TIN TỨC

Ký ức bóng mùa qua hay là cảm thức thời gian trong thơ Cao Ngọc Thắng

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2025-08-09 15:14:06
mail facebook google pos stwis
530 lượt xem

“Cao Ngọc Thắng đã thực sự ám ảnh và thao thức về thời gian, không ngừng đi tìm thời gian đã mất để phục sinh những ký ức gần và ký ức xa trên hành trình tâm linh sự sống. Thơ anh – như một cách chạm vào quá vãng, để thấy rõ hơn những đổi thay đang cuồn cuộn diễn ra quanh mình”.

PGS.TS HỒ THẾ HÀ

Cao Ngọc Thắng là nhà thơ có hành trình sáng tác lâu dài, liên tục qua từng bước ngoặt chuyển mình của đời sống. Với sự năng động của cái tôi đang tư duy, anh chân thành và nồng nhiệt nhập vai vào từng quan hệ nhân sinh để tạo nên hình tượng thơ, ngôn ngữ thơ theo cảm xúc và thức nhận thẩm mỹ riêng của mình. Từ tập thơ Bẻ gió (2008) đến Khúc chuyển mùa (2025), anh đã xác lập được chất thơ với cái nhìn nghệ thuật luôn hướng về mạch nguồn cuộc sống đang không ngừng vận động, phát triển và với cảm quan triết mỹ luôn tôn thờ cái đẹp, tính nhân văn khi chiếm lĩnh, cắt nghĩa và lý giải các quan hệ đời tư - thế sự. Thế giới nghệ thuật thơ anh luôn xuất phát từ sự quan sát và chiếm lĩnh hiện thực khách quan nói trên, biến mọi khách thể - từ đối tượng của cái nhìn trực quan sinh động thành cảm xúc nội tâm của ý thức thẩm mỹ để cuối cùng biến thành cảm hứng sáng tạo thi ca.

Trước khi đi vào tìm hiểu thi giới Cao NgọcThắng, tôi muốn nêu một vài quan niệm về thơ của anh. Tuy không diễn đạt bằng văn bản nghị luận, nhưng chỉ bằng thơ, ta cũng hiểu phần nào suy tư của anh về sự lao động sáng tạo thi ca: “Vò chữ/ Tìm/ Sự đàn hồi/ Độ nẩy/ Đo/ Tình người” (Chữ và nghĩa). Nghĩa là thơ phải vật lộn, phải đào sâu vào bản thể cuộc sống mới hiểu được bản chất của chính nó và tình người. Thơ phải: “cho vào lửa/ rực đỏ/ cứng hơn kim cương” (Thơ). Nếu thơ: “Lỗi nhịp/ tư duy chảy máu/ Va tường/ chữ nghĩa chỏng chơ” (Không đề III). Thế đấy, thơ mang thiên chức nhập cuộc và hướng đến Chân - Thiện - Mỹ để thơ có ích, để thơ không lạc lõng giữa mêng mông biển cả cuộc đời “đang đập vào thơ muôn ngàn lớp sóng” (Chế Lan Viên). Với suy nghĩ như thế nên Cao Ngọc Thắng luôn trầm tư đối diện cùng trang giấy, ngọn đèn: “Hồn thơ lật mình soi bóng/ Một mình thao thức đèn khuya” để hiểu bản chất của mọi sự vật, hiện tượng và  quan hệ, không ngừng phát hiện ý thơ mới và tứ thơ hay: “Một mình ta với ngọn đèn/ Ngọn đèn dẫn đường cây bút/ Cây bút chọn lối hanh thông/ Tứ thơ, ý thơ chợt đến”. Nhờ đó, hình ảnh thơ, ngôn ngữ thơ hiện thành nội dung cuộc sống qua sự sàng lọc và thức nhận của người ngệ sĩ:

Chữ thơ, câu thơ dần hiện

Dần hiện hình ảnh, sắc màu

Sắc màu duyềnh lên ký ức

Con tim nhưng nhức ngày mai

         (Trầm tích)

Cao Ngọc Thắng cho rằng: “Thơ rất mặn/ Rất ngọt ngào / Rất thanh tao/ Có lúc lộn nhào như cánh diều lịm gió”. Và nhà thơ là người phải luôn mở lòng mình để đón nhận những buồn vui, bão giông và đau khổ từ hiện thực khách quan để làm giàu cho cuộc sống thơthơ cuộc sống, đem lại cho người đọc những hiểu biết và rung cảm bất ngờ: “Thơ không chờ/ Điều bất ngờ chợt đến/ Như chàng trai bốc vác/ Hít đầy lồng ngực/ Xốc lên vai/ Nặng nhọc/ Buồn/ Đau” (Thơ). Đó là những quan niệm đầy ý thức và trách nhiệm của một người trót dấn thân vào nghiệp văn chương.

Thơ Cao Ngọc Thắng đã thể hiện cụ thể và đa dạng những quan niệm trên bằng cái nhìn chiêm nghiệm và thực chứng từ thế giới khách quan để rút ra những đúc kết có tính nhân văn, triết mỹ sâu sắc. Trong nhiều nội dung tạo thành chất thơ Cao Ngọc Thắng, tôi bị cuốn hút bởi cái nhìn mang cảm thức thời gian của anh. Thời gian trong thơ Cao Ngọc Thắng đã thành hình tượng thời gian được ám ảnh và lặp lại như một phạm trù nghệ thuật giúp anh nói lên bằng tiếng nói thi ca nhằm hóa giải mọi hoài nghi và âu lo hiện sinh của chính mình và tha nhân. Một câu hỏi có tính bản thể luận về con người hiện lên:

Phía trước là ngày mai

ngày mai đang dần ngắn lại

đời trồi lên câu hỏi:

- Người là ai trong cõi trầm luân?

