TIN TỨC

Người thơ rượu núi đã mây bay | Phùng Văn Khai

Người đăng : vctphcm
Ngày đăng: 2023-07-14 08:19:34
mail facebook google pos stwis
1063 lượt xem

Tôi biết đến nhà thơ Lò Cao Nhum khi ở cùng anh hai mươi ngày tại trại viết Văn nghệ quân đội Đồ Sơn - Hải Phòng năm 1995. Lò Cao Nhum được bầu là người hiền nhất trại. Anh suốt ngày cứ im im như đá núi. Chính ở trại viết này, Rượu núi đã ra đời và đoạt giải Cuộc thi thơ Văn nghệ quân đội để mọi người, nhất là giới nhà thơ biết tới Lò Cao Nhum với thương hiệu Rượu núi.

Nhà thơ Lò Cao Nhum

Bạn đến

Mời ngồi xếp bằng tròn giữa chiếu

Chiếu đan bằng tia mặt trời

 

Bát rượu trăng rằm

Mong hồn vía bạn đừng thất lạc

Cầu cụ ông, cụ bà, cây si, cây đa

Gái bản nụ hoa, trai mường cây nghiến

Ngửa bàn tay cũng da

Úp bàn tay cũng thịt

 

Rượu nhà tôi

Ủ từ lá sắc rừng gai

Chắt từ củ mài hốc đá

Vợ tôi nấu thơm từ lửa đêm dài

Trong các cuộc tôi đi Hòa Bình hoặc Lò Cao Nhum xuống Hà Nội đều dành thời gian gặp gỡ, thơ ca và nhất là khoản rượu. Luôn thêm các anh Nguyễn Anh Nông, Nguyễn Tấn Việt, Nguyễn Thành, Nguyễn Thành Tuấn, Đào Bá Đoàn… thâu đêm suốt sáng chuyện thi ca. Toàn chúng tôi nói là chính còn Lò Cao Nhum vẫn vậy, chỉ mủm mỉm cười trước ba hoa của cánh bạn văn nghệ. Mà ngày ấy, tôi còn ở tận Như Quỳnh, Văn Lâm, Hưng Yên xa xôi mà các anh toàn xe máy đường trường tới thăm cậu em út.

 Một ngày, Lò Cao Nhum chỉ nói chừng bảy tám câu không đầu cuối. Vậy mà, trên các diễn đàn trang nghiêm hàng trăm người, Lò Cao Nhum đọc diễn văn hoặc phát biểu rất mạch lạc khang trang. Cái nết đón bạn của anh mới cực kỳ trọng thị. Chúng tôi còn vài ngày mới tới lịch đi Hòa Bình mà anh đã rục rịch tổ chức đón, dự kiến các địa điểm, thông báo cho toàn thể bạn hữu còn đích thân từ Mai Châu lên thành phố đợi người. Khi ấy tôi còn là phóng viên truyền hình, công việc quay phim bận rộn, song Lò Cao Nhum đều sẵn sàng đi theo đoàn phục vụ. Một lần tôi đã rất xúc động khi anh “canh gác” cho tôi cẩn thận đến mức khó tin.

