TIN TỨC

Mai Quỳnh Nam và một phía

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2025-03-22 21:35:45
mail facebook google pos stwis
791 lượt xem

ĐẶNG HUY GIANG

Kiệm lời và cô đặc. Dồn nén và chất chứa. Giản dị và sâu xa. Một mình một lối. Một mình một kiểu. Không giống ai và ai muốn giống, cũng khó! Không dễ đọc và cũng không dễ thấm... Nhưng một khi đã đọc thì phải nghiền ngẫm. Đó là cảm nhận của tôi sau khi đọc thơ Mai Quỳnh Nam thường xuyên, có hệ thống, từ nhiều năm nay.

Ấy là lối thơ định đề. Ý tứ được định vị ngay tức khắc và ý tưởng cũng được định vị ngay tức khắc. Tựa như một một vận động viên chạy tốc độ ở cự ly cực ngắn, động tác xuất phát là cực kỳ quan trọng và cứ thế mà lao về đích như một mũi tên. Tính đến thời điểm này, thơ viết độc đáo kiểu Mai Quỳnh Nam trong làng thơ Việt Nam, theo tôi, vẫn là duy nhất.

Trên thế giới, thơ định đề của những tác giả nước ngoài được dịch và ấn hành ở ta, cũng không nhiều. Vương Hàn (Trung Hoa) có “Xưa nay chinh chiến mấy ai về “ trong “Lương Châu từ kỳ 1”. Tagore (Ấn Độ) có “Chúa cũng tự tìm mình qua sáng tạo” qua một bài thơ không có đầu đề chỉ có một câu. B. Brecht (Đức)có “Làm người ác vất vả vô cùng” trong “Mặt nạ kẻ ác”. Bonnefoy (Pháp) có “Bất toàn là đỉnh cao” trong “Không đề”. K. Lubomirski (Áo) thì nhiều hơn: “Bên em, anh chết dễ dàng hơn”, “Tại sao ánh ánh sáng đi qua chúng ta lại chỉ còn bóng tối?”, “Đừng trổ nhiều cửa sổ lên một bức tường/ Nhiều ánh ánh sáng bức tường sẽ đổ” trong nhiều bài thơ ngắn.

Nói cho cùng, mỗi bài thơ chỉ cần có một hoặc hai câu như trên, đâu cần gì nhiều, là đã đủ có sức nặng thuyết phục độc giả. Nói một cách khác: Nhiều khi, chỉ cần một, hai câu trên thôi, đã đủ làm thành một tứ thơ.

Có nhiều ý kiến khác nhau về thơ Mai Quỳnh Nam. Có người nói: Thơ ông là thơ hình học, là nghệ thuật ý niệm. Có người nói: Thơ ông là thơ tối giản. Có người nói: Thơ ông giống như châm ngôn. Có người nói: Thơ ông như những bàn thắng đẹp trong một trận đấu bóng đá hấp dẫn. Tất cả đều không sai, tất cả đều rất đúng với thơ Mai Quỳnh Nam và con người thơ trong ông. Riêng tôi, tôi nghĩ thơ Mai Quỳnh Nam luôn rơi theo chiều thẳng đứng, mà điểm rơi thường tập trung vào một điểm rất nhỏ (tạm gọi là “tiết diện”). Nhờ thế mà lực và sức công phá rất mạnh. Hiện tượng này giống như con người ta dùng mũi dao để chém rất mạnh, một cách bột phát và tức thì vào một mặt phẳng vậy! Ở một cách nhìn khác, Thơ Mai Quỳnh Nam, giống một khối TNT gần như không có dây cháy chậm hoặc nếu có thì dây cháy chậm dẫn đến điểm nổ cực ngắn.


Nhà thơ Đặng Huy Giang (phải) và nhà thơ Mai Quỳnh Nam.

Phần đầu trong “Một phía” (NXB Hội Nhà văn quý 3 năm 2024), tình yêu, đặc biệt là tình yêu đôi lứa và thuộc tính của tình yêu vừa trong nó, vừa ngoài nó, được Mai Quỳnh Nam soi chiếu rất kỹ qua một cách nghĩ, cách nhìn thật riêng.