    (Hỏi)

Thời gian trong thơ Cao Ngọc Thắng luôn gắn với từng sinh mệnh, từng sự vật với những chứng tích u trầm, cả hiển minh và trầm tích, cả hiện thực và tâm linh để phát hiện và phát giác những thuộc tính và ý nghĩa mới. Trước hết là với chính sự hiện hữu của người thơ: “Bỗng nao lòng bật lên nỗi nhớ/ Tiếng khóc chào đời xa lắc nơi nao?”. Rồi anh bất chợt nghĩ ra sự vần xoay của mình trong vần xoay của cảnh vật, nhân sinh: “Không có tuổi đời không có tuổi/ Một vòng quay cứ thế vội xoay vần/ Đã xế chiều vẫn tuổi thơ rong ruổi/ Bụi mưa phùn quyện chặt gió cuối xuân” (Bất chợt).  Nhờ thế, anh nhận ra: “Bạc tóc nhìn nhau/ còn sóng sánh/ Ngẩng đầu nhẩm đếm/ bước xuân đi” (Thời gian). Kế đến là những người thân thuộc của mình. Ngay cả hình bóng người mẹ yêu kính của anh, theo thời gian, cũng không còn dáng lưng ong thời thiếu nữ, bóng mẹ còng khiến cho không gian rộng thêm, núi đồi và ruộng nương như gập ghềnh, chống chếnh theo từng bước chân và dấu gậy mòn: “Lưng còng - Mẹ/ nâng vòm trời lên cao/ Cây gậy Mẹ chống/ Trũng ruộng đồng/ Gập ghềnh đồi núi”. Những liên hệ và so sánh như thế phải nói là bất ngờ và xót nghẹn về sự tồn tại sinh học của mẹ: “Nước mắt Mẹ chảy xuống/ Thấm vào lòng đất/ Biển mênh mông”. Nhưng mẹ vẫn vui vì một đời cần cù, vất vả như nụ tầm xuân kia vẫn mang lại sự sống non xanh, tươi mát cho cuộc đời:

Một đời vật lộn bão dông

Nắng mưa bạc màu mắt Mẹ

Lưng càng còng Mẹ càng gần mặt đất

Mẹ cần mẫn gom lá vàng rơi rụng

Sưởi ấm lòng

Mẹ - tầm xuân

   (Mẹ - Tầm xuân)

Sự tồn tại của mỗi hữu thể bao giờ cũng diễn ra trong muôn vàn tình thế và tính chất đối lập mà con người kịp nhận ra yếu tính trong mỗi hữu hữu người; nhà thơ tri giác được chúng từ sâu thẳm tâm hồn mình, bởi vì chỉ có tâm hồn mới có được những hình thức chiếm lĩnh thời gian một cách sâu sắc và ám ảnh như thế :

Khi chờ-khi đợi. Mong điều gì? Con tim mách bảo? Một nửa là

hình, nửa kia là bóng. Một nửa đi tìm, nửa kia ẩn náu. Trái đất

tròn, ngày lại hóa đêm. Nửa cuộc đời không dính liền hình-bóng,

trốn ở đâu thăm thẳm. Không hiện hình vào những ngày vắng nắng.

Bất chợt giữa chớp lòe và cơn mưa sầm sập, dưới mái hiên chạm

bờ vai mềm-ấm-nóng. Bóng run rẩy nhập vào hình đẫm nước…

                               (Những ngày không mưa)

Những nghi vấn và hoài nghi để nhận ra sự thật của mỗi sinh thể, mỗi nhân vị luôn được Cao Ngọc Thắng truy tìm và thức nhận trong tiếc nuối thông qua phạm trù thời gian. Từ đối chiếu với chính mình, anh liên hệ đối chiếu với những cảnh vật và đối tượng trong không gian để thức nhận và suy nghiệm về thời gian, về các quan hệ vật chất và tinh thần khác nhau nhằm tìm câu trả lời: Sự sống là gì? Và đâu là quy luật tồn sinh của con người, thiên nhiên và vũ trụ?: “Ừ nhỉ/ Chân trời không chỉ phía mặt trời/ Nhấp nháy vô biên vạn ngàn tinh tú/ Sao Hôm đổi sao Mai/ Đất mềm dưới chân đêm dài mát rượi” (Chân trời). Ngay cả những loài sinh vật gần gũi nhất của đời sống thường nhật, chúng cũng bị chi phối bởi tính thường nghiệm khách quan nên chúng cũng bất an và luôn biến đổi trước bước đi của thời gian: “Ngơ ngác đời/ mùa đi vùn vụt/ Những thoảng qua/ mất hút cõi người”. Để còn đây cỏ cây, hoa lá cũng ngỡ ngàng, ngơ ngác:

Ngơ ngác hương hoa ngâu

Buồng cau chớm nụ

Bông nhài nép góc vườn

Hoa gạo đỏ không đủ nhen ngọn lửa

       (Ngơ ngác)

Thời gian bao giờ cũng gắn với vật chất, nó là thuộc tính khách quan của vật chất và diễn ra vô tận, nhưng khi nó gắn với sự thay đổi của hoàn cảnh cụ thể thì tính chất của nó cũng thay đổi và con người kịp nhận ra với nhiều trạng thái cảm xúc khác nhau. Cao Ngọc Thắng đã nhận ra sự thay đổi tính chất và chiều kích của thời gian khi trái đất trở thành thế giới phẳng (the flat world) với tốc độ bất ngờ, làm thay đổi mọi trạng huống nhân thế: “Thế giới phẳng khiến chân trĩu nặng/ Đầu âm âm thân thể mỏi nhừ/ Lưng ba lô tay vần di động/ Người lang thang không chốn quay về”. Thế giới phẳng đã tạo ra sự thuận lợi trong giao tiếp, nhưng cũng tạo ra nhiều xáo trộn và hố thẳm ngăn cách: “Thế giới phẳng hố sâu khoảng cách/ Lẫn với người có quỷ có ma”. Nhà thơ nhận ra sự cô độc trong đời và sự hoang hoải trong mơ:

Thế giới phẳng đầu không ngẩng

Lom khom trong ánh sáng tỏ mờ

Người cô độc giữa đời sôi sục

Lặn ngụp hoài…  mơ vẫn mơ…

    (Thế giới phẳng)

Mọi đổi thay của sinh thái xã hội - tinh thần đã làm cho không gian sinh hoạt không còn như trước, khiến con người ngỡ ngàng trước: “Những tòa nhà chất cao thành phố/Chồng lên nhau mảnh vỡ xóm làng/ Những ô cửa xếp dọc ngang/ Có vẻ nghiêm trang mà hờ hững”. Theo đó là sự biến dạng của không gian làng quê ngày nào trong ngơ ngác vì mất ký vãng xanh: “Dằn vặt thâm quầng hốc mắt / Tốc độ cao dãn nhanh chiều rộng/ Bộn bề hối nhau vào phố thị/ Ngơ ngác làng…/ Khói là là bay” (Đô thị hóa). Và con người nhận ra những lối mòn quen thuộc ngày nào cũng mất đi sự díu dan giữa gót chân và hoa cỏ:

Cúi mình cỏ vái bàn chân

Gót son níu bước bâng khuâng lối mòn

Lối mòn còn dấu gót son

Gót son in mãi mài mòn đường hoa

Lối mòn quặt khuất nẻo xa

Gót son mất hút…

 Đường hoa ngỡ ngàng…

                               (Đồng nội)

Quá trình đô thị hoá xã hội mang lại cho đời sống hiện đại bao thuận lợi, nhưng cũng để lại những bất ổn về thực tế khi nó có nguy cơ làm rạn vỡ cấu trúc vật chất và cấu trúc tinh thần: “Chiều đầy lá rụng/ Bầu trời phù thũng/ Phố sá ngổn ngang”, khiến anh tự thức tỉnh: “Không phải anh không muốn về/ Không phải anh muốn đi/ Lối về chật chội/ Mọi ngả đường giơ tay từ chối/ Vỉa hè vồi vội vấp chân”. Ngay cả dòng sông và cánh đồng cũng để lại trong anh mặc cảm rỗng: “Dáng buồn ở lại/ Trũng cả dòng sông/ Dòng sông khắc khoải/ Trống không cánh đồng” (Ngày buồn). Vậy là một cảm giác hoài vãng lại hiện lên như là cơ chế của tâm lý tự vệ để anh có cớ đi tìm và được vỗ về trong xao động:

Anh đi tìm nhành cỏ

Run run ngậm hạt sương

Cựa mình sang ngày nắng

Lầm lũi một con đường

        (Lựa chọn)

Một phức cảm khác lại hiện lên trong cảm nhận của Cao Ngọc Thắng. Đó là cảm giác khát. Khát từ hiện thực đến nội tâm và ngược lại. Hãy cảm nhận trạng thái khát của đất đai, sỏi đá: “Những hòn sỏi/ Lăn/ Khe/ Thung/ Va vách đá/ Âm/ Âm/ Mất hút”. Khát cả mọi sinh vật và sinh thể tự nhiên: “Khát/ Tìm/ Giọt/ Tí tách/ Tìm/ Đọt lá/ Xanh/ Bình nguyên/ Bát ngát/ Rừng/Chim kêu/ Thú săn mồi/ Vượn hót/ Tán lá/ Mùi mật/ Chằng chịt/ Dây leo/ Êm êm/ Đệm rừng/ Đất đùn/ Mối xông/ Mạch ngầm/ Mồ hôi đá/ Ướt bầu vú/ Róc rách khe/ Nguồn/ Nước đổ về/ Những con sông/ Tràn đầy/ Nhịp chèo/ Ngược dòng/ Đẩy/ Xuôi/ Phù sa”. Khát cả những gì đã thành truyền thống văn hoá nhân sinh: “Khát/ Thuyền/ Cập bến/ Điệu sli/ Đàn môi/ Phiên chợ tình/ Tán cọ /Che/ Lưng ong/ Hoa văn/ Vồng/ Khuôn ngực/ Lúc lắc/ Vòng bạc/ Ngựa/ Dắt em/ Đi/ Tìm/ Mênh mang/ Nắng/ Gió/ Sim/ Mua/ Thượng nguồn/ Núi/ Đồi/ Chập chùng/ Bừng nở/ Nhành mai/ Thỏa/ Cơn khát/ Rừng/ Nai/ Đạp lá/ Nắng/ Nhảy nhót/ Váy/ Xòe/ Khèn/ Dặt dìu/ Dịu/ Cơn khát/ Tìm/ Màu xanh” (Khát). Bài thơ diễn tả rất thực và rất hay về trạng thái khát của thiên nhiên và con người trong hoàn cảnh xã hội hiện đại/ hậu hiện đại. Tác giả cắt vụn câu thơ, biến mọi đối tượng thành từng mảnh vỡ thông  qua cách thể hiện ngữ pháp, từ ngữ rời rạc, luôn ngắt dòng, bậc thang, buộc người đọc phải lầm tìm, nối kết lại để hiểu từng kiểu khát của mỗi sinh thể trong không gian và thời gian. Bài thơ thoạt nhìn tưởng làm dáng, vô nghĩa, nhưng đọc kỹ, đó là một sáng tạo của Cao Ngọc Thắng, tạo thành một chỉnh thể nghệ thuật có tính sáng tạo cho bài thơ.