Thơ Lò Cao Nhum tưởng chừng chất phác nôm na kỳ thực đọc kỹ đều là kim giấu trong bông, ngọc ẩn trong đá, cứ mưa dầm thấm lâu khiến người đời ám ảnh: Một phần ba mới giầu nửa chừng/ Vừa ăn vừa dụm sinh dè sẻn/ Vừa làm vừa nghĩ ngày mai đến/ Khách đi khỏi, vợ ngồi cạo niêu (Người trên núi); Ngày ấy ai dại khờ/ Nghe trăng xui. Bẽn lẽn/ Chọc sàn trăng. Trăng mơ (Sàn trăng); Cột tre mùa xuân/ Vòng mặt trời mùa xuân/ Dải còn chấp chới (Tung còn); Soi cây lim già/ Hiện diện ở lòng mình/ Ngôi đình bão tố (Soi gương núi);  Cao ốc khoe đủ mọi dáng màu/ Ban công biếc bồ câu hội tụ/ Đàn chim bay lướt trên ghế đôi/ Người bãi biển lấy cớ tình tự (Bồ câu bay xanh trời thành phố); Nhận ra anh em/ Nhận ra họ hàng/ Nhận ra đồng tộc/ Khi nóc nhà có hoa khau cút/ Đấy là tín hiệu vui/ Tín hiệu máu mủ/ Anh có thể cởi dép/ Rửa chân lên thang/ Tìm chỗ ngồi của mình nơi góc chiếu... Rồi anh đi/ Ngoái nhìn ngọn hoa mưa nắng/ Thơm thảo nơi mái lá nhà sàn/ Văng vẳng níu chân lời hát/ Người ta chỉ muốn gần nhau thôi. ( Nóc nhà ta có hoa khau cút);  Vòng xoè/ Gương mặt bừng ánh trăng/ Nụ cười hồng ngọn lửa/ Trẻ, già, trai, gái kết hoa/ Vòng nguyệt quế bản mường/ Vòng nguyệt quế trao người hùng của bản/ Tặng người gan của mường/ Người hùng, người gan/ Cột lim, cột nghiến/ Kết đan phên rào, phên giậu/ Chắn bão, ngăn giông/ Xua mây, đuổi nắng (Vòng xòe)…

Lò Cao Nhum không chỉ bền gan bền chí với thơ ca mà cách anh chăm chút cho anh em văn nghệ trẻ mới thực là đáng quý. Anh cùng các nhà văn nhà thơ Lê Va, Nguyễn Tấn Việt, Bùi Minh Chức, Nguyễn Anh Nông là những trụ cột văn chương Hòa Bình luôn vừa kính trọng hỏi han các bậc tiền bối, đàn anh; vừa giao lưu bè bạn khắp các tỉnh thành; vừa chăm chút các hạt nhân văn nghệ trẻ trong tỉnh khiến ai cũng rưng rưng cảm động. Nhà thơ Bùi Tuyết Mai là như vậy. Khi được tin nhà thơ Lò Cao Nhum mất (14/6/2023) đã nghẹn ngào điện báo tin cho tôi trong nước mắt. Thân quý nhau đến tận cùng. Thuộc thơ của bạn hơn thơ của mình chính là Lò Cao Nhum và Bùi Tuyết Mai. Cánh văn nghệ cả nước mỗi khi tới Hòa Bình đều ghé thăm bản Lác - Mai Châu, nơi có vợ chồng con cháu nhà thơ Lò Cao Nhum ở đó.