Vì có sự bất toàn trong lời hứa

anh không hứa nữa

 

Sự thất hứa của anh đã cứu sống em

sự thất hứa của em đã giết chết anh

Nếu ở hai câu đầu, Mai Quỳnh Nam muốn bảo toàn lời hứa đến mức tuyệt đối, thì ở hai câu sau, sự thất hứa, đôi khi để lại hậu quả khác nhau. Nghĩa của hai từ “thất hứa” không còn mang nghĩa thuần túy nữa, nó nương theo cảnh huống để chữ sinh nghĩa.

Thơ khác các loại hình văn chương khác là thế! Các loại hình văn chương khác có thể đạt đến độ nghiền ngẫm, nhưng thơ lại có thể đạt đến mức nghiền nát.

Cái mùi hương, cái mùi hương quái quỷ

ủ bên lòng ma mị u mê

 

Những vì sao rủ nhau đi ngủ

giờ là lúc đôi ta thành vũ trụ

 

Hóa lỏng

trong khuôn hình

 

Giống như em

trong anh

Nếu hai câu đầu nói về sự hấp dẫn, mê hoặc của tình yêu thì những câu sau, lại tuyệt đối hóa tình yêu, lại nói đến cái khoảng cách bằng không, sự là một của đôi lứa. Ý tại ngôn ngoại của bốn câu thơ này là rất rõ và đó là cách nói thật hay của thơ, lại rất mới mẻ. Riêng “hóa lỏng” là một chi tiết đắt.

Sau “Cái mùi hương, cái mùi hương quái quỷ/ ủ bên lòng ma mị u mê”, những  câu “Anh không chơi đuổi hình, bắt bóng/ sao cái bóng của em/ quấn vào anh/ như sợi dây thòng lọng”, “Chết không rời nhau/ chết trong cực khoái/ xác khô kể lại:/ một con côn trùng đực, một con côn trùng cái...” xem ra còn quyết liệt và mang ý nghĩa có phần định mệnh hơn.

Mặt sau của tình yêu, cũng được Mai Quỳnh Nam khai thác triệt để, đẩy lên thành đỉnh điểm trong một cách nói khác biệt: “Chàng không phải là động vật nhai lại/ nàng thích thực đơn mới/ thế là họ thơ thới/ cuộc order tối nay”, “Không phải tình ái/ cô ấy là thặng dư được phân chia lại”, “Trả góp/ anh xin ứng trước/ anh mãi là người mắc nợ/ thỉnh thoảng em nhắc thầm/ anh biết/ đó là tình cảnh đôi ta/ từ dằng dặc sống đến dằng dặc chết”, “Chấp nhận kiểu hành vi không thuộc về nhau/ im lặng trong không gian ở/ im lặng nối dài dây cháy chậm/ với khối mình căng thẳng từ lâu.../ Không thể, nấp vào đâu”...

Tôi dám chắc, số người có thơ về tình yêu, viết về tình yêu đạt đến mức thấu đáo và góc cạnh như Mai Quỳnh Nam, không nhiều.

Đến “Một phía”, Mai Quỳnh Nam tự làm đầy mình lên bằng những bài thơ giàu cảm xúc, góp phần để giọng điệu thơ ông trở nên mềm mại hơn, uyển chuyển hơn. “Mây lụa thắm giăng giăng ngày em đến/ trăng chưa lên chiều có muộn chi nhiều/ mùi hương lạ phả vàng hoa trắng tím/ mùa ấm dần từ phía nắng anh yêu”; “Bao nhiêu nước dưới chân cầu vẫn chảy/ bao nhiêu mây quấn quít rủ nhau về/ bao nhiêu nắng bàng hoàng ngây dại/ bao nhiêu đêm khắc khoải mảnh trăng thề”; “Cây lẻ hình em bóng sớm phai/ em đi buông xuống vệt sương dài/ long lanh mảnh nắng vờn bên áo/ phảng phất mùi hương thơm gió phai” - đó là ba ví dụ cụ thể.

Những bài thơ làm động tâm độc giả trong “Một phía” vốn là cái mạnh, cái cố hữu của Mai Quỳnh Nam, cũng rất sẵn. Có thể thực chứng: “Khoảng cách giữa hai bó cỏ/ to như trí lự con bò”; “Ngoại trừ cái chết/ Tất cả đều không rõ rệt”; “Tôi mất quá khứ, tôi còn tương lai/ cơ hội xòe ta mở cuộc chia bài”; “Mọi khái quát chỉ là cốc nước vơi/ sự thiếu hụt kia thuộc về bản thể đời”; “Có những chuyện long trời lở đất/ diễn ra trong chớp mắt/ bằng một cái tặc lưỡi”; “Hy vọng người này/ người này sập bẫy.../ hy vọng người kí/ người kia sập bẫy.../ đầy rẫy cạm bẫy/ ai ai cũng thấy.../ ai ai cũng chen chân vào đấy”...

