấn Cư, Mã A Lềnh biên soạn, giới thiệu 63 tác giả có thể thấy được sự phong phú của đội ngũ các thế hệ nhà văn, nhà thơ dân tộc thiểu số những năm đầu thế kỉ XXI.

“Một vườn hoa nhiều hương sắc” như cách gọi của cố nhà thơ Nông Quốc Chấn về khu vực văn học này là một cách định danh xác đáng. Tuy thế, sự đa sắc ấy vẫn có những hạn chế dễ dàng được nhận ra như: sự mất cân đối ở vùng miền, mối trăn trở về bản sắc dân tộc trong bối cảnh hội nhập hiện nay; cùng với đó là một thế hệ trẻ đứng trước thách thức của công cuộc hội nhập khi ít được tắm mình trong không gian văn hóa truyền thống. Khi mà sự kết nối dù đã có nhưng chưa thực sự rộng khắp và mạng lưới tương tác chưa thực sự lớn mạnh, việc công bố, in ấn còn hẹp, đặc biệt là những sáng tác song ngữ… Đây là những lực cản đáng kể cho khu vực văn học nhiều đặc thù này.

Dù với những thành tựu và lực lượng đông đảo đã có, vào cuối thế kỉ XX, câu chuyện về phát triển đội ngũ và sự kế tục đã được đặt ra với rất nhiều trăn trở. Lưu Xuân Lý với bài viết Đã 53 thu còn đó vấn đề đội ngũ đặt vấn đề: “Vấn đề ở đây là xây dựng và phát triển đội ngũ có phong cách riêng chứ không phải là xây dựng một nền văn nghệ riêng của các dân tộc.” Và ở những năm cuối của thế kỉ trước, sự chênh lệch về vùng miền, sự thưa vắng ở những khu vực văn học như Tây Nguyên đã được bàn đến: “Đúng là vùng đất đầy bản sắc như Tây Nguyên - dọc Trường Sơn, vùng Chăm, vùng Khơ Me đang rất thiếu vắng đội ngũ sáng tạo văn nghệ, đặc biệt là văn học. Cần phải có tác giả các dân tộc Gia Rai, Xê Đăng, Mơ Nông, Kho, Chăm, Khơ Me... Nhưng làm cách nào - vẫn là câu hỏi?” Sau này, những khoảng trắng, sự thưa vắng ấy đã dần dần được khỏa lấp và bồi đắp ngày một nhiều mà một trong những cái nôi ươm mầm, nuôi dưỡng ấy là từ Hội Văn học nghệ thuật các dân tộc thiểu số Việt Nam.

Cũng có nét tương đồng với đặc điểm của giai đoạn trước, đội ngũ tác giả trẻ người dân tộc thiểu số hiện nay vẫn còn có sự chưa cân đối trên các vùng miền, số lượng tác phẩm xuất bản nhiều vẫn thuộc về những dân tộc vốn có truyền thống và bề dày thành tựu văn học. Hiện nay, khu vực Tây Nguyên số lượng những tác giả ghi dấu ấn đậm vẫn còn khá khiêm tốn. Một vài gương mặt rất đáng kì vọng như Y Việt Sa (Bana Rngao) lại không theo đuổi con đường sáng tác chuyên nghiệp. Mặc dù vậy sự xuất hiện của những tác giả dân tộc “hiếm” tác giả văn học như Cao Lan, Xê đăng, M’nông… đem đến những tín hiệu lạc quan. Thêm vào đó, sự kết nối theo từng khu vực dù đã có những đầu tư để đẩy mạnh.

Giai đoạn hiện tại, các trại sáng tác, các cuộc hội thảo tọa đàm, các ấn phẩm công bố và trao đổi sáng tác tuy đã nhóm lên những nhiệt huyết nhưng vẫn cần phải riết róng hơn nữa việc phát hiện và khơi dòng cho những sáng tác trẻ dân tộc thiểu số; đồng thời phát huy vai trò quan trọng trong việc kết nối trao đổi kinh nghiệm sáng tác giữa các tác giả cùng thế hệ và khác thế hệ với nhau. Từ những diễn đàn đó, các cây bút trẻ người dân tộc thiểu số khắp cả nước có cơ hội giao lưu, gặp gỡ và thu nhận kiến thức; ý thức rõ rệt hơn về trách nhiệm và đặc biệt là củng cố những say mê và hứng khởi cho hành trình đi và viết của mình.

