TIN TỨC
  • Lý luận - Phê bình
  • Nuôi dưỡng tâm hồn Việt: Vai trò của văn học nghệ thuật trong kỷ nguyên 4.0

Nuôi dưỡng tâm hồn Việt: Vai trò của văn học nghệ thuật trong kỷ nguyên 4.0

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2025-04-26 20:59:26
mail facebook google pos stwis
717 lượt xem

NGUYÊN HÙNG (Văn nghệ Công an)

Ngày 30/4/1975 đánh dấu mốc son chói lọi trong lịch sử dân tộc Việt Nam – ngày đất nước thống nhất sau bao năm chia cắt. Chiến thắng ấy không chỉ là kết tinh của lòng yêu nước mà còn mở ra kỷ nguyên mới, nơi giáo dục và văn học nghệ thuật (VHNT) trở thành hai trụ cột song hành, kiến tạo nền tảng phát triển bền vững.

Để đáp ứng được yêu cầu trong tình hình mới, trước hết phải tăng cường công tác giáo dục và phát triển con người, tức là phải đầu tư mạnh vào giáo dục và khoa học. Khẩn trương xây dựng hệ thống đại học chuẩn quốc tế, hướng tới đào tạo đa ngành, liên kết với các trường danh tiếng thế giới; Khuyến khích nghiên cứu và ứng dụng công nghệ tiên tiến trong y học, năng lượng tái tạo và tự động hóa; Phát triển giáo dục STEM (Khoa học, Công nghệ, Kỹ thuật, Toán học), kết hợp với tư duy sáng tạo và kỹ năng mềm, tạo ra thế hệ công dân toàn cầu. Trong bối cảnh Cách mạng công nghiệp 4.0, giáo dục STEM đang trở thành xu hướng quan trọng trong đổi mới giáo dục. Giáo dục STEM giúp học sinh không chỉ tiếp thu kiến thức lý thuyết mà còn biết cách ứng dụng vào thực tiễn thông qua các dự án nghiên cứu, thí nghiệm, và mô hình sáng tạo; Học sinh được rèn luyện tư duy phản biện, khả năng giải quyết vấn đề và làm việc nhóm; Ứng dụng công nghệ hiện đại để đẩy mạnh giảng dạy lập trình, trí tuệ nhân tạo (AI), khoa học dữ liệu và robot trong giáo dục, trang bị cho thế hệ trẻ những kỹ năng cần thiết để hội nhập toàn cầu; Góp phần đào tạo nhân lực cho các ngành mũi nhọn như công nghệ thông tin, kỹ thuật, tự động hóa, giúp Việt Nam bắt kịp xu hướng phát triển của thế giới; Mở rộng hợp tác quốc tế trong đào tạo, đưa sinh viên, nghiên cứu sinh ra nước ngoài học tập và thu hút nhân tài trở về đóng góp cho đất nước.


Tọa đàm 'AI có thay thế được nhà văn?' do Hội Nhà văn TP.HCM tổ chức tại Trại sáng tác Đà Lạt

Văn học nghệ thuật với vai trò dẫn dắt tinh thần của dân tộc, có nhiệm vụ khơi dậy tinh thần yêu nước, ý chí đấu tranh và khát vọng xây dựng đất nước phồn vinh, đã luôn đồng hành cùng dân tộc. Ngày nay, VHNT tiếp tục phát huy vai trò định hướng tư tưởng, bồi đắp lòng yêu nước, tinh thần đoàn kết, đồng thời phản ánh sinh động thực tiễn đổi mới của đất nước. Đảng ta khuyến khích sáng tạo trên cơ sở giữ vững bản sắc dân tộc, tiếp thu tinh hoa nhân loại, góp phần xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc Việt Nam. Bởi lẽ, VHNT không chỉ là tấm gương phản chiếu đời sống mà còn là nguồn động viên, khơi dậy khát vọng phát triển, đóng góp quan trọng vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Để phát huy vai trò dẫn dắt tinh thần ấy, văn học nghệ thuật cần tập trung vào những định hướng then chốt sau:

Tiếp tục đổi mới tư duy sáng tác: Khuyến khích đa dạng hóa đề tài, cần nhấn mạnh yếu tố đa văn hóa và góc nhìn giới tính (ví dụ các tác phẩm về cộng đồng LGBT, người di cư, hoặc giao thoa văn hóa Việt – ASEAN); Mở rộng góc nhìn về đời sống đương đại, hội nhập quốc tế, biến đổi văn hóa; Phát huy tính phản biện xã hội trong văn học, khắc họa con người Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

Nhà nước cần có chính sách và chiến lược đầu tư, hỗ trợ cho các tác giả viết, sáng tác tác phẩm văn học có giá trị cao về tư tưởng và nghệ thuật. Để thực hiện được điều này, cần có tiêu chí lựa chọn (ví dụ: Ưu tiên tác phẩm có giá trị nhân văn, tính dự báo xã hội hoặc đổi mới nghệ thuật), quy trình lựa chọn và hội đồng thẩm định có chuyên môn và am hiểu về văn học.

Tổ chức hiệu quả các trại sáng tác, các chuyến đi thực tế sáng tác cho các nhà văn nhà thơ bằng kinh phí được Nhà nước hỗ trợ và nguồn kinh phí xã hội hóa. Có thể kết hợp với doanh nghiệp, tổ chức phi lợi nhuận để đa dạng hóa nguồn kinh phí. Việc này Hội Nhà văn Việt Nam trong những năm qua làm chưa được nhiều. Trong thời gian tới, Hội Nhà văn cần có chủ trương xã hội hóa mạnh mẽ, tạo điều kiện cho nhiều hội viên được tham gia các hoạt động chuyên môn này để đội ngũ sáng tác văn học của nước nhà có thể nâng cao số lượng và chất lượng các tác phẩm.

Nhà nước cần hỗ trợ tổ chức các cuộc thi viết, sáng tác tác phẩm văn học để phát hiện và khuyến khích tài năng. Đồng thời, các hội VHNT và các hội nhà văn ở các địa phương cũng cần chủ động tổ chức các cuộc thi văn chương từ nguồn kinh phí xã hội hóa. Cần minh bạch hóa tiêu chí chấm giải và tăng tính tương tác với công chúng (bình chọn online, đối thoại tác giả – độc giả). Về việc này, trong những năm gần đây Thành phố Hồ Chí Minh đã thực hiện khá sáng tạo, hiệu quả và đã tạo nên sinh khí mới cho văn chương phương Nam và góp phần thúc đẩy phong trào sáng tác và phát triển văn học trong cả nước nói chung. Những cuộc thi văn chương do địa phương này tổ chức không chỉ đơn thuần là những sân chơi thơ ca mà còn là nơi tôn vinh tinh thần nghĩa hiệp, lòng yêu nước và sự kiên cường của con người phương Nam.

Hỗ trợ xuất bản và phát hành quốc tế: Tăng cường hợp tác với các nhà xuất bản quốc tế, tham gia các hội chợ sách lớn để đưa văn học đến với độc giả thế giới. Thành lập quỹ dịch thuật tác phẩm Việt sang ngôn ngữ phổ biến (Anh, Pháp, Trung). Bên cạnh dịch thuật thì chiến lược quảng bá cũng rất quan trọng. Ta cần học hỏi từ các nước như Nhật Bản hay Hàn Quốc, nơi văn học được đẩy mạnh qua các sự kiện văn hóa quốc tế, hội sách lớn và đặc biệt là sự hỗ trợ mạnh mẽ từ các tổ chức xuất bản. Thúc đẩy xuất bản điện tử, tận dụng nền tảng số (Ebook, Podcast, Audiobook) để đưa văn học đến gần hơn với công chúng; Thử nghiệm AI trong sáng tác (ví dụ: phần mềm hỗ trợ viết lách, chatbot phỏng vấn nhân vật văn học); Sử dụng trí tuệ nhân tạo và công nghệ để hỗ trợ dịch thuật nhằm quảng bá, giới thiệu tác phẩm rộng rãi hơn. Chính nhờ chiến lược dịch thuật và quảng bá văn học của Hàn Quốc đã góp phần không nhỏ vào việc giúp nữ văn sĩ Han Kang đoạt giải Nobel Văn học 2024.