Và tôi không khỏi giật mình khi đọc:

Tiếng dội trên xuống

tiếng vọng dưới lên

khoảng giữa tối đen

 

      không gì hết

     và:

Giờ là lúc hạ màn

không trống, không kèn

ôi! cái thời rùm beng

leng keng kèn trống

tiền hô, hậu ủng

lủng xủng loảng xoảng

Thơ Mai Quỳnh Nam luôn có chủ ý. Nẻo về của ý trong thơ ông dày đặc.Lượng thông điệp trong thơ ông tương đối đa dạng, đa chiều.  Đó vừa là nét tiêu biểu, vừa là bản sắc thơ Mai Quỳnh Nam. Ông luôn có đức tin không gì lay chuyển nổi từ mẹ: “Suốt cuộc đời con nghe tiếng gọi: / mẹ đây mà, con ơi, ở đâu?” và nhận ra cái cốt lõi của thơ mình mà ông còn mãi theo đuổi đến tận cùng: “Vệt chớp/ luồng ánh sáng/ đường thơ tối giản”.

Phố Khuất Duy Tiến, đêm 22 tháng 11 năm 2024

Bài viết liên quan

Xem thêm
Gió Phương Nam 4 - Những lời thơ chân thực
Trang thơ “Gió Phương Nam 4” dễ dàng gợi lại những bước chân đồng đội năm xưa – bước chân thời chiến, bước chân thời bình, mang theo niềm vui, nỗi nhớ và cả những nỗi buồn sâu lắng.
Xem thêm
“Bến nước kinh Cùng” - Bến đợi của ký ức và tình người…
“Giữa bao vội vã, còn mấy ai lắng lòng với những phận người quê mộc mạc?” - Chính từ trăn trở ấy, “Bến nước kinh Cùng” của nhà văn Nguyễn Lập Em được tìm đến như một lời nhắc nhở tha thiết, đưa ta trở về với đất và người Nam Bộ, nơi tình quê và tình người thấm đẫm trong từng trang viết.
Xem thêm
Người thơ xứ Quảng: “Ảo hương lãng đãng bên trời cũ”
Nhà thơ Xuân Trường - tên thật Nguyễn Trường - là một tâm hồn phiêu bạt. Ông sinh ngày 12/12/1949 (theo giấy khai sinh) nhưng thực tế là năm 1945 (tuổi Ất Dậu), tại xã Đại Phong, huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam.
Xem thêm
Nước sông Sa Lung chưng cất bầu rượu thơ
Nhà thơ Nguyễn Hữu Thắng lớn lên bên dòng sông Sa Lung xanh trong. Có phải dòng sông Sa Lung là dòng sông thơ ca của đất Rồng - Vĩnh Long?. Tuổi thơ anh vô tư ngụp lặn vẫy vùng bơi lội tắm mát trong dòng sông ấy, nên anh rất yêu thơ, tập tành sáng tác thơ và thành công thơ khá sớm.
Xem thêm
Cung ngà xưa – Tiếng vọng ký ức trong miền tiếp nhận hôm nay
Đặt trong bối cảnh văn hóa, “cung ngà” còn gợi đến truyền thống âm nhạc dân tộc, nơi tiếng đàn, tiếng sáo từng là phương tiện gắn kết cộng đồng. Người miền Trung – đặc biệt là Huế và xứ Quảng – vốn sống trong không gian khắc nghiệt, thường tìm đến âm nhạc như một nơi trú ngụ tinh thần. Vì vậy, bài thơ không chỉ là ký ức cá nhân, mà còn mang dấu vết của ký ức tập thể.
Xem thêm
“Công chúa Ngọc Anh – bể khổ kiếp nhân sinh”
Văn học lịch sử vốn được xem là mảng khó viết bởi vừa đảm bảo tính chính xác vừa phải tạo được tính hấp dẫn lôi cuốn. Người viết văn học lịch sử không thể xuyên tạc, tô vẽ hay làm méo mó đi nội dung câu chuyện. Chính vì khó viết nên văn học lịch sử luôn là đề tài thu hút nhiều người đọc, bởi đó là cơ hội để người đọc và người sáng tác chiêm nghiệm lại quá khứ, suy ngẫm về tương lai, trăn trở về những hưng thịnh của thời đại, là một dòng chảy làm tái sinh những giai thoại dựa trên sự kiện lịch sử. Người viết văn học lịch sử là người phục dựng lại những bí ẩn còn chìm sâu trong bức màn thời gian, làm sáng tỏ những giá trị nghệ thuật mang tính truyền thống hay tín ngưỡng.
