TIN TỨC

Một vọng âm quá khứ hào hùng nhưng lắm đau thương

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2025-03-16 05:42:39
mail facebook google pos stwis
3256 lượt xem

TUỆ MỸ

(Đọc “Hòa âm đêm”, Nxb Hội Nhà văn, 2024 của Trương Tuyết Mai)

Đọc “Hòa âm đêm” (Nxb Hội Nhà văn, 2024) của nhạc sĩ, thi sĩ Trương Tuyết Mai, bạn đọc tưởng chừng như nghe được muôn vàn âm thanh của cuộc sống. Là tiếng thiên nhiên (tiếng gió, tiếng lá, tiếng sóng, tiếng trăng…), là tiếng đời lăn náo nức. Tiếng vui lẫn tiếng buồn. Tiếng hôm nay và tiếng của ngày xưa. Tất cả như “hòa âm” vang vọng dội vào trái tim của nữ sĩ. Trong muôn vàn thứ tiếng ấy, có lẽ tiếng vọng về từ quá khứ là âm sắc đặc biệt vọng động tâm tư tác giả.

Đó là tiếng vọng hào hùng nhưng lắm đau thương của dân tộc ta trong cuộc đấu tranh vệ quốc vĩ đại. Cuộc kháng chiến chống Mỹ với mục tiêu Giải phóng Miền Nam thống nhất đất nước kéo dài mấy mươi năm là bản anh hùng ca mà dân tộc ta đã viết bằng máu và nước mắt. Nói đến con đường thống nhất Bắc Nam là phải nói đến con đường Trường Sơn huyền thoại, là con đường huyết mạch cho miền Bắc chi viện sức người sức của để giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Trên con đường này, ngày đêm rầm rập đoàn quân Nam tiến và đoàn Thanh niên Xung phong đi lấp hố bom mở đường. Chính vì thế, Trường Sơn cũng chính là trọng điểm bắn phá của kẻ thù. Trương Tuyết Mai quê ở Phú Yên, thời thiếu nữ theo cha tập kết ra Bắc. Ôm hoài bão vào Nam giải phóng miền Nam nhưng mãi đến năm 1974 chị mới thực hiện được khát vọng này. Nghe và trải nghiệm những gian khổ Trường Sơn, chị rất thấm thía cái giá đắt phải trả cho Độc lập Tự do. Giờ đây, sống trong hòa bình, ký ức đau thương một thời chống Mỹ như thường trực sống lại trong lòng chị. Nên, khi nghe tiếng chim Đồi Thơm hót mà “Những cánh rừng xa/ Bỗng chấp chới hiện về” (Ơi chim đồi thơm). Những cánh rừng xa ấy chính là những cánh rừng Trường Sơn. Nơi “Đâu chỉ có sống chết/ Treo sợi tóc từng ngày”, “Đâu chỉ sốt rét/ Giữa rừng sâu heo hút/ Bần bật run lên cánh võng/ Rồi tàn hơi”. Vâng, đâu chỉ tử sinh do bom rơi đạn vãi mà còn do sốt rét rừng, do thiếu ăn, thiếu uống “quay quắt đói lòng”. Ký ức ấy sao có thể quên, nhất là đối với người trong cuộc. Đồng đội chị chẳng phải là những cô Thanh Niên Xung phong? Chẳng phải là người lính lái xe Trường Sơn? Đó là lý do khi đã “Ngần ấy năm xa/ Mà lòng ta mãi tha thiết/ Biển cạn non mòn/ Vẫn yêu lắm- Lính Trường Sơn”. Yêu “Lính Trường Sơn” bằng một tình yêu “tha thiết” dù “Biển cạn non mòn” cũng không hề đổi thay. Một tình yêu son sắt thủy chung của những con người cùng chí hướng, cùng lý tưởng nhưng trên hết là tình yêu, lòng khâm phục và hàm ơn đối với những con người sắn sàng lấy máu của mình để tô thắm màu cờ Tổ quốc.