Không hiểu sao, các ông anh văn nghệ rất quý tôi. Có khi gặp gỡ liên tục có khi vài năm mới gặp nhau song điện thoại vẫn thường xuyên khi thấy nhau trên báo đài, truyền thông hoặc liên thông ông nọ dắt díu điện thoại ông kia trong các cuộc rượu. Hôm tôi hẹn với nhà thơ Lê Va đi tặng sách ở một bản xa xôi tỉnh Hòa Bình quê của nhà thơ Bùi Tuyết Mai không thể nào ngờ được bà con nhân dân đón tiếp rất nồng nhiệt. Rượu vào lời ra, đến khoản thi đọc thơ bạn, Lê Va và Bùi Tuyết Mai đã rất kinh ngạc khi tôi gần như thuộc sạch thơ của Lò Cao Nhum và Nguyễn Anh Nông. Chỉ có điều trong men rượu, các anh chị kia đã không nhận ra, hoặc nhận ra thì cũng bỏ qua là tôi đã trà trộn cả thơ của mình khi đọc. Ăn gian như thế, các anh chị kia cầm chắc phần thua, nhưng ai cũng rưng rưng vì bè bạn, vì văn chương nghệ thuật. Ở đời có ba loại bạn khăng khít đến lúc nhắm mắt tắt hơi. Đó là bạn lính chiến từng vào sinh ra tử. Đó là bạn tù kẻ trước người sau được tự do vô cùng gắn kết. Loại thứ ba chính là bè bạn văn nghệ bất kể Đông, Đoài, Nam, Bắc… nhiều khi chỉ mới đọc tác phẩm của nhau đã như thân quý tự kiếp nào, rồi hẹn hò dụ khị đón rước cứ như đúng rồi, cãi cọ đấy rồi lại ôm nhau ngủ trong hơi men, trong thơ ca tâng bốc nhau đến tận mây xanh. Đối với tôi, còn có những ca vô cùng đặc biệt. Đó là trường hợp nhà thơ Văn Thùy. Khi tôi còn ở Như Quỳnh, có khi nửa đêm, Văn Thùy tằng tằng xe máy đến không buồn gõ cửa cứ thế lăn ra ngoài hiên đánh giấc nồng, đến sáng cháu bé bảy tuổi mở cửa đi học đã phải chết khiếp thấy một cụ lão râu ria tóc tai như người rừng nằm gối đầu trên khúc gỗ ngoài hiên ngáy ò ò nồng nặc hơi men.

Nhà thơ Lò Cao Nhum cũng không ít bận phải chịu cái rét căm căm trên nền nhà tôi lạnh cóng gió thông thốc thổi. Khi đó tôi vừa xây được nhà, nhưng chưa có tiền đóng cửa, cứ thế các anh đến thơ rượu, rồi đêm khuya lấp vào một góc cho tới sáng. Thế là cứ nguyên giày, tất, mũ, bông, có ông còn đội cả mũ xe máy kềnh xuống manh chiếu đã sờn. Tờ mờ sáng hôm sau đã dắt nhau ra quán đầu làng tiếp tục rượu - thơ vô thiên lủng. Ôi chao ngày ấy cũng đã xa rồi!

Quay trở lại ngày trại viết ở Đồ Sơn với các anh chị Sương Nguyệt Minh, Nguyễn Hữu Quý, Mạnh Lê, Phùng Kim Trọng, Như Bình, Trần Thanh Hà… thì xem chừng chỉ có Lò Cao Nhum là hiền nhất. Các anh chị kia thơ văn tới tấp, ăn mặc xanh đỏ tím vàng, lướt ra biển đến sóng cũng xôn xao, chỉ riêng Lò Cao Nhum củ mỉ cù mì im im như đá núi. Vậy mà, chùm thơ đoạt giải trong đó có Rượu núi đã như bức tượng đội núi nhô lên. Rồi từ đó, Lò Cao Nhum viết tới tấp như rượu trong chum sành vò vại cứ thế chảy thảo thơm miên man không dứt với các tập thơ: Giọt sao trở về; Rượu núi; Sàn trăng; Theo lời hát về nguồn; Gốc trời… đã làm lên thương hiệu Lò Cao Nhum. Và nhất là, khi anh đảm đương cương vị Phó Tổng biên tập báo Văn nghệ Hòa Bình, chúng tôi lại được thấy một Lò Cao Nhum khác: chững chạc, trọng thị khách văn chương, tâm huyết với văn hóa các dân tộc Hòa Bình và quy tụ được đội ngũ anh chị em làm văn chương nghệ thuật.