Phát triển không gian sáng tạo: Tạo điều kiện cho các nhà văn, nhà thơ có môi trường giao lưu, trao đổi sáng tác với các nền văn học khác trên thế giới. Mở các không gian làm việc chung (co-working space) cho nhà văn trẻ, kết nối với trung tâm văn hóa nước ngoài tại Việt Nam. Thế hệ nhà văn trẻ Việt Nam là niềm hy vọng lớn, hiện nay ở Việt Nam không ít những tác giả trẻ tài năng. Họ dám nghĩ, dám viết và không ngại thử nghiệm các phong cách mới. Điều quan trọng là chúng ta phải hỗ trợ họ có không gian sáng tạo, đồng thời định hướng để họ hiểu rằng sáng tác không chỉ là việc kể câu chuyện của riêng mình, mà còn là mang văn hóa Việt Nam đến với bạn bè quốc tế.

Giữ gìn bản sắc dân tộc trong sáng tạo văn học: Bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa dân gian, lịch sử qua các tác phẩm văn học; Tiếp tục sáng tác về những giá trị truyền thống, gắn kết lịch sử và hiện đại; Tránh sa vào tuyên truyền đơn thuần; nên khai thác chất liệu dân gian bằng góc nhìn hiện đại (ví dụ: truyện cổ tích viết lại từ góc độ nữ quyền).

Nhìn lại chặng đường 50 năm đã qua, chúng ta có quyền tự hào về những thành tựu to lớn đã đạt được. Tuy nhiên, chặng đường phía trước vẫn còn nhiều thách thức. Nếu giáo dục giữ vai trò then chốt trong việc kiến tạo một thế hệ trẻ có trách nhiệm, sáng tạo và bản lĩnh, thì văn học - nghệ thuật chính là ngọn lửa nuôi dưỡng tinh thần dân tộc, khơi dậy khát vọng vươn lên, đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới – một kỷ nguyên của sự bứt phá, phát triển bền vững và thịnh vượng, đóng góp tích cực vào hòa bình và hợp tác toàn cầu.

Trong kỷ nguyên ấy, cần phát huy hơn nữa sức mạnh mềm văn hóa, biến văn học - nghệ thuật thành nhịp cầu nối Việt Nam với thế giới, theo tinh thần: “Văn học không chỉ là nghệ thuật – đó là tấm gương phản chiếu khát vọng vươn tầm của cả dân tộc”.