Một trong những trọng điểm bắn phá của kẻ địch còn phải kể đến dòng sông Thạch Hãn. Bởi dòng sông này là con đường huyết mạch bảo vệ Thành cổ Quảng Trị. Dòng sông này cũng là nơi “nằm lại” vĩnh hằng của biết bao anh hùng tuổi trẻ. Viết về Thạch Hãn đã có bốn dòng thơ khắc đá của Lê Bá Dương nhưng có ai ngăn được cảm khái dâng trào của người cầm bút khi “nghĩ đến” nơi này. Trương Tuyết Mai cũng không ngăn được dòng nước mắt khi nhớ lại ký ức bi tráng mà rất đỗi hào hùng gắn với dòng Thạch Hãn. Thi sĩ đã “Thì thầm cùngThạch Hãn (*).

Thạch Hãn ơi! Thạch Hãn!/ Xin mách bảo dùm tôi/ nơi anh nằm có ấm/ hay sóng gió tơi bời

Sông ơi nhè nhẹ thôi/ hãy ru anh dào dạt/ Đừng cuộn xoáy dâng trào/ đừng cồn cào quặn thắt

Chỉ là “thì thầm” thôi nhưng tiếng gọi có sức vọng động xoáy vào tận tim gan. Đau lắm, “quặn thắt” lắm. Cuộc chiến đã kết thúc hơn nửa thế kỷ rồi nhưng đau thương, mất mát như vẫn còn hiển hiện. Màu nước dòng Thạch Hãn hôm nay “xanh” hơn, cuộc sống của ta ngày nay “xanh” hơn bởi có bao “tuổi hai mươi” đã từng lấy máu của mình “nhuộm đỏ”.

   Đâu ngờ lòng tôi vẫn hừng hực lửa

   Những năm tháng đau thương

  Vẫn không nguôi nhớ…

     (Yêu nước là đặc quyền của người Việt tôi)

Những năm tháng đau thương” đó là năm tháng nào? Rất rõ rành, khúc chiết, Trương Tuyết Mai tường thuật lại:

“Ngày ấy- mười bảy tháng Hai năm Bảy chin/ Một bầy thú dữ/ Với đầy đủ chiến tranh hiện đại/ Sáu mươi vạn giặc Tàu/ ngang ngược tràn qua”.

Thì ra, hết giặc Mỹ lại giặc Tàu. Không phải giặcTàu của hơn nghìn năm trước mà là giặc Tàu của thế kỷ XX lăm le đánh vào biên giới phía Bắc nước ta ngày 17/2/ 1979. Rất cụ thể rõ ràng về ngày tháng năm giặc Tàu “ngang ngược tràn qua” và cũng rất cụ thể về số lượng “sáu mươi vạn giặc Tàu”, quả là con số “biết nói” về mộng xâm lược của kẻ thù phía Bắc.  “Giặc phía Bắc nước ta đời đời hiểm độc”, đó là lời đúc kết của Trương Tuyết Mai dựa vào thực tế của lịch sử hàng nghìn năm ta đánh Tống, diệt Nguyên, bình Minh, đạp Thanh và cả hôm nay:

 “Chúng đâm Hoàng Sa, Trường Sa/ Đâm Gạc Ma sóng dậy/ Xúi Khơ Me Đỏ/ Đâm Tây Nam biên giới/ Máu dân lành/ Chảy thành suối thành sông…”

Đây chẳng phải là một bản cáo trạng đanh thép lên án tội ác của giặc Tàu. Là người yêu nước, đương nhiên không thể không sục sôi, căm hận và đương nhiên không thể không tuyên bố với kẻ thù rằng:

        -Chống giặc ngoại xâm vẫn nguyên bầu máu nóng

        Việt Nam tôi không chùn bước bao giờ

Rất khẳng khái, rất hào sảng. Tưởng như nghe đâu đây âm hưởng lời hỏi tội của tiền nhân “Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm/ Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời” và lời kêu gọi kháng chiến của Bác Hồ “Chúng ta thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”. Vì một lẽ dễ hiểu: Yêu nước là đặc quyền của người Việt tôi (*).