Trong thế kỉ XXI, quá trình hội nhập sâu rộng vào văn học thế giới đã tiếp tục mang cho các nhà văn Việt Nam nói chung và cho các tác giả dân tộc thiểu số nói riêng cơ hội tiếp cận sự đa dạng và phong phú của nền văn học thế giới. Có thể kể đến rất nhiều những lợi thế để văn học dân tộc thiểu số sau 1975 phát triển mạnh mẽ, như: sự phong phú và bề thế của văn học dân gian; được tiếp tục với thế hệ trẻ sung sức; ý thức ngày một sâu sắc về tinh thần dân tộc, bản lĩnh và vị thế dân tộc mình… Và một trong những thuận lợi không thể không kể đến đấy là những bước tiến của thời đại kĩ thuật số. Nhà xã hội học F. Lyotard từng dự đoán cách đây hơn nửa thế kỉ trong công trình triết học kinh điển Hoàn cảnh hậu hiện đại. Không bàn đến những vấn đề mang tính triết học của thời đại này, điều cũng rất đáng kể ở đây là việc văn học nghệ thuật các dân tộc thiểu số phải đối diện với cả những khó khăn và nhận được những thuận lợi của thời đại mới.

Ngày nay chúng ta có thể dễ dàng tìm thấy sách mọi nơi trên internet, hay chỉ với một chiếc máy đọc sách điện tử nặng 200gr có thể chứa cả một thư viện tỉnh và bạn đọc có thể đọc được ở mọi nơi mọi chỗ. Thêm vào đó, nhiều đơn vị xuất bản đã chủ động tạo ra cách cuốn sách điện tử và báo điện tử trên các trang web vừa giúp người đọc dễ dàng tìm kiếm, vừa giảm giá thành. Điều đó cho thấy rằng, kỉ nguyên số đã giúp hạ rào cản về không gian, về địa lí, về thách thức tiếp cận sách để mang đến những cơ hội mới cho văn hóa đọc nói chung, cho văn học nói riêng. Với khu vực văn học có nhiều đặc thù riêng biệt này, chúng tôi đề xuất một số hướng đi như sau.

Thứ nhất, trong bối cảnh hiện nay, việc đổi mới hướng đến hiện đại là đặc điểm tất yếu để văn học dân tộc thiểu số tồn tại trong dòng chảy đời sống văn học đương đại. Một mặt họ vẫn gìn giữ được những đặc điểm truyền thống tiêu biểu, mặt khác họ cần bước vào một ngôi nhà chung; và vì thế đứng trước một yêu cầu, sáng tác của họ đến được với bạn đọc ngoài “không gian bản làng” nhưng vẫn không trở nên xa lạ với chính những chủ thể của không gian ấy. Có thể thấy, mạch nguồn truyền thống vừa là một sợi dây níu giữ, vừa là một hành trang cần thiết trong sự dàn xếp hài hòa để hướng đến hiện đại. Bên cạnh tính hiện đại của lối viết, rất cần sự đột phá của những đề tài được lựa chọn khi những đề tài như giữ nước, dựng nước, truyền thống, bản sắc dường như trở nên quen thuộc. Việc dũng cảm vượt qua “vùng an toàn” này hứa hẹn sẽ mở ra một bầu trời rộng lớn cho văn học khu vực này.

Trong việc đổi mới hướng đến hiện đại, sự thưa vắng đội ngũ những người làm công tác lí luận, phê bình là một trở ngại, bởi đây là lực lượng đồng hành quan trọng với lực lượng những người sáng tác. Đội ngũ làm công tác nghiên cứu, phê bình chuyên sâu về dân tộc thiểu số có thể kể đến các nhà nghiên cứu như Trần Thị Việt Trung, Phạm Quang Trung, Lê Thị Bích Hồng, Nguyễn Đức Hạnh, Cao Thị Hảo… Và trong những công việc cần bỏ tâm sức ấy, giới nghiên cứu phê bình cần thảo luận những vấn đề còn chưa thống nhất, vận dụng thêm những lý thuyết nghiên cứu hiện đại nhằm mở rộng chiều kích của việc tiếp nhận…