Bài viết liên quan

Xem thêm
Những chấn thương nội tâm trong “Mã độc báo thù”
“Mã độc báo thù” là tiểu thuyết mới nhất của nhà văn Nguyễn Văn Học, vừa được NXB Công an nhân dân phát hành. Đây là một trong vài tiểu thuyết đầu tiên viết về đề tài tội phạm công nghệ cao ở Việt Nam. Tuy nhiên, nhà văn không chỉ nói về tội phạm, mà còn xoáy sâu về những tổn thương của con người trong thời đại số.
Xem thêm
Huệ Triệu, một nhà giáo, nhà thơ
Cả hai tư cách, nhà giáo và thi nhân, Huệ Triệu là một gương mặt sáng giá.
Xem thêm
Chúng ta có thực sự tự do trong chính tác phẩm của mình?
Văn học, cũng như các lĩnh vực khác, theo tôi đều có những dòng chảy nối tiếp âm thầm, tạo nên nhiều sự giao thoa, đan cài giữa cũ và mới, quen thuộc và khác lạ
Xem thêm
Biểu tượng nước trong thơ Vũ Mai Phong
“Nước” trong văn hóa phương Đông là thủy – khởi nguyên của sự sống, mang phẩm chất mềm mại – bền bỉ – linh hoạt biến hóa của triết lý nhu thắng cương. Trong thi ca Việt Nam, “nước” gắn với dòng chảy thời gian tâm thức dân tộc, văn hóa lịch sử và tâm linh
Xem thêm
“Hư Thực” của Phùng Văn Khai: Tiếng nói Hậu Hiện Đại và Dấu Ấn Văn Chương Đương Đại Việt Nam
Văn học luôn là tấm gương phản chiếu xã hội, là nơi ghi lại những biến chuyển của thời đại và tâm hồn con người. Trong lịch sử văn học Việt Nam, mỗi thời kỳ đều có những tác phẩm tiêu biểu, vừa mang dấu ấn thời đại, vừa để lại những giá trị trường tồn cho đời sau. Tuy nhiên, khi thế giới bước vào kỷ nguyên toàn cầu hóa và đa dạng văn hóa, các giá trị truyền thống gặp nhiều thử thách. Đặc biệt, với sự bùng nổ thông tin và biến động xã hội, con người ngày nay không còn sống trong một thế giới đơn giản, rạch ròi mà là một thế giới đa chiều, hỗn loạn và khó đoán định.
Xem thêm
Thế giới kỳ vĩ của thơ
Thế giới của thơ, với thi sỹ là bến đậu của tâm hồn, là cánh đồng gieo trồng cảm xúc và chữ nghĩa, là bầu trời để cất cánh ước mơ và thả hồn phiêu lãng; với đọc giả là nhịp cầu kết nối con tim, là dòng sông soi rọi, tắm táp tâm hồn để được nâng đỡ và bay cao.
Xem thêm
Văn học dịch và những tác động đến đời sống văn học Việt Nam những năm đầu thế kỉ XXI
Nói đến văn học dịch những thập niên đầu thế kỉ 21, có lẽ, trước hết, phải nhắc tới việc rất nhiều tác phẩm thuộc hàng “tinh hoa”, “kinh điển”, hay các tác phẩm đạt được các giải thưởng văn chương danh giá (Nobel, Pulitzer, Man Booker...) đã được chú trọng chuyển ngữ trong giai đoạn này.
Xem thêm
Vài nhận thức về trường ca “Lò mổ” của Nguyễn Quang Thiều
Tôi hỏi nhiều nhà thơ và văn, rằng họ thấy trường ca “Lò mổ” của Nguyễn Quang Thiều như thế nào và đặng họ có thể khai sáng chút gì cho tôi nhưng không ai có câu trả lời khiến tôi thỏa mãn, đa phần đều nói “Ái chà, Lò mổ của Nguyễn Quang Thiều hả, bọn tớ cũng chỉ nghe dư luận ồn ào trên mạng thôi chứ có sách đọc đâu!”.
Xem thêm
Nguyễn Duy – Vịn thi ca vượt thác thời gian...
Bài đăng Văn nghệ Công an số ra ngày 13/11/2025
Xem thêm
Thơ có nghĩa là “thương” - Tiếng thơ Đặng Nguyệt Anh