Biên giới Tây Nam- Việt Nam, nơi xảy ra vụ thảm sát Ba Chúc, một tội ác chiến tranh gây ra bởi chính quyền Khmer Đỏ cũng là một ký ức Trương Tuyết Mai không quên:

-Ba Chúc ơi, Ba Chúc/ bầm gan tím ruột nỗi đau sâu/ Ta nhất định tìm ra/ Kẻ thù giấu mặt.   (Chới với những bàn tay)

Tiếng gọi “Ba Chúc ơi, Ba Chúc!” trong nỗi thảng thốt bàng hoàng, đớn đau vô hạn. Chẳng phải đây là “nỗi đau sâu”? “Hàng ngàn người ngã xuống” chỉ trong vòng mươi ngày thôi sao chẳng “bầm gan tím ruột” cho được. Lý do bị thảm sát là gì mãi mãi là câu hỏi lớn “Mãi không thể hiểu vì sao”, vì kẻ thảm sát là “Kẻ thù giấu măt”. Kẻ thù thì “giấu mặt” còn chết chóc tang thương thì cứ phơi bày.

Đau thương, chết chóc đâu chỉ hiện diện lúc xảy ra chiến tranh mà hệ lụy của chiến tranh kéo dài không lường được. Đó là bi kịch chất độc da cam. Mượn “Lời ru(*) của người mẹ, thi sĩ  tái hiện bi kịch này:

  “À ơi à/ Con có nghe mẹ hát/ Ru những đôi mắt mở dáo dác/ Ru những cái đầu to/ Ngơ ngác vô hồn”.

  “Con có nghe mẹ hát/ Ru nỗi niềm cháy khát/ Linh nghiệm một phép màu/ Trả về cho các con/ Những hình hài nguyên vẹn”

Cũng viết về nỗi đau da cam, nhà thơ Lệ Thu (nhà thơ cùng thời với Trương Tuyết Mai) đã để cho người mẹ khấn cầu: “Tôi khấn lạy mười phương/ cầu cho con tôi mở mắt/ cầu cho con tôi mọc tay chân” và kêu cứu “Có ai cứu con tôi không/ hỡi nhân loại toàn cầu/ Đi-ô-xin là gì/ ai rải xuống đất này chi?/ làm cho con tôi không thành hình vóc/ chỉ cục thịt vô hồn làm sao sống giữa thế gian” (Mầm xanh của mẹ). Trương Tuyết Mai không van lạy cũng không kêu cứu hay hỏi tội ai mà chỉ tin vào “Linh nghiệm một phép màu/ Trả về cho các con/ Những hình hài nguyên vẹn”. Phép màu hẳn không xuất hiện giữa thế gian đầy rẫy tội đồ nhưng mẹ vẫn “cháy khát” niềm tin vào thần linh bởi không còn con đường nào khác để cứu con mình. Mẹ ru con nhưng cũng chính là ru lòng mình vậy. Ru một niềm tin không bao giờ thành hiện thực. Lúc cất lên tiếng ru thê thiết cũng là lúc mẹ đứng trên đỉnh của nỗi đớn đau, tuyệt vọng, hãi hùng. Tiếng “À ơi à” như cắt cứa tim gan.

Khi xem bức tranh “Ôm trọn nỗi đau” của họa sĩ Trịnh Thanh Tùng, hình ảnh người mẹ trong tranh “Giống như chiếc bóng/ bà ngậm ngùi cúi xuống/ Quàng tay ôm/ những đứa trẻ vô hồn” đã khiến cho “Người xem tranh-chôn chân -hóa đá”. Nếu nỗi đau người mẹ trong tranh được họa sĩ khắc nổi bằng sắc màu thì nỗi đau tê điếng lòng của người xem tranh được Trương Tuyết Mai để cho hình ảnh thơ “chôn chân- hóa đá” cất tiếng. Bởi người xem tranh đã nhập thân vào nhân vật trong tranh, lấy nỗi đau của nhân vật làm nỗi đau chính mình. Và, bởi người xem tranh cũng mang trái tim người mẹ. Rõ ràng, đau thương do chiến tranh mang lại không chừa một ai nhưng có lẽ người gánh chịu nhiều nhất vẫn là người mẹ

Còn và còn rất nhiều bi kịch do chiến tranh mang lại không sao kể hết. Nữ sĩ chỉ có “Điều ước giản dị” (*) này: “Cho thế giới yên lành sau trước/ Hiền hòa chân thiện/ Không súng gươm”.