Lò Cao Nhum sinh năm 1954, tại Bản Lác, Mai Châu, Hoà Bình, người dân tộc Thái. Anh đã trọn một đời sáng tác và công tác với những đóng góp cho văn chương nghệ thuật. Ở mảng khảo cứu sưu tầm văn học dân gian, Lò Cao Nhum cũng có những đóng góp đáng ghi nhận. Lò Cao Nhum đã nhận nhiều giải thưởng Trung ương và địa phương cho các sáng tác của mình. Với người cầm bút đồng thời, anh luôn đáng quý trong sự chân thành tin cậy đúng như những sáng tác thơ ca của anh. Anh em văn nghệ sĩ tỉnh Hòa Bình và bạn bè văn nghệ các vùng đất rất nhiều người yêu quý Lò Cao Nhum và vẫn nghĩ anh sẽ còn cống hiến nhiều cho văn chương nghệ thuật. Song con người chân tình và hiền hậu ấy đã đột nhiên gió núi mây ngàn ở tuổi bảy mươi.

Nhà thơ Lò Cao Nhum, người thơ rượu núi đã mây bay, nhưng các tác phẩm và nhất là tấm lòng anh luôn còn đọng mãi trong lòng bè bạn. Bài viết này xin được làm nén hương thơm của anh em bè bạn văn nghệ tiễn đưa anh.