Như đã nói, để thức nhận sâu sắc về bước đi của thời gian, Cao Ngọc Thắng đã đối chiếu và quan sát trực tiếp từ mối quan hệ sinh thái thiên nhiên và sinh thái xã hội - tinh thần của thời anh đang sống. Tiêu điểm tư tưởng và thẩm mỹ của tác giả là nắm bắt và cảm nhận thời khắc chuyển mùagiao mùa, tức là sự chấm dứt của mùa trước và sự bắt đầu nối tiếp của mùa sau để biết sự sống của thiên nhiên và con người đang từng giờ thay đổi: “Mùa đã chuyển thời gian không còn nữa/ Tuổi biếc xanh trong ánh mắt người ơi/ Đá có mòn tìm nơi cửa biển/ Lớp phù sa hớn hở không già” (Mùa qua). Từ đó, anh bất giác nhận ra không chỉ con người thay đổi mà cả chính bước đi của thời gian đã làm cho mùa không còn vẹn nguyên như cũ: “Chẳng mùa nào trọn vẹn/ Mùa nào cũng lá rơi/ Mùa nào cũng chơi vơi/ Mùa gục đầu nhanh thế” (Mùa). Dù thời gian luôn vĩnh cửu và vận động liên tục, độc lập với con người, nhưng qua mỗi sự chuyển động của nó, con người nhận ra mọi quan hệ của mình cũng luôn thay đổi từ trạng thái đến tính chất: “Tình thu vèo khoảnh khắc/ Như bóng nhạn qua trời/ Đọng giọt sương luyến tiếc/ Gục vào đông ngủ vùi”. Còn đây, tiếng mùa phôi phai trong những trái tim yêu đầy âu lo và thắc thỏm:

Cả ngàn năm trời đất

Mưa nắng đuổi luân hồi

Bao lứa đôi thắc thỏm

Tình thu giắc pha phôi

      (Tình thu)

Với Cao Ngọc Thắng, khi mùa trôi cùng tháng năm thì tuổi đời cũng theo mùa đi mãi, nhưng trong ý thức níu giữ của mỗi chủ thể, nó không mất đi mà nó còn lưu lại trong hoài niệm của mỗi người, thành ký ức bóng mùa qua: “Hà Nội của tôi ngày thu đậm/ Đau đáu tìm về lối hẹn quen/ Nắng đông cợt đùa sao nhạt thế/ Ô kìa, màu lá quyện màu sen”. Nhờ thế mà: “Đi xa mới biết tàn thu chậm/ Trằn trọc mé hồ vợi nửa trăng/ Gà gáy điểm canh khuya khoắt quá/ Thiếu một bờ vai ngày muộn sang”. Vẫn còn đây: “Ô cửa sổ ngang trời lộng gió/ Mở mắt trông mây vắt vai đời/ Nắng trườn mềm phố phường non nửa/ Mưa lây phây trên tán lá già”. Ô cửa sổ giờ là hình ảnh được nhân hoá ngày ngày chứng kiến mọi cảnh vật đổi thay:

Ô cửa sổ mỗi ngày đi qua

Sầm sập lướt nhanh chóng mặt

Mỗi con đường ồn ã dội xa

Vỉa hè còng lưng gánh nặng

       (Chân dung cửa sổ)

Bóng mùa lưu lại trên từng sự vật, giờ đây nó chuyển sang lưu lại trong từng cảm giác bé nhỏ của nhà thơ như: “Giọt thời gian lọt kẽ ngón mềm” để thức dậy mùa đông buốt giá, có bài hát buồn làm ấm lại lồng ngực trẻ trai đang phập phồng bừng tỉnh sau giấc ngủ vùi: “Bàn tay ai lạnh mùa đông ấy/ Bài hát buồn cũng đủ ấm lên/ Thì có muộn chẳng đến nỗi lãng quên/ Nơi lồng ngực phập phồng then cửa” (Tỉnh muộn). Thiên nhiên cũng đang hoà điệu với lòng người để thức dậy những tinh khôi và tươi xanh màu thuỷ biếc:

Gió vo hương làm mới

Nắng rỏ mật dụ ong

Mây duỗi mình thả sóng

Sông mơ dòng thong dong

       (Chợt thu)

Vậy là dù thời gian có trôi vào quên lãng thì mỗi kỷ niệm vẫn còn đây qua từng hồi nhớ trong hiện thực và cả trong giấc mơ chập chùng đứt nối của người thơ: “Có gì đó lôi thôi/ Lũ lượt mây kéo về/ Duỗi cuộc đời lê thê/ Đông tàn đá nhiêu khê/ Thu rây cúc vàng/ Mướt mượt xanh/ Loanh quanh hạ thầm thì/ Cơn dông chặn lối/ Tỉnh dậy thì/ Thở khuya/ Giấc mơ chia/ Quá khứ chằm/ Xẻ tương lai/ Ơ kìa” (Giấc mơ). Đây chính là những gì đã đi qua cuộc đời với những buồn vui dĩ vãng để nhà thơ nhận ra trong thực chứng và kinh nghiệm phức cảm kéo dài ra trong hoang hoải: 

Đó là nhịp, là tiết tấu trung thực hiện diện cái diễn ra, cái trôi

vào quên lãng, cái khát vọng chập chờn, hay chỉ là mộng tưởng…

Mỗi ô cửa sổ chỉ nhìn về một hướng, nhưng thành phố trông ra

trăm ngả đo thời đại dọc dài, độ lớn.