Gọi “Hòa âm đêm” là bài ca khát vọng? Đúng. Khát vọng tình yêu đôi lứa hạnh phúc viên mãn. Khát vọng tìm về ngày xưa có bóng dáng mẹ hiền, có tuổi thơ hồn nhiên. Khát vọng cho bao cuộc đời, bao phận người thoát khỏi bóng đêm, sống đời hạnh phúc. Khát vọng xóa bỏ bất công, xua tan cái ác, cái xấu. …Nhưng có phải khát vọng nào cũng thực hiện được đâu khi thời gian khắc nghiệt cứ chảy trên phận người, khi mà mỗi cá nhân không đủ lực. Nên, bài ca này điệu buồn nhiều hơn điệu vui. Trong điệu buồn đó, ngòi bút Trương Tuyết Mai chạm đến ký ức chiến tranh. Mà nói đến chiến tranh là nói đến mất mát, đau thương, hy sinh, chết chóc tức là nói đến chuyện buồn. Nhưng Trương Tuyết Mai viết về chiến tranh không phải để buồn mà là để nhắc nhở mình đừng quên quá khứ đau thương của dân tộc, đừng quên cái giá đắt mà dân tộc ta phải trả cho Độc lập Tự do, để niềm tự hào dân tộc luôn chảy trong huyết quản mình. Biết ơn quá khứ, soi mình vào quá khứ của dân tộc để tôi rèn nhân cách, di dưỡng tinh thần, để mỗi bước đi của ta vào cuộc sống hôm nay thêm ý nghĩa, phải chăng đó là tâm niệm của nhà thơ? Đó cũng là đạo lý sống “Uống nước nhớ nguồn”. Lời nhắc nhở này là hành trang Trương Tuyết Mai mang theo bên mình trong hành trình “làm người” đầy kiêu hãnh. Đến nay, nhạc sĩ, thi sĩ Trương Tuyết Mai đã bước vào tuổi bát tuần mà vẫn không ngừng cống hiến cho đời bằng những sáng tạo nghệ thuật như lời chị thầm nhủ “Ta là ngọn đèn/ Cạn dầu/ Lụn bấc/ Chẳng còn gì/ Cũng mong cháy hết mình/ Dẫu không đủ sưởi trái tim/ Cũng ấm được bàn tay”.

 “Hòa âm đêm” là kết tinh của một trái tim biết nghe, biết nghĩ, biết thao thức cùng dân tộc mình của nữ sĩ Trương Tuyết Mai.

------

P/s : (*) là tên một số bài thơ trong tập thơ này.