Công cuộc phát triển đội ngũ trẻ và tìm kiếm sự khẳng định cũng như đổi mới cho văn học dân tộc thiểu số cần sự đồng hành của các tổ chức, sự nỗ lực của mỗi cá nhân. Đây là điều kiện cộng hưởng quan trọng. Trung ương Hội cần có sự phối kết hợp mật thiết với các Hội Văn học nghệ thuật địa phương để các hoạt động được tăng cường vừa sâu vừa rộng. Có chính sách đầu tư, khuyến khích những người viết để có thêm những sáng tác hay, đặc sắc về chính quê hương, con người dân tộc mình.

Thứ hai, trong kỉ nguyên số, việc thuận lợi của thông tin mang tính hai mặt, bởi thế, đọc và viết là những công việc cần có sự định hướng. Độc giả tham gia các hoạt động đọc sách, thảo luận trực tuyến để tăng cường tính kết nối, chia sẻ niềm yêu sách nói chung hay với một tác phẩm cụ thể là một xu hướng phổ biến. Từ đó có thể gợi dẫn để nảy ra những ý tưởng như dự án viết sách theo nhóm được tổ chức bởi các nhà xuất bản. Lúc này, nhà xuất bản có thể mua/ bán ý tưởng, đặt hàng viết sách theo những gợi mở đó…

Việc tiếp cận một lượng lớn thông tin trên internet có thể khiến người đọc, đặc biệt là thanh thiếu niên (trong đó có những thanh thiếu niên thuộc các vùng miền núi) gặp khó khăn trong việc phân biệt thông tin chính thống và tiếp cận nhiều thông tin không chính xác. Bạn đọc lúc này dễ bị phân tâm hơn bởi mọi chuyển động thông tin nhanh hơn, bị phân cắt nhiều hơn. Trong khi đó, văn hóa đọc nói chung, thưởng thức tác phẩm văn học nói riêng, cần một sự tập trung đủ lớn về thời gian, về sức lực. Việc đầu tư nâng cao chất lượng các tác phẩm văn học thiếu nhi dân tộc thiểu số là một trong những việc làm có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Đây là mảng văn học đóng vai trò nền tảng để nuôi dưỡng thật sớm hứng thú đọc cho các độc giả nhỏ tuổi. Kinh nghiệm tổ chức các cuộc thi sáng tác cho thiếu nhi của Hội Nhà văn Việt Nam và các tổ chức, đoàn thể khác có thể là một gợi ý.

Thứ ba, cần thiết tạo môi trường để thúc đẩy. Bên cạnh các hoạt động khuyến đọc thì việc phát triển các sáng tác song ngữ và bằng tiếng dân tộc giúp độc giả của mỗi dân tộc dễ dàng tiếp cận hơn, góp phần bảo tồn và phát huy văn hóa truyền thống.

Thời đại kết nối toàn cầu nên việc số hóa các sáng tác không còn là một thách thức. Sau khi số hóa, cần tạo ra những thư viện số mở để bà con dễ dàng tiếp cận. Nếu trước kia, mang những thư viện lên vùng cao là vô cùng tốn kém, và việc lưu trữ sách không hề dễ, cập nhật sách càng khó. Với các tác phẩm được số hóa, chỉ cần một đường truyền đủ tốt và một thư viện số hóa đủ đơn giản, thân thiện, dễ dùng, là bà con dễ dàng tiếp cận. Về điều này, để phát triển văn hóa đọc trong kỉ nguyên số, điểm mấu chốt là phải xây dựng được dữ liệu mở cho người dân, nhưng không thể trông đợi hoàn toàn vào từ nguồn lực nhà nước mà cần phát huy vai trò, trách nhiệm của các tổ chức, các cá nhân theo tinh thần xã hội hóa.