Một bài viết thấm đẫm nhân tình của Tuấn Trần – người trẻ viết về Đặng Nguyệt Anh, “ngoại” của thơ và của lòng nhân hậu. Từ câu chữ đến cảm xúc, bài viết là một lời tri ân chân thành dành cho thế hệ cầm bút đã “đem trái tim yêu thương gánh ghì số phận chung”, để hôm nay, thơ của họ vẫn còn làm dịu đi những cơn bão đời người.
Xem thêm
Chất liệu dân gian trong ca khúc Việt Nam hiện đại
Bài viết này xin phép được tiếp tục trình bày một xu hướng vận động chủ đạo của âm nhạc dân gian truyền thống Việt Nam sau 1975: dân tộc hóa ca khúc Việt Nam.
Xem thêm
Đọc thơ Thiên Di
Dường như là một giấc mơ chậm rãi, dịu dàng, vẫn đọng lại dư âm của cô đơn, khao khát và hy vọng. Tác giả sử dụng nhịp điệu từ những chi tiết nhỏ – mưa rả rích, ánh mắt, cánh hoa – để cảm xúc lan tỏa, khiến độc giả không cần lạm dụng từ ngữ hoa mỹ vẫn cảm nhận được sự mềm mại, tinh tế và ám ảnh.
Xem thêm
Nguyễn Khuyến “thâm nho” giữa đời thường
Nguyễn Khuyến (Nguyễn Thắng, 1835-1909) hiệu Quế Sơn, tự Miễn Chi. Người đời gọi ông là Tam Nguyên Yên Đổ, do lấy địa danh là xã (làng) Yên Đổ (huyện Bình Lục, Hà Nam trước đây) ghép với việc ông thi đỗ đầu (giải nguyên) cả ba kỳ thi hương, hội và đình. Nhưng việc này thì chính Nguyễn Khuyến cũng chẳng tự hào cho lắm, ông viết: “Học chẳng có rằng hay chi cả/ Cưỡi đầu người kể đã ba phen”.
Xem thêm
Triệu Kim Loan - Khúc độc thoại xanh của hồng gai
Bài viết sâu sắc dưới đây của nhà văn Kao Sơn dành cho buổi ra mắt sách Chữ gọi mùa trăng - Tập thơ thứ 7 đánh dấu chặng đường chín muồi của nhà thơ Triệu Kim Loan
Xem thêm
Quan niệm của Xuân Diệu về thơ từ những câu chuyện đời thường
Sinh thời, theo thống kê của Mã Giáng Lân, thi sĩ Xuân Diệu đã có hơn 500 buổi bình thơ trước công chúng. Đây là hoạt động nghệ thuật mà hiếm có nhà thơ, nhà văn nào ở Việt Nam và cả trên thế giới có thể sánh được. Không chỉ trong nước, chính “ông Hoàng thơ tình” Xuân Diệu đã có công quảng bá thi ca Việt Nam ra thế giới, giúp độc giả nước ngoài biết đến Nguyễn Du, Nguyễn Trãi, Tú Xương, Hồ Xuân Hương…
Xem thêm
Hành trình nước - Bước chuyển mình của kẻ sĩ chu du
Với Hành trình nước, Vũ Mai Phong cho phép người đọc thám hiểm một cõi tâm hồn mình, để chiêm nghiệm, để cảm nhận sự chuyển hóa kỳ diệu của nước - từ giọt sương nhỏ bé hóa thành đại dương bao la, từ tâm hồn cá nhân hòa vào tính thiêng của Tổ quốc.
Xem thêm
Gió Phương Nam 4 - Những lời thơ chân thực
Trang thơ “Gió Phương Nam 4” dễ dàng gợi lại những bước chân đồng đội năm xưa – bước chân thời chiến, bước chân thời bình, mang theo niềm vui, nỗi nhớ và cả những nỗi buồn sâu lắng.
Xem thêm
“Bến nước kinh Cùng” - Bến đợi của ký ức và tình người…
“Giữa bao vội vã, còn mấy ai lắng lòng với những phận người quê mộc mạc?” - Chính từ trăn trở ấy, “Bến nước kinh Cùng” của nhà văn Nguyễn Lập Em được tìm đến như một lời nhắc nhở tha thiết, đưa ta trở về với đất và người Nam Bộ, nơi tình quê và tình người thấm đẫm trong từng trang viết.
Xem thêm
Người thơ xứ Quảng: “Ảo hương lãng đãng bên trời cũ”
Nhà thơ Xuân Trường - tên thật Nguyễn Trường - là một tâm hồn phiêu bạt. Ông sinh ngày 12/12/1949 (theo giấy khai sinh) nhưng thực tế là năm 1945 (tuổi Ất Dậu), tại xã Đại Phong, huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam.
Xem thêm