Bình Định, 15/3/2025

Bài viết liên quan

Xem thêm
Hồi hộp trước “phút bù giờ” của Minh Đan
Ngôn ngữ của Minh Đan đôi lúc không còn chỉ là ký tự để giải nghĩa, mà là vật liệu có tâm hồn – biết khít lại, giãn ra, để tạo hình tượng và âm thanh.
Xem thêm
Phát triển
Nội dung quyết định hình thức. Xét cả quá trình văn học lâu dài, các hình thức tác phẩm kế tiếp nhau xuất hiện, tác động vào nền văn học, góp phần tạo ra phát triển văn chương. Bài viết chỉ đề cập đến chủ đề này của cuốn sách.
Xem thêm
Vẻ đẹp tình người và nỗi niềm ưu tư trong thơ Phạm Nguyên Thạch
Một trong những cánh én đầu đàn của văn học An Giang - nhà thơ Phạm Nguyên Thạch, anh sinh năm 1948, hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, nguyên Phó Chủ tịch Hội Văn học Nghệ thuật An Giang và hiện là Chi hội trưởng Chi hội Nhà văn Việt Nam tỉnh An Giang. Anh sáng tác từ trước năm 1975. Từ đó đến nay, nhà thơ đã có những tác phẩm tạo tiếng vang được xuất bản: “Ngôi nhà lợp ngói âm dương” (Văn Nghệ AG, 1986); “Theo tình” (VNAG, 1994); “Gió” (NXB Trẻ, 1999); “Thị trấn đá” (VNAG, 2002); “Cỏ lá quẩn quanh” (VNAG, 2006); “Mưa ảo” (NXB Hội Nhà văn, 2019).
Xem thêm
Nghiên cứu truyện Nam Cao theo góc nhìn thi pháp
Bằng cách ghi nhận từ các bài nghiên cứu, lời giới thiệu, chắt lọc những ý kiến nho nhỏ, có khi chỉ một vài nhận xét liên quan, có thể đưa ra một cách nhìn về tình hình nghiên cứu truyện ngắn Nam Cao trên góc độ thi pháp học hiện đại.
Xem thêm
Nguyễn Thành Phong – Nhà thơ tài hoa trữ tình, quan chiêm ngoại vi và nội hàm tự sự luận cảm của thơ Việt Nam thời kỳ đổi mới
Trữ tình và tự sự là những khái niệm của thơ, ngoại diên và nội hàm là những khái niệm của logic học. Ngoại vi là một phần của ngoại diên chỉ các đối tượng có phạm vi nhất định và chỉ định. Trong thơ, nó là các địa danh, hoặc các nhân vật trữ tình, các không thời gian xác định, tạo nguồn cảm hứng. Ngoại vi nhỏ hơn ngoại diên. Nội hàm là nội dung thuộc tính bên trong cả chủ quan và khách quan của sự vật, hiện tượng. Trữ tình nói bằng cảm xúc, gắn với bộc lộ chủ thể. Tự sự kể lại, tả lại khách thể. Phàm lệ mấy câu để bài viết này đỡ cảm thấy gượng ép, mong được đồng cảm.
Xem thêm
Hãy sống như những người đã chết - Một nhan đề độc đáo
Lúc đi học, thầy cô từng bảo nhan đề là tên của tác phẩm, còn có cách gọi khác là đầu đề, là cái tít chung của một văn bản. Nhan đề (đầu đề) thường do người viết đặt ra - như người bố, người mẹ đặt tên cho đứa con của mình; nhưng cũng có khi do người khác (cán bộ biên tập) đặt hộ, hoặc đổi tên đi cho hay, cho phù hợp với chủ đề của tác phẩm.
Xem thêm
Inrasara: Tác phẩm văn chương, từ tốt & hay đến lớn
Tại tọa đàm cùng tên do Hội Nhà văn TPHCM tổ chức, nhà thơ – nhà phê bình Inrasara đã mang đến những luận điểm sắc sảo, giàu trải nghiệm, mở ra cách nhìn mới về sự cộng hưởng giữa sáng tác và tiếp nhận, để văn chương thực sự chạm tới và ở lại lâu dài trong lòng người đọc.
Xem thêm
Văn học Đổi mới, một cách nhận diện
Cho đến nay, cụm từ “Văn học Đổi mới đã được sử dụng khá rộng rãi. Từ trong nhà trường đến ngoài xã hội, từ báo chí đến các các cơ quan truyền hình, đài phát thanh, trong các bài nói chuyện hay phát biểu của các nhà sáng tác, phê bình văn học, nó được xuất hiện một cách tự nhiên giống như một thuật ngữ đã được định hình.
Xem thêm
Phù sa tâm hồn qua “Ký ức bão!” của Lương Duy Cường