P.V.K

Bài viết liên quan

Xem thêm
Nhẹ nhàng bài ca cuộc sống nơi “Những cơn mưa thu” của Thanh Tám
Thanh Tám, Hội viên Hội Văn học nghệ thuật Lai Châu là cây viết truyện ngắn khá quen thuộc với bạn đọc. Một số truyện ngắn của Thanh Tám đã được đăng tải trên các trang báo sang trọng Báo Văn nghệ, Trang báo điện tử Vanvn.vn của Hội Nhà văn Việt Nam. Một trong những truyện ngắn của em, tôi tin rằng nhiều người thiện cảm, đó là truyện ngắn Những cơn mưa thu. Một câu chuyện gọn gàng, xinh xắn, gợi trong lòng độc giả những ấm áp, yêu thương như giọng văn nhẹ nhàng, truyền cảm của tác giả vậy.
Xem thêm
Tượng đài một anh hùng
Trường ca Tiếng chim rừng và đất lửa Tây Ninh (NXB Quân đội nhân dân, 2025) của tác giả Châu La Việt đã kiến tạo thành công nhiều biểu tượng về cuộc kháng chiến chống Mỹ một cách hệ thống, đa dạng về cấu trúc, sâu sắc về ý nghĩa, giàu có về tín hiệu thẩm mỹ.
Xem thêm
Cô gái Quảng Trị với nồng cay tiêu Cùa
Đọc 14 bài bút ký của nữ nhà báo Đào Khoa Thư, trong tập bút ký “Mùa bình thường” in chung với nhà báo Đào Tâm Thanh, do Nxb Thuận Hóa ấn hành tháng 7 năm 2025, tôi thật sự khâm phục cách viết khoáng hoạt của cô gái trẻ. Không gian được đề cập là mảnh đất quê nhà thân thương và những đất nước mà cô đặt chân đến để học tập, công tác, giao lưu, trải nghiệm. Lời văn tươi mới tràn đầy cảm xúc, lối viết chân thực, cởi mở, ngắn gọn cho ta thấy bao điều mới mẻ. Đọc lần lượt từng bài bút ký, thật thích thú với bao điều hấp dẫn qua từng câu chuyện kể về cuộc sống đời thường và các sự kiện diễn ra rất bổ ích.
Xem thêm
Đọc thơ Phương Viên – Ba khúc tình, rụng và gặp gỡ
Bằng giọng văn tinh tế, giàu cảm xúc và với kiến văn sâu rộng, tác giả đã khẳng định: thơ Phương Viên là nơi “chữ rụng mà hồn nở hoa”, một giọng thơ biết lặng đi để người đọc còn nghe tiếng của yêu thương và hồi sinh. Văn chương TP. Hồ Chí Minh xin giới thiệu bài viết này tới bạn đọc.
Xem thêm
Hạt bụi lênh đênh – Từ đất Ý hóa kiếp thân thương dưới trời nam
Rơi ra từ căn phòng bài trí trang trọng của một tòa lâu đài cổ kính. “HẠT BỤI” kia đã chọn kiếp “LÊNH ĐÊNH” để rồi một ngày lưu dấu hồn trần nơi “quê người đất khách”. Hẳn là trong sự lựa chọn “nghịch thường” đó, hàm chứa một điều lớn lao địa cửu thiên trường nơi thân mệnh mong manh cánh chuồn. HẠT BỤI LÊNH ĐÊNH – ngay từ nhan đề… đã cho thấy sắc tính Á Đông thông dụng. Điều đặc biệt ở đây. Nó được viết bởi ELENA PUCILLO TRƯƠNG một nhà văn, một nhà Khoa học/ học giả Ngữ Văn của Tây Phương – Ý.
Xem thêm
Hoài niệm quê hương trong thơ Nguyễn Quang Thuyên
Nguyễn Quang Thuyên vốn là “dân xây dựng” - Giám đốc Vinaconex 3 Phú Thọ , quê Tam Nông, Phú Thọ. Ai từng gặp anh thời điểm hiện tại sẽ có thiện cảm bởi nụ cười có duyên, thân thiện. Ấy là Nguyễn Quang Thuyên của hôm nay, hay chí ít cũng là cảm nhận của tôi, rằng nhiều năm trước, gặp anh sẽ ngỡ anh khó tính, có sự bụi bặm phong trần của nghề nghiệp, có vẻ lạnh lùng và cảm giác khó gần. Anh là “dân ngoại đạo” nhưng đã 10 tập thơ được xuất bản. Tập thơ “Đưa em về quê nội”, NXB Hội Nhà văn 2024 của anh vừa đạt giải A của Hội Liên hiệp văn học nghệ thuật Phú Thọ (Giải thưởng hàng năm, năm 2024).
Xem thêm
Khoảng trống trong thơ đương đại
Sang giai đoạn thơ hiện đại, đặc biệt từ thời kỳ Đổi Mới (1986) đến nay, dưới ảnh hưởng của thơ tự do, thơ thị giác, thơ hậu hiện đại,… khoảng trống được vận dụng đa dạng hơn: là dấu hiệu cấu trúc, chiến lược gợi mở ý nghĩa, cũng là phương tiện giải cấu trúc câu chữ. Việc nhận diện, phân loại và giải thích cơ chế thẩm mỹ của khoảng trống vì vậy cần được đặt trong dòng chảy lịch sử rộng hơn – từ các quy phạm cổ điển đến những cách tân hiện đại – nhằm làm rõ lý do và cơ chế khiến “sự im lặng” trở thành tiếng nói quan trọng trong thơ.