Xem thêm
Nhẹ nhàng bài ca cuộc sống nơi “Những cơn mưa thu” của Thanh Tám
Thanh Tám, Hội viên Hội Văn học nghệ thuật Lai Châu là cây viết truyện ngắn khá quen thuộc với bạn đọc. Một số truyện ngắn của Thanh Tám đã được đăng tải trên các trang báo sang trọng Báo Văn nghệ, Trang báo điện tử Vanvn.vn của Hội Nhà văn Việt Nam. Một trong những truyện ngắn của em, tôi tin rằng nhiều người thiện cảm, đó là truyện ngắn Những cơn mưa thu. Một câu chuyện gọn gàng, xinh xắn, gợi trong lòng độc giả những ấm áp, yêu thương như giọng văn nhẹ nhàng, truyền cảm của tác giả vậy.
Xem thêm
Tượng đài một anh hùng
Trường ca Tiếng chim rừng và đất lửa Tây Ninh (NXB Quân đội nhân dân, 2025) của tác giả Châu La Việt đã kiến tạo thành công nhiều biểu tượng về cuộc kháng chiến chống Mỹ một cách hệ thống, đa dạng về cấu trúc, sâu sắc về ý nghĩa, giàu có về tín hiệu thẩm mỹ.
Xem thêm
Cô gái Quảng Trị với nồng cay tiêu Cùa
Đọc 14 bài bút ký của nữ nhà báo Đào Khoa Thư, trong tập bút ký “Mùa bình thường” in chung với nhà báo Đào Tâm Thanh, do Nxb Thuận Hóa ấn hành tháng 7 năm 2025, tôi thật sự khâm phục cách viết khoáng hoạt của cô gái trẻ. Không gian được đề cập là mảnh đất quê nhà thân thương và những đất nước mà cô đặt chân đến để học tập, công tác, giao lưu, trải nghiệm. Lời văn tươi mới tràn đầy cảm xúc, lối viết chân thực, cởi mở, ngắn gọn cho ta thấy bao điều mới mẻ. Đọc lần lượt từng bài bút ký, thật thích thú với bao điều hấp dẫn qua từng câu chuyện kể về cuộc sống đời thường và các sự kiện diễn ra rất bổ ích.
Xem thêm
Đọc thơ Phương Viên – Ba khúc tình, rụng và gặp gỡ
Bằng giọng văn tinh tế, giàu cảm xúc và với kiến văn sâu rộng, tác giả đã khẳng định: thơ Phương Viên là nơi “chữ rụng mà hồn nở hoa”, một giọng thơ biết lặng đi để người đọc còn nghe tiếng của yêu thương và hồi sinh. Văn chương TP. Hồ Chí Minh xin giới thiệu bài viết này tới bạn đọc.
Xem thêm
Hạt bụi lênh đênh – Từ đất Ý hóa kiếp thân thương dưới trời nam
Rơi ra từ căn phòng bài trí trang trọng của một tòa lâu đài cổ kính. “HẠT BỤI” kia đã chọn kiếp “LÊNH ĐÊNH” để rồi một ngày lưu dấu hồn trần nơi “quê người đất khách”. Hẳn là trong sự lựa chọn “nghịch thường” đó, hàm chứa một điều lớn lao địa cửu thiên trường nơi thân mệnh mong manh cánh chuồn. HẠT BỤI LÊNH ĐÊNH – ngay từ nhan đề… đã cho thấy sắc tính Á Đông thông dụng. Điều đặc biệt ở đây. Nó được viết bởi ELENA PUCILLO TRƯƠNG một nhà văn, một nhà Khoa học/ học giả Ngữ Văn của Tây Phương – Ý.
Xem thêm
Hoài niệm quê hương trong thơ Nguyễn Quang Thuyên