Với người sáng tác, những chủ nhân có vai trò quan trọng trong sáng tạo và dẫn dắt độc giả, cần có thêm những cơ hội phát triển, rất cần có những điều chỉnh một số hoạt động đã và đang thực hiện như trại viết, tọa đàm, hội nghị, giải thưởng…

Thứ tư, hướng đến cái nhìn liên ngành, liên thể loại. Các ngành gần gũi và dễ có những tương tác với văn học như âm nhạc, phim ảnh là sự lựa chọn có ý nghĩa quan trọng trong việc tạo một đời sống mới cho tác phẩm văn học. Một ví dụ tiêu biểu là bộ phim được chuyển thể của nhà văn Cao Duy Sơn. Vào năm 2012, Đàn trời là bộ phim chính luận, dài tập nhất về đề tài này. Sau đó 5 năm, Lặng yên dưới vực sâu cũng là một bộ phim truyền hình dài tập, đề tài tình cảm, tạo được dấu ấn đáng kể với công chúng xem truyền hình. Việc xem một bộ phim và trở lại tìm đọc một cuốn tiểu thuyết, một truyện ngắn có lẽ cũng không phải là một ý tưởng tồi, trong muôn vàn cách tìm những cơ hội phát triển mới cho đời sống văn học. Cũng cần nhấn mạnh thêm rằng, đề tài dân tộc thiểu số vào phim truyện không phải là mới, và kho tàng văn hóa dân tộc đồng bào các dân tộc thiểu số là một nguồn khai thác vô giá cho các nhà làm phim…

50 năm sau ngày thống nhất đất nước là một dấu mốc quan trọng để nhìn lại những thành tựu cũng như đề xuất hướng đi mới cho văn học các dân tộc thiểu số. Và một thực tế không thể phủ nhận là quá trình toàn cầu hóa đã tác động rõ rệt, mạnh mẽ tới mỗi nhà văn; đồng thời kiến tạo một đời sống văn học mới mẻ và khác biệt hoàn toàn. Trước những thách thức và cơ hội đó, việc nỗ lực xây dựng diện mạo, định vị bản sắc là vô cùng cần thiết. Thế hệ trước đã tạo nên những giá trị, những định hình khác biệt cho khu vực văn học này, bởi thế trong thời gian tới, mỗi tác giả trẻ cũng có những trau dồi, tích lũy để vượt khỏi những ràng buộc quen thuộc, những khuôn mẫu đã có để tìm đến những cơ hội phát triển mới, góp phần thúc đẩy quá trình hội nhập sâu rộng của nền văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam.