Xem thêm
Triệu Kim Loan – nỗi mình bộc bạch cùng trăng
Một bài viết chân thành, giàu rung cảm của Ngô Minh Oanh về tập thơ Chữ gọi mùa trăng của Triệu Kim Loan.
Xem thêm
Phan Nhật Tiến - Thời cầm bút nói về thời cầm súng
Bài viết của Trần Hóa về tập thơ mới của Phan Nhật Tiến
Xem thêm
Nắng xanh pha hương giọt mật đầy
Văn Chương TP.HCM xin giới thiệu bài của Tuấn Trần.
Xem thêm
Cảm nhận tác phẩm “Mật ngữ đen trắng”
Bài viết của nhà thơ Huỳnh Tấn Bảo từ Bà Rịa - Vũng Tàu
Xem thêm
Nặng tình qua những miền quê
Bài viết tạo được chân dung “lữ khách thi ca” Vũ Trọng Thái
Xem thêm
Thế giới nữ tính đằm thắm và điệu nhạc tình yêu trong thơ Võ Thị Như Mai
“Nhớ anh nhiều bao nhiêu / Như thế nào là nhiều…” – những câu thơ giản dị mà đằm thắm ấy chính là nhịp điệu riêng của Võ Thị Như Mai.
Xem thêm
Bùi Minh Vũ - Buông neo hồn thơ vào biển đảo
Sau 2 tập thơ Lão ngư Kỳ Tân (2014), Biển và quê hương (2020) Bùi Minh Vũ cho ra mắt tập thơ Buông neo của (NXB Hội Nhà văn, 2024) gồm 113 bài thơ viết về đề tài biển đảo. Cảm hứng chung của tập thơ là tình cảm mến yêu, cảm phục, trăn trở và gắn bó tâm hồn với với biển đảo, với Trường Sa, Hoàng Sa, với những người lính đảo và người dân bám biển. Những tập thơ trước, Bùi Minh Vũ viết từ cảm xúc của một công dân yêu nước hướng về biển đảo với sự ngưỡng vọng. Ở tập thơ này, sau những chuyến vượt sóng ra Trường Sa, thăm đảo chìm đảo nổi, nhà thơ đã “Buông neo” hồn thơ vào biển đảo của Tổ quốc. Bài đầu của tập thơ đã thể hiện điều đó: Sóng ngọt như hoa trái lững lờ thè chiếc lưỡi/Bình minh trườn qua con chữ/Bài thơ quyết liệt buông neo/Như cột mốc đứng thẳng (Buông neo).
Xem thêm
“Chữ gọi mùa trăng” – Những thao thức của người đàn bà yêu chữ
Tại buổi ra mắt tập thơ Chữ gọi mùa trăng (23/9/2025), nhà thơ Hương Thu không có mặt, nhưng sau đó đã gửi đến một bài viết nhiều cảm xúc.
Xem thêm
Nỗi buồn đẹp qua ca khúc “Bài Thánh ca buồn”
Bài Thánh ca buồn nhưng không buồn theo lẽ thường, nỗi buồn ấy đẹp và chẳng hề mong manh, rất có thể khi nghe câu này, nhiều người không đồng cảm. Vâng, đó cũng là lẽ bình thường vì tiếp nhận văn học lý giải chuyện cảm nhận tác phẩm văn học hoặc nghệ thuật còn phụ thuộc nhiều yếu tố, trong đó có yếu tố sở thích. Và, tôi yêu thích Bài Thánh ca buồn, cả lời thơ (ca từ) cùng nhạc điệu.
Xem thêm
Viết cho “Khúc nhen chiều”– vệt khói dĩ vãng đậm màu thực tại
Khúc nhen chiều không chỉ là tập thơ đẫm màu khói sương mà còn là cuộc “truy vấn” không ngừng của Vũ Xuân Hương với chính mình và đời sống.
Xem thêm
Nguyễn Thị Thúy Hạnh - Hành trình chữ đến thế giới thơ
Hành trình thơ của Nguyễn Thị Thúy Hạnh trước hết khẳng định một tinh thần hiện sinh rõ nét. Ở đó, con người – đặc biệt là người nữ – luôn hiện diện trong trạng thái bất an, tổn thương, đồng thời mang khát vọng vượt thoát và kiếm tìm hạnh phúc. Chữ trở thành nơi lưu trú của nỗi cô đơn, đồng thời là phương tiện giúp nhân vật trữ tình phục sinh và tiếp tục hiện hữu trong một thế giới nhiều biến động, đổ vỡ.
Xem thêm
Lòng Mẹ - Mạch nguồn của “Chữ gọi mùa trăng”
Bằng trái tim giàu cảm thông, nhà thơ Phan Thanh Tâm – tác giả của 7 tập truyện ngắn và thơ thiếu nhi – đã tìm thấy ở Chữ gọi mùa trăng hình tượng người Mẹ vừa đời thường, vừa thiêng liêng.
Xem thêm
“Lời ru bão giông” – Từ cảm nhận đến vần thơ tri âm
Tập thơ Lời ru bão giông của Trần Hóa mở ra 59 câu chuyện đời đầy mất mát nhưng vẫn chan chứa ánh sáng nhân văn, niềm tin và tình yêu thương.
Xem thêm