Những ngày đầu tháng Tám, tôi có chuyến đi miền Trung vào đúng dịp trời như rút ruột để nắng, đến nỗi chỉ cần thêm một giọt bỏng sẽ vỡ cả thinh không. Để mấy ngày sau trở về nhà, trong giấc mơ, quờ tay, tôi vẫn chạm vào bỏng rát. Người ta nói, trước những cơn thiên tai, nắng thường đi trước để dọn đường.
Xem thêm
Đói và sự thức tỉnh mình
Đọc ĐÓI của Đỗ Thành Đồng ngay trong phút thứ 59 và chuẩn bị bước qua con số 0. Nhìn lên góc giấy, hóa ra đây là trang thứ 59 LỤC BÁT ĐỜI. Có những sự tự nhiên, ngẫm cũng hay.
Xem thêm
Tác phẩm hay –Từ tiếp nhận và sáng tác
Có những câu hỏi tưởng chừng giản dị nhưng khiến người cầm bút trăn trở cả đời: Thế nào là một tác phẩm hay?
Xem thêm
Cảm thức quê hương, từ những tản văn đậm hồn quê
Ai đó từng nói: “Trong vũ trụ có nhiều kỳ quan, nhưng kỳ quan tuyệt phẩm nhất đó là trái tim người mẹ”. Tình yêu của mẹ đẹp đẽ, thiêng liêng và bao la chẳng có bến bờ. Có mẹ, ta như có tất cả. Khi mẹ vắng xa cuộc sống sẽ đầy nỗi buồn thương, chán chường, tiếc nuối… Thời gian có chờ đợi ai bao giờ…
Xem thêm
Ký ức bóng mùa qua hay là cảm thức thời gian trong thơ Cao Ngọc Thắng
Cao Ngọc Thắng đã thực sự ám ảnh và thao thức về thời gian, không ngừng đi tìm thời gian đã mất để phục sinh những ký ức gần và ký ức xa trên hành trình tâm linh sự sống.
Xem thêm
Văn học các dân tộc thiểu số sau ngày đất nước thống nhất và hướng đi mới trong kỉ nguyên số
Văn học hiện đại các dân tộc thiểu số sau gần một thế kỉ hình thành và phát triển, đến nay đã có gần 1500 hội viên ở các loại hình nghệ thuật. Các thế hệ nhà văn dân tộc thiểu số đã đạt được những thành tựu và ghi dấu ấn độc đáo trong nền văn học nước nhà.
Xem thêm
Những câu chuyện hấp dẫn và cảm động
Giữa tháng 6 năm 2025 nghệ sĩ Hồ Thanh Thoan cho ra mắt tập Bút ký mang tựa đề:“Một thời đã qua” do NXB Thuận Hóa ấn hành, dày 224 trang, khổ 14,5 x 20cm. Với vốn sống từng trải, đảm nhiệm nhiều trọng trách chuyên môn khác nhau, có dịp đến nhiều vùng miền, bắt gặp những câu chuyện thú vị, người nghệ sỹ đa tài ấy lặng lẽ chép vào sổ tay, nay mới có dịp viết xong 20 câu chuyện về “người thật, việc thật” đầy hấp dẫn và cảm động. Đó là nghệ sĩ Hồ Thanh Thoan, Phó Chủ tịch chuyên trách Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh Quảng Trị.
Xem thêm
GS.TS Trần Văn Khê tự truyện về cách học
GS.TS Trần Văn Khê, cây đại thụ của nền âm nhạc dân tộc Việt Nam, không chỉ được biết đến là người có công rất lớn trong việc đưa âm nhạc dân tộc Việt Nam ra thế giới, như nhà thơ Huy Cận đã từng nói về ông: “Chân đi tám hướng, mười phương/Tinh thần dân tộc một đường trước sau”. Là người Việt Nam vinh dự nhận hơn 14 giải thưởng, huy chương, bằng danh dự giá trị trong nước và thế giới. Mà GS.TS Trần Văn Khê còn là người có tấm gương sáng về tinh thần tự học, phương pháp học... đáng để chúng ta học hỏi.
Xem thêm
Thăm nơi neo đậu quê mình với thơ
Con người ta khi tuổi càng cao thì nỗi niềm về quê hương bản quán càng dâng đầy trong tiềm thức, nhất là người đó lại là người tha phương, sống nơi đất khách.
Xem thêm
Nhà thơ Hữu Thỉnh - Cây bút phê bình cự phách
Bài của PGSTS Vũ Nho đăng Văn nghệ Công An
Xem thêm
“Ngày Xanh” trong thơ Hồ Thế Hà hay là thơ của một thời hoa mộng
Bài của TS Hoang Thu Thủy về thơ PGS.TS Hồ Thế Hà
Xem thêm
“Trăm ngàn” – Hành trình truy nguyên bản thể giữa phế tích ký ức và nỗi cô đơn hiện sinh
Bài phản biện của nhà thơ Hương Thu xung quanh việc khen chê truyện ngắn Trăm Ngàn
Xem thêm