Theo Đỗ Thị Thu Huyền/Báo Văn Nghệ

Bài viết liên quan

Xem thêm
Vài nhận thức về trường ca “Lò mổ” của Nguyễn Quang Thiều
Tôi hỏi nhiều nhà thơ và văn, rằng họ thấy trường ca “Lò mổ” của Nguyễn Quang Thiều như thế nào và đặng họ có thể khai sáng chút gì cho tôi nhưng không ai có câu trả lời khiến tôi thỏa mãn, đa phần đều nói “Ái chà, Lò mổ của Nguyễn Quang Thiều hả, bọn tớ cũng chỉ nghe dư luận ồn ào trên mạng thôi chứ có sách đọc đâu!”.
Xem thêm
Nguyễn Duy – Vịn thi ca vượt thác thời gian...
Bài đăng Văn nghệ Công an số ra ngày 13/11/2025
Xem thêm
Thơ có nghĩa là “thương” - Tiếng thơ Đặng Nguyệt Anh
Một bài viết thấm đẫm nhân tình của Tuấn Trần – người trẻ viết về Đặng Nguyệt Anh, “ngoại” của thơ và của lòng nhân hậu. Từ câu chữ đến cảm xúc, bài viết là một lời tri ân chân thành dành cho thế hệ cầm bút đã “đem trái tim yêu thương gánh ghì số phận chung”, để hôm nay, thơ của họ vẫn còn làm dịu đi những cơn bão đời người.
Xem thêm
Chất liệu dân gian trong ca khúc Việt Nam hiện đại
Bài viết này xin phép được tiếp tục trình bày một xu hướng vận động chủ đạo của âm nhạc dân gian truyền thống Việt Nam sau 1975: dân tộc hóa ca khúc Việt Nam.
Xem thêm
Đọc thơ Thiên Di
Dường như là một giấc mơ chậm rãi, dịu dàng, vẫn đọng lại dư âm của cô đơn, khao khát và hy vọng. Tác giả sử dụng nhịp điệu từ những chi tiết nhỏ – mưa rả rích, ánh mắt, cánh hoa – để cảm xúc lan tỏa, khiến độc giả không cần lạm dụng từ ngữ hoa mỹ vẫn cảm nhận được sự mềm mại, tinh tế và ám ảnh.
Xem thêm
Nguyễn Khuyến “thâm nho” giữa đời thường
Nguyễn Khuyến (Nguyễn Thắng, 1835-1909) hiệu Quế Sơn, tự Miễn Chi. Người đời gọi ông là Tam Nguyên Yên Đổ, do lấy địa danh là xã (làng) Yên Đổ (huyện Bình Lục, Hà Nam trước đây) ghép với việc ông thi đỗ đầu (giải nguyên) cả ba kỳ thi hương, hội và đình. Nhưng việc này thì chính Nguyễn Khuyến cũng chẳng tự hào cho lắm, ông viết: “Học chẳng có rằng hay chi cả/ Cưỡi đầu người kể đã ba phen”.
Xem thêm
Triệu Kim Loan - Khúc độc thoại xanh của hồng gai
Bài viết sâu sắc dưới đây của nhà văn Kao Sơn dành cho buổi ra mắt sách Chữ gọi mùa trăng - Tập thơ thứ 7 đánh dấu chặng đường chín muồi của nhà thơ Triệu Kim Loan
Xem thêm
Quan niệm của Xuân Diệu về thơ từ những câu chuyện đời thường
Sinh thời, theo thống kê của Mã Giáng Lân, thi sĩ Xuân Diệu đã có hơn 500 buổi bình thơ trước công chúng. Đây là hoạt động nghệ thuật mà hiếm có nhà thơ, nhà văn nào ở Việt Nam và cả trên thế giới có thể sánh được. Không chỉ trong nước, chính “ông Hoàng thơ tình” Xuân Diệu đã có công quảng bá thi ca Việt Nam ra thế giới, giúp độc giả nước ngoài biết đến Nguyễn Du, Nguyễn Trãi, Tú Xương, Hồ Xuân Hương…
Xem thêm
Hành trình nước - Bước chuyển mình của kẻ sĩ chu du
Với Hành trình nước, Vũ Mai Phong cho phép người đọc thám hiểm một cõi tâm hồn mình, để chiêm nghiệm, để cảm nhận sự chuyển hóa kỳ diệu của nước - từ giọt sương nhỏ bé hóa thành đại dương bao la, từ tâm hồn cá nhân hòa vào tính thiêng của Tổ quốc.
Xem thêm
Gió Phương Nam 4 - Những lời thơ chân thực
Trang thơ “Gió Phương Nam 4” dễ dàng gợi lại những bước chân đồng đội năm xưa – bước chân thời chiến, bước chân thời bình, mang theo niềm vui, nỗi nhớ và cả những nỗi buồn sâu lắng.
Xem thêm
“Bến nước kinh Cùng” - Bến đợi của ký ức và tình người…
“Giữa bao vội vã, còn mấy ai lắng lòng với những phận người quê mộc mạc?” - Chính từ trăn trở ấy, “Bến nước kinh Cùng” của nhà văn Nguyễn Lập Em được tìm đến như một lời nhắc nhở tha thiết, đưa ta trở về với đất và người Nam Bộ, nơi tình quê và tình người thấm đẫm trong từng trang viết.
Xem thêm
Người thơ xứ Quảng: “Ảo hương lãng đãng bên trời cũ”