Còn xa lắm, còn nhiều trăn trở. Luật trời đất, luật nhân gian

còn dài thức nhận. Mỗi ô cửa sổ - mỗi vuông trời xanh ngắt,

thăm thẳm nỗi thao thức khát khao. Chẳng nguôi ngoai gửi gắm.

                                    (Từ ô cửa sổ)

Phải nói là Cao Ngọc Thắng đã thực sự ám ảnh và thao thức về thời gian và không ngừng đi tìm thời gian đã mất để phục sinh, đồng hiện những ký ức gần và ký ức xa trên hành trình tâm linh sự sống nhằm thông điệp với mọi người về sự phôi phai, biến đổi của thời gian, sự bất ổn của môi sinh và nhân sinh: “Thời gian rơi vào tay/ Tóc ánh màu trời đất/ Thoảng hương hoa cỏ mật/ Thời gian đếm kẽ tay/ Ngẩng trông ngàn tinh tú/ Bóng thời gian sõng soài” (Thời gian).

Như vậy, thời gian chính là cảm thức, là điểm nhìn giúp tác giả làm sâu sắc thêm hình tượng thời gian nghệ thuật trong việc so sánh, đối chiếu với thời gian thiên thiên, thời gian xã hội và thời gian sống đời người: “Mất thảm xanh/ Đất rừng kiệt sức/ Bất lực/ Khát/ Ừng ực uống mưa/ Nhão nhoét/ Lở loét/ Đất trượt/ Đá lăn/ Phơi mình nắng gắt/ Thao thức đêm dài”. Nhà thơ hiểu được hồn rừng bơ vơ giữa muôn loài trong thiên nhiên để biết mình cô đơn và thương tích: “Hồn rừng bơ vơ/ Giữa hai mùa gió/ Không mùa chim làm tổ/ Không rạo rực thú hoang/ Vết thương của rừng/ Giở giời trái gió/ Quằn quại/ Xót đau”. Rừng được nhân hoá để vui buồn và đối thoại với những người lính đã hy sinh trong lòng rừng, nói lên những khát khao và mơ ước nhân bản của họ: “Lời trăng trối/ Những chiến binh tử trận/ Không kịp gửi trao đồng đội/ Khát khao/ Ước mơ/ Tình yêu/ Chiến tranh vùi lấp”. Cuối cùng là sự tương thông, hoà hợp giữa hồn rừng và hồn người, thành kiểu thời gian tâm linh xúc động:

Hồn rừng bật khóc

Xối xả mưa ngàn

Mắt rừng mờ đục

Sương trắng lòng thung

Hồn rừng bay lượn

Khắp chốn cùng non

Gom

Nghĩa tình thơm thảo

Chăm sóc vong linh

Ngậm cười thác suối

         (Hồn rừng)

Cái nhìn nhân đạo hoá hoàn cảnh thông qua phạm trù thời gian như trên đã làm cho thơ Cao Ngọc Thắng càng khắc khoải và ám ảnh về sự sự tồn tại của mọi khách thể và chủ thể. Chế Lan Viên đã từng nói: “Để tri giác cái đã qua, chúng ta có ký ức; hiện tại được nhận thức thông qua sự chiêm quan, còn đối với tương lai thì có sự kỳ vọng và sự đợi chờ” (Hoa ngày thường, chim báo bão, Nxb Văn học, Hà Nội, 1960, tr.118). Vì vậy mà dù có chiêm quan về sự bất an, rạn vỡ của môi sinh trong thời gian thì trong thơ Cao Ngọc Thắng vẫn hiện lên sự đợi chờ và ước mơ về một viễn cảnh tốt đẹp cho cuộc sống nhân sinh. Con người không bao giờ chịu khuất phục để trở thành nạn nhân của thời gian mà họ luôn vươn lên hoá giải mọi bi ai và bất an để làm cho hiện thực được an yên và giao hoà trong ý thức điều bình sinh thái: “Sắp sang đông rồi đó/ Sao thu còn vấn vương/ Heo may vừa đứng ngọn/ Thu neo vào giọt sương” (Sương). Mỗi động tĩnh của thời khắc giao mùa đều giúp con người thấy được sự vận động hợp quy luật của nó và giúp cho hoạt động của mỗi sinh thể trên trái đất cũng diễn ra theo quy luật của chúng, theo ngôn ngữ giống loài riêng của chúng:

Mùa trở dạ đất cựa mình ngây ngất

Sông thoải dòng lắng đọng phù sa

Gió dồn mây đổi hình biến dạng

Nhịp tuần hoàn giao thoa vũ hội

Đẹp se duyên

     biến tấu

       chuyển mùa…

(Khúc chuyển mùa)

Thời khắc chuyển mùa/ giao mùa như thế đã để lại sự tươi non và phập phồng sự sống của thiên nhiên và vũ trụ. Đến biển cũng cũng bất ngờ xanh trong màu xanh bất tận trùng khơi: “Biển xanh/ Xanh đến bất ngờ/ Nhấp nhô trắng xóa/ Đến bờ lại xanh” (Biển hát). Hoa cỏ may nơi triền đê trong chiều cũng thành nốt nhạc đồng quê bay cao theo gió: “Nghiêng chiều về/ Dựng ngược triền đê/ Hoa cỏ may thẳng đâm vào gió/ Phóng lên trời nốt nhạc đồng quê” (Chiều). Mùa ra đi, mùa phôi phai, rồi mùa sẽ gọi về trong xôn xao và sinh sôi bất tận: “Theo mùa gió nổi chân trời/ Biếc non nõn... lá rơi vơi gọi mùa” (Tản mạn quê). Cái nhìn thời gian và ký ức bóng mùa qua như thế đã giúp Cao Ngọc Thắng ý thức về sự khai sinh và tái sinh kỳ diệu của thiên nhiên và khát vọng cao đẹp của con người:

Lanh canh giọt thời gian tròn trở dạ

Rỏ lòng em vá nham nhở đợi chờ

Vẳng tứ thơ nẩy buồn vui thương nhớ

Đất nuôi mầm cây lật lớp phù sa

                                (Giọt thời gian)

Bài thơ Giao mùa là sự cảm nhận tinh tế, sinh động về sự tái sinh kỳ diệu của đất trời và vạn vật: “Bởi nắng xuân non/ Gió xanh bối rối/ Hạ tròn đỉnh núi/ Trăng mềm lưng ong/ Thu se nhớ thương/ Cúc chờ mở rượu/ Giục/ Đông/ Ủ ấm men nồng/ Phập phồng mây núi/ Thúc/ Phù sa cựa mình/ Gió xanh rong ruổi/ Chồi non bật trổ/ Cành bổng cành la/ Nõn nà/ Bên song/ Lích tích/ Chim chích/ Vo tròn/ Giọt xuân” (Giao mùa). Đó chính là sự hoá giải cảm giác khát mà nhà thơ đã xa xót nhận ra và mong đi tìm lại những gì đã mất. Và cũng chỉ có thời gian mới giúp tác giả ý thức để làm thức dậy giấc mơ đi tìm những bình minh cỏ hát: “Hoa kết quả/ Mùa thay lá/ Gốc bền” (Tất yếu). Và mọi không gian như tươi trẻ lại dưới nắng mùa xuân và vũ khúc dòng sông: “Nơi khúc quanh dòng sông/ Đàn sâm cầm đạp nước/ Chuông chùa loang ban mai/ Sáng dòng sông uốn khúc”. Tất cả đều tinh khôi và hồng tươi sự sống: “Hạt mịn màng lên xanh/ Nơi khúc quanh sông hát/ Bầu vú Mẹ căng đầy/ Ngọt lời ru vời vợi”. Cảnh quê, hồn quê và tình quê hiện về trong hồn thơ của tác giả:

Câu thơ ngậm đào phai

Đất làng hoa sương đẫm

Đào đảo gốc đợi xuân

Hồng má em môi mọng

         (Nơi khúc quanh)

Vạn vật giờ đây được sống lại, tương giao, tương hợp trong trục không gian - thời gian mang tính tương sinh, tương ái vốn có của chúng: “Đám cỏ may/ Hoa rụng/ Chân đê ấm hơi người” (Thơ ba dòng). Cao Ngọc Thắng đã cảm nhận và đo bước đi của thời gian bằng cách làm sống lại ký ức bóng mùa qua với ngôn ngữ cỏ hoa dịu dàng, quyến rũ: “Bất ngờ bướm đậu nhành hoa/ Bất ngờ nhụy nở sương sa tần ngần/ Bất ngờ gió níu giọt xuân/ Bất ngờ trăng ngỏ lời thầm giậu thưa” (Bất ngờ). Một hoà tấu đầy tin yêu và hy vọng của thiên nhiên và cõi người. Thế giới thơ Cao Ngọc Thắng là thế giới của những hoài niệm và ước mơ như thế để hiểu giá trị của cuộc sống và giá trị của thi ca.

***

Vậy là tôi đã nương theo thơ Cao Ngọc Thắng để đi tìm thời gian quá vãng và ký ức bóng mùa qua với bao vui buồn, nghĩ suy, trăn trở. Thơ anh phản ánh ý thức của anh về cuộc đời và chính mình bằng tâm hồn và cái tôi trữ tình nhập vai luôn thao thức về sự trôi chảy của thời gian, về bước đi của bốn mùa/ tứ thời trong vũ trụ mà ở đó mọi kỷ niệm và tình cảm có khả năng đánh thức khát vọng và sự sống thật tốt đẹp của cõi người nhân hậu. Rất tiếc là tôi chưa kịp chỉ ra vẻ đẹp hình thức của thơ anh trong bài viết ngắn này ở bình diện: ngôn ngữ thơ, vần nhịp thơ, hình tượng thơ, các biện pháp tu từ nghệ thuật thơ…, nhất là ở thể thơ ngắnthơ tự do văn xuôi - hai thể thơ mà theo tôi, anh làm chủ và thể hiện rất hay, rất nghệ thuật. Nhưng với những gì đã tìm hiểu, thơ Cao Ngọc Thắng đã giúp người đọc thoả mãn nhu cầu nhận thức và thẩm mỹ với tư cách là người tiếp nhận đồng cảm, đồng sáng tạo.