Nguyễn Quang Thuyên vốn là “dân xây dựng” - Giám đốc Vinaconex 3 Phú Thọ , quê Tam Nông, Phú Thọ. Ai từng gặp anh thời điểm hiện tại sẽ có thiện cảm bởi nụ cười có duyên, thân thiện. Ấy là Nguyễn Quang Thuyên của hôm nay, hay chí ít cũng là cảm nhận của tôi, rằng nhiều năm trước, gặp anh sẽ ngỡ anh khó tính, có sự bụi bặm phong trần của nghề nghiệp, có vẻ lạnh lùng và cảm giác khó gần. Anh là “dân ngoại đạo” nhưng đã 10 tập thơ được xuất bản. Tập thơ “Đưa em về quê nội”, NXB Hội Nhà văn 2024 của anh vừa đạt giải A của Hội Liên hiệp văn học nghệ thuật Phú Thọ (Giải thưởng hàng năm, năm 2024).
Xem thêm
Khoảng trống trong thơ đương đại
Sang giai đoạn thơ hiện đại, đặc biệt từ thời kỳ Đổi Mới (1986) đến nay, dưới ảnh hưởng của thơ tự do, thơ thị giác, thơ hậu hiện đại,… khoảng trống được vận dụng đa dạng hơn: là dấu hiệu cấu trúc, chiến lược gợi mở ý nghĩa, cũng là phương tiện giải cấu trúc câu chữ. Việc nhận diện, phân loại và giải thích cơ chế thẩm mỹ của khoảng trống vì vậy cần được đặt trong dòng chảy lịch sử rộng hơn – từ các quy phạm cổ điển đến những cách tân hiện đại – nhằm làm rõ lý do và cơ chế khiến “sự im lặng” trở thành tiếng nói quan trọng trong thơ.
Xem thêm
Triệu Kim Loan – nỗi mình bộc bạch cùng trăng
Một bài viết chân thành, giàu rung cảm của Ngô Minh Oanh về tập thơ Chữ gọi mùa trăng của Triệu Kim Loan.
Xem thêm
Phan Nhật Tiến - Thời cầm bút nói về thời cầm súng
Bài viết của Trần Hóa về tập thơ mới của Phan Nhật Tiến
Xem thêm
Nắng xanh pha hương giọt mật đầy
Văn Chương TP.HCM xin giới thiệu bài của Tuấn Trần.
Xem thêm
Cảm nhận tác phẩm “Mật ngữ đen trắng”
Bài viết của nhà thơ Huỳnh Tấn Bảo từ Bà Rịa - Vũng Tàu
Xem thêm
Nặng tình qua những miền quê
Bài viết tạo được chân dung “lữ khách thi ca” Vũ Trọng Thái
Xem thêm
Thế giới nữ tính đằm thắm và điệu nhạc tình yêu trong thơ Võ Thị Như Mai
“Nhớ anh nhiều bao nhiêu / Như thế nào là nhiều…” – những câu thơ giản dị mà đằm thắm ấy chính là nhịp điệu riêng của Võ Thị Như Mai.
Xem thêm
Bùi Minh Vũ - Buông neo hồn thơ vào biển đảo
Sau 2 tập thơ Lão ngư Kỳ Tân (2014), Biển và quê hương (2020) Bùi Minh Vũ cho ra mắt tập thơ Buông neo của (NXB Hội Nhà văn, 2024) gồm 113 bài thơ viết về đề tài biển đảo. Cảm hứng chung của tập thơ là tình cảm mến yêu, cảm phục, trăn trở và gắn bó tâm hồn với với biển đảo, với Trường Sa, Hoàng Sa, với những người lính đảo và người dân bám biển. Những tập thơ trước, Bùi Minh Vũ viết từ cảm xúc của một công dân yêu nước hướng về biển đảo với sự ngưỡng vọng. Ở tập thơ này, sau những chuyến vượt sóng ra Trường Sa, thăm đảo chìm đảo nổi, nhà thơ đã “Buông neo” hồn thơ vào biển đảo của Tổ quốc. Bài đầu của tập thơ đã thể hiện điều đó: Sóng ngọt như hoa trái lững lờ thè chiếc lưỡi/Bình minh trườn qua con chữ/Bài thơ quyết liệt buông neo/Như cột mốc đứng thẳng (Buông neo).
Xem thêm