Nhà thơ Xuân Trường - tên thật Nguyễn Trường - là một tâm hồn phiêu bạt. Ông sinh ngày 12/12/1949 (theo giấy khai sinh) nhưng thực tế là năm 1945 (tuổi Ất Dậu), tại xã Đại Phong, huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam.
Xem thêm
Nước sông Sa Lung chưng cất bầu rượu thơ
Nhà thơ Nguyễn Hữu Thắng lớn lên bên dòng sông Sa Lung xanh trong. Có phải dòng sông Sa Lung là dòng sông thơ ca của đất Rồng - Vĩnh Long?. Tuổi thơ anh vô tư ngụp lặn vẫy vùng bơi lội tắm mát trong dòng sông ấy, nên anh rất yêu thơ, tập tành sáng tác thơ và thành công thơ khá sớm.
Xem thêm
Cung ngà xưa – Tiếng vọng ký ức trong miền tiếp nhận hôm nay
Đặt trong bối cảnh văn hóa, “cung ngà” còn gợi đến truyền thống âm nhạc dân tộc, nơi tiếng đàn, tiếng sáo từng là phương tiện gắn kết cộng đồng. Người miền Trung – đặc biệt là Huế và xứ Quảng – vốn sống trong không gian khắc nghiệt, thường tìm đến âm nhạc như một nơi trú ngụ tinh thần. Vì vậy, bài thơ không chỉ là ký ức cá nhân, mà còn mang dấu vết của ký ức tập thể.
Xem thêm
“Công chúa Ngọc Anh – bể khổ kiếp nhân sinh”
Văn học lịch sử vốn được xem là mảng khó viết bởi vừa đảm bảo tính chính xác vừa phải tạo được tính hấp dẫn lôi cuốn. Người viết văn học lịch sử không thể xuyên tạc, tô vẽ hay làm méo mó đi nội dung câu chuyện. Chính vì khó viết nên văn học lịch sử luôn là đề tài thu hút nhiều người đọc, bởi đó là cơ hội để người đọc và người sáng tác chiêm nghiệm lại quá khứ, suy ngẫm về tương lai, trăn trở về những hưng thịnh của thời đại, là một dòng chảy làm tái sinh những giai thoại dựa trên sự kiện lịch sử. Người viết văn học lịch sử là người phục dựng lại những bí ẩn còn chìm sâu trong bức màn thời gian, làm sáng tỏ những giá trị nghệ thuật mang tính truyền thống hay tín ngưỡng.
Xem thêm
Nhẹ nhàng bài ca cuộc sống nơi “Những cơn mưa thu” của Thanh Tám
Thanh Tám, Hội viên Hội Văn học nghệ thuật Lai Châu là cây viết truyện ngắn khá quen thuộc với bạn đọc. Một số truyện ngắn của Thanh Tám đã được đăng tải trên các trang báo sang trọng Báo Văn nghệ, Trang báo điện tử Vanvn.vn của Hội Nhà văn Việt Nam. Một trong những truyện ngắn của em, tôi tin rằng nhiều người thiện cảm, đó là truyện ngắn Những cơn mưa thu. Một câu chuyện gọn gàng, xinh xắn, gợi trong lòng độc giả những ấm áp, yêu thương như giọng văn nhẹ nhàng, truyền cảm của tác giả vậy.
Xem thêm
Tượng đài một anh hùng
Trường ca Tiếng chim rừng và đất lửa Tây Ninh (NXB Quân đội nhân dân, 2025) của tác giả Châu La Việt đã kiến tạo thành công nhiều biểu tượng về cuộc kháng chiến chống Mỹ một cách hệ thống, đa dạng về cấu trúc, sâu sắc về ý nghĩa, giàu có về tín hiệu thẩm mỹ.
Xem thêm
Cô gái Quảng Trị với nồng cay tiêu Cùa
Đọc 14 bài bút ký của nữ nhà báo Đào Khoa Thư, trong tập bút ký “Mùa bình thường” in chung với nhà báo Đào Tâm Thanh, do Nxb Thuận Hóa ấn hành tháng 7 năm 2025, tôi thật sự khâm phục cách viết khoáng hoạt của cô gái trẻ. Không gian được đề cập là mảnh đất quê nhà thân thương và những đất nước mà cô đặt chân đến để học tập, công tác, giao lưu, trải nghiệm. Lời văn tươi mới tràn đầy cảm xúc, lối viết chân thực, cởi mở, ngắn gọn cho ta thấy bao điều mới mẻ. Đọc lần lượt từng bài bút ký, thật thích thú với bao điều hấp dẫn qua từng câu chuyện kể về cuộc sống đời thường và các sự kiện diễn ra rất bổ ích.
Xem thêm
Đọc thơ Phương Viên – Ba khúc tình, rụng và gặp gỡ
Bằng giọng văn tinh tế, giàu cảm xúc và với kiến văn sâu rộng, tác giả đã khẳng định: thơ Phương Viên là nơi “chữ rụng mà hồn nở hoa”, một giọng thơ biết lặng đi để người đọc còn nghe tiếng của yêu thương và hồi sinh. Văn chương TP. Hồ Chí Minh xin giới thiệu bài viết này tới bạn đọc.
Xem thêm