Vỹ Dạ - Huế, 8/ 2025

H . T . H

Bài viết liên quan

Xem thêm
Chất liệu dân gian trong ca khúc Việt Nam hiện đại
Bài viết này xin phép được tiếp tục trình bày một xu hướng vận động chủ đạo của âm nhạc dân gian truyền thống Việt Nam sau 1975: dân tộc hóa ca khúc Việt Nam.
Xem thêm
Đọc thơ Thiên Di
Dường như là một giấc mơ chậm rãi, dịu dàng, vẫn đọng lại dư âm của cô đơn, khao khát và hy vọng. Tác giả sử dụng nhịp điệu từ những chi tiết nhỏ – mưa rả rích, ánh mắt, cánh hoa – để cảm xúc lan tỏa, khiến độc giả không cần lạm dụng từ ngữ hoa mỹ vẫn cảm nhận được sự mềm mại, tinh tế và ám ảnh.
Xem thêm
Nguyễn Khuyến “thâm nho” giữa đời thường
Nguyễn Khuyến (Nguyễn Thắng, 1835-1909) hiệu Quế Sơn, tự Miễn Chi. Người đời gọi ông là Tam Nguyên Yên Đổ, do lấy địa danh là xã (làng) Yên Đổ (huyện Bình Lục, Hà Nam trước đây) ghép với việc ông thi đỗ đầu (giải nguyên) cả ba kỳ thi hương, hội và đình. Nhưng việc này thì chính Nguyễn Khuyến cũng chẳng tự hào cho lắm, ông viết: “Học chẳng có rằng hay chi cả/ Cưỡi đầu người kể đã ba phen”.
Xem thêm
Triệu Kim Loan - Khúc độc thoại xanh của hồng gai
Bài viết sâu sắc dưới đây của nhà văn Kao Sơn dành cho buổi ra mắt sách Chữ gọi mùa trăng - Tập thơ thứ 7 đánh dấu chặng đường chín muồi của nhà thơ Triệu Kim Loan
Xem thêm
Quan niệm của Xuân Diệu về thơ từ những câu chuyện đời thường
Sinh thời, theo thống kê của Mã Giáng Lân, thi sĩ Xuân Diệu đã có hơn 500 buổi bình thơ trước công chúng. Đây là hoạt động nghệ thuật mà hiếm có nhà thơ, nhà văn nào ở Việt Nam và cả trên thế giới có thể sánh được. Không chỉ trong nước, chính “ông Hoàng thơ tình” Xuân Diệu đã có công quảng bá thi ca Việt Nam ra thế giới, giúp độc giả nước ngoài biết đến Nguyễn Du, Nguyễn Trãi, Tú Xương, Hồ Xuân Hương…
Xem thêm
Hành trình nước - Bước chuyển mình của kẻ sĩ chu du
Với Hành trình nước, Vũ Mai Phong cho phép người đọc thám hiểm một cõi tâm hồn mình, để chiêm nghiệm, để cảm nhận sự chuyển hóa kỳ diệu của nước - từ giọt sương nhỏ bé hóa thành đại dương bao la, từ tâm hồn cá nhân hòa vào tính thiêng của Tổ quốc.
Xem thêm
Gió Phương Nam 4 - Những lời thơ chân thực
Trang thơ “Gió Phương Nam 4” dễ dàng gợi lại những bước chân đồng đội năm xưa – bước chân thời chiến, bước chân thời bình, mang theo niềm vui, nỗi nhớ và cả những nỗi buồn sâu lắng.
Xem thêm
“Bến nước kinh Cùng” - Bến đợi của ký ức và tình người…
“Giữa bao vội vã, còn mấy ai lắng lòng với những phận người quê mộc mạc?” - Chính từ trăn trở ấy, “Bến nước kinh Cùng” của nhà văn Nguyễn Lập Em được tìm đến như một lời nhắc nhở tha thiết, đưa ta trở về với đất và người Nam Bộ, nơi tình quê và tình người thấm đẫm trong từng trang viết.
Xem thêm
Người thơ xứ Quảng: “Ảo hương lãng đãng bên trời cũ”
Nhà thơ Xuân Trường - tên thật Nguyễn Trường - là một tâm hồn phiêu bạt. Ông sinh ngày 12/12/1949 (theo giấy khai sinh) nhưng thực tế là năm 1945 (tuổi Ất Dậu), tại xã Đại Phong, huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam.
Xem thêm
Nước sông Sa Lung chưng cất bầu rượu thơ
Nhà thơ Nguyễn Hữu Thắng lớn lên bên dòng sông Sa Lung xanh trong. Có phải dòng sông Sa Lung là dòng sông thơ ca của đất Rồng - Vĩnh Long?. Tuổi thơ anh vô tư ngụp lặn vẫy vùng bơi lội tắm mát trong dòng sông ấy, nên anh rất yêu thơ, tập tành sáng tác thơ và thành công thơ khá sớm.
Xem thêm
Cung ngà xưa – Tiếng vọng ký ức trong miền tiếp nhận hôm nay
Đặt trong bối cảnh văn hóa, “cung ngà” còn gợi đến truyền thống âm nhạc dân tộc, nơi tiếng đàn, tiếng sáo từng là phương tiện gắn kết cộng đồng. Người miền Trung – đặc biệt là Huế và xứ Quảng – vốn sống trong không gian khắc nghiệt, thường tìm đến âm nhạc như một nơi trú ngụ tinh thần. Vì vậy, bài thơ không chỉ là ký ức cá nhân, mà còn mang dấu vết của ký ức tập thể.
Xem thêm
“Công chúa Ngọc Anh – bể khổ kiếp nhân sinh”
Văn học lịch sử vốn được xem là mảng khó viết bởi vừa đảm bảo tính chính xác vừa phải tạo được tính hấp dẫn lôi cuốn. Người viết văn học lịch sử không thể xuyên tạc, tô vẽ hay làm méo mó đi nội dung câu chuyện. Chính vì khó viết nên văn học lịch sử luôn là đề tài thu hút nhiều người đọc, bởi đó là cơ hội để người đọc và người sáng tác chiêm nghiệm lại quá khứ, suy ngẫm về tương lai, trăn trở về những hưng thịnh của thời đại, là một dòng chảy làm tái sinh những giai thoại dựa trên sự kiện lịch sử. Người viết văn học lịch sử là người phục dựng lại những bí ẩn còn chìm sâu trong bức màn thời gian, làm sáng tỏ những giá trị nghệ thuật mang tính truyền thống hay tín ngưỡng.
Xem thêm
Nhẹ nhàng bài ca cuộc sống nơi “Những cơn mưa thu” của Thanh Tám
Thanh Tám, Hội viên Hội Văn học nghệ thuật Lai Châu là cây viết truyện ngắn khá quen thuộc với bạn đọc. Một số truyện ngắn của Thanh Tám đã được đăng tải trên các trang báo sang trọng Báo Văn nghệ, Trang báo điện tử Vanvn.vn của Hội Nhà văn Việt Nam. Một trong những truyện ngắn của em, tôi tin rằng nhiều người thiện cảm, đó là truyện ngắn Những cơn mưa thu. Một câu chuyện gọn gàng, xinh xắn, gợi trong lòng độc giả những ấm áp, yêu thương như giọng văn nhẹ nhàng, truyền cảm của tác giả vậy.
Xem thêm
Tượng đài một anh hùng
Trường ca Tiếng chim rừng và đất lửa Tây Ninh (NXB Quân đội nhân dân, 2025) của tác giả Châu La Việt đã kiến tạo thành công nhiều biểu tượng về cuộc kháng chiến chống Mỹ một cách hệ thống, đa dạng về cấu trúc, sâu sắc về ý nghĩa, giàu có về tín hiệu thẩm mỹ.
Xem thêm
Cô gái Quảng Trị với nồng cay tiêu Cùa
Đọc 14 bài bút ký của nữ nhà báo Đào Khoa Thư, trong tập bút ký “Mùa bình thường” in chung với nhà báo Đào Tâm Thanh, do Nxb Thuận Hóa ấn hành tháng 7 năm 2025, tôi thật sự khâm phục cách viết khoáng hoạt của cô gái trẻ. Không gian được đề cập là mảnh đất quê nhà thân thương và những đất nước mà cô đặt chân đến để học tập, công tác, giao lưu, trải nghiệm. Lời văn tươi mới tràn đầy cảm xúc, lối viết chân thực, cởi mở, ngắn gọn cho ta thấy bao điều mới mẻ. Đọc lần lượt từng bài bút ký, thật thích thú với bao điều hấp dẫn qua từng câu chuyện kể về cuộc sống đời thường và các sự kiện diễn ra rất bổ ích.
Xem thêm
Đọc thơ Phương Viên – Ba khúc tình, rụng và gặp gỡ
Bằng giọng văn tinh tế, giàu cảm xúc và với kiến văn sâu rộng, tác giả đã khẳng định: thơ Phương Viên là nơi “chữ rụng mà hồn nở hoa”, một giọng thơ biết lặng đi để người đọc còn nghe tiếng của yêu thương và hồi sinh. Văn chương TP. Hồ Chí Minh xin giới thiệu bài viết này tới bạn đọc.
Xem thêm
Hạt bụi lênh đênh – Từ đất Ý hóa kiếp thân thương dưới trời nam
Rơi ra từ căn phòng bài trí trang trọng của một tòa lâu đài cổ kính. “HẠT BỤI” kia đã chọn kiếp “LÊNH ĐÊNH” để rồi một ngày lưu dấu hồn trần nơi “quê người đất khách”. Hẳn là trong sự lựa chọn “nghịch thường” đó, hàm chứa một điều lớn lao địa cửu thiên trường nơi thân mệnh mong manh cánh chuồn. HẠT BỤI LÊNH ĐÊNH – ngay từ nhan đề… đã cho thấy sắc tính Á Đông thông dụng. Điều đặc biệt ở đây. Nó được viết bởi ELENA PUCILLO TRƯƠNG một nhà văn, một nhà Khoa học/ học giả Ngữ Văn của Tây Phương – Ý.
Xem thêm
Hoài niệm quê hương trong thơ Nguyễn Quang Thuyên
Nguyễn Quang Thuyên vốn là “dân xây dựng” - Giám đốc Vinaconex 3 Phú Thọ , quê Tam Nông, Phú Thọ. Ai từng gặp anh thời điểm hiện tại sẽ có thiện cảm bởi nụ cười có duyên, thân thiện. Ấy là Nguyễn Quang Thuyên của hôm nay, hay chí ít cũng là cảm nhận của tôi, rằng nhiều năm trước, gặp anh sẽ ngỡ anh khó tính, có sự bụi bặm phong trần của nghề nghiệp, có vẻ lạnh lùng và cảm giác khó gần. Anh là “dân ngoại đạo” nhưng đã 10 tập thơ được xuất bản. Tập thơ “Đưa em về quê nội”, NXB Hội Nhà văn 2024 của anh vừa đạt giải A của Hội Liên hiệp văn học nghệ thuật Phú Thọ (Giải thưởng hàng năm, năm 2024).
Xem thêm
Khoảng trống trong thơ đương đại
Sang giai đoạn thơ hiện đại, đặc biệt từ thời kỳ Đổi Mới (1986) đến nay, dưới ảnh hưởng của thơ tự do, thơ thị giác, thơ hậu hiện đại,… khoảng trống được vận dụng đa dạng hơn: là dấu hiệu cấu trúc, chiến lược gợi mở ý nghĩa, cũng là phương tiện giải cấu trúc câu chữ. Việc nhận diện, phân loại và giải thích cơ chế thẩm mỹ của khoảng trống vì vậy cần được đặt trong dòng chảy lịch sử rộng hơn – từ các quy phạm cổ điển đến những cách tân hiện đại – nhằm làm rõ lý do và cơ chế khiến “sự im lặng” trở thành tiếng nói quan trọng trong thơ.
Xem thêm