TIN TỨC

Mai Quỳnh Nam và một phía

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2025-03-22 21:35:45
mail facebook google pos stwis
866 lượt xem

ĐẶNG HUY GIANG

Kiệm lời và cô đặc. Dồn nén và chất chứa. Giản dị và sâu xa. Một mình một lối. Một mình một kiểu. Không giống ai và ai muốn giống, cũng khó! Không dễ đọc và cũng không dễ thấm... Nhưng một khi đã đọc thì phải nghiền ngẫm. Đó là cảm nhận của tôi sau khi đọc thơ Mai Quỳnh Nam thường xuyên, có hệ thống, từ nhiều năm nay.

Ấy là lối thơ định đề. Ý tứ được định vị ngay tức khắc và ý tưởng cũng được định vị ngay tức khắc. Tựa như một một vận động viên chạy tốc độ ở cự ly cực ngắn, động tác xuất phát là cực kỳ quan trọng và cứ thế mà lao về đích như một mũi tên. Tính đến thời điểm này, thơ viết độc đáo kiểu Mai Quỳnh Nam trong làng thơ Việt Nam, theo tôi, vẫn là duy nhất.

Trên thế giới, thơ định đề của những tác giả nước ngoài được dịch và ấn hành ở ta, cũng không nhiều. Vương Hàn (Trung Hoa) có “Xưa nay chinh chiến mấy ai về “ trong “Lương Châu từ kỳ 1”. Tagore (Ấn Độ) có “Chúa cũng tự tìm mình qua sáng tạo” qua một bài thơ không có đầu đề chỉ có một câu. B. Brecht (Đức)có “Làm người ác vất vả vô cùng” trong “Mặt nạ kẻ ác”. Bonnefoy (Pháp) có “Bất toàn là đỉnh cao” trong “Không đề”. K. Lubomirski (Áo) thì nhiều hơn: “Bên em, anh chết dễ dàng hơn”, “Tại sao ánh ánh sáng đi qua chúng ta lại chỉ còn bóng tối?”, “Đừng trổ nhiều cửa sổ lên một bức tường/ Nhiều ánh ánh sáng bức tường sẽ đổ” trong nhiều bài thơ ngắn.

Nói cho cùng, mỗi bài thơ chỉ cần có một hoặc hai câu như trên, đâu cần gì nhiều, là đã đủ có sức nặng thuyết phục độc giả. Nói một cách khác: Nhiều khi, chỉ cần một, hai câu trên thôi, đã đủ làm thành một tứ thơ.

Có nhiều ý kiến khác nhau về thơ Mai Quỳnh Nam. Có người nói: Thơ ông là thơ hình học, là nghệ thuật ý niệm. Có người nói: Thơ ông là thơ tối giản. Có người nói: Thơ ông giống như châm ngôn. Có người nói: Thơ ông như những bàn thắng đẹp trong một trận đấu bóng đá hấp dẫn. Tất cả đều không sai, tất cả đều rất đúng với thơ Mai Quỳnh Nam và con người thơ trong ông. Riêng tôi, tôi nghĩ thơ Mai Quỳnh Nam luôn rơi theo chiều thẳng đứng, mà điểm rơi thường tập trung vào một điểm rất nhỏ (tạm gọi là “tiết diện”). Nhờ thế mà lực và sức công phá rất mạnh. Hiện tượng này giống như con người ta dùng mũi dao để chém rất mạnh, một cách bột phát và tức thì vào một mặt phẳng vậy! Ở một cách nhìn khác, Thơ Mai Quỳnh Nam, giống một khối TNT gần như không có dây cháy chậm hoặc nếu có thì dây cháy chậm dẫn đến điểm nổ cực ngắn.


Nhà thơ Đặng Huy Giang (phải) và nhà thơ Mai Quỳnh Nam.

Phần đầu trong “Một phía” (NXB Hội Nhà văn quý 3 năm 2024), tình yêu, đặc biệt là tình yêu đôi lứa và thuộc tính của tình yêu vừa trong nó, vừa ngoài nó, được Mai Quỳnh Nam soi chiếu rất kỹ qua một cách nghĩ, cách nhìn thật riêng.

Vì có sự bất toàn trong lời hứa

anh không hứa nữa

 

Sự thất hứa của anh đã cứu sống em

sự thất hứa của em đã giết chết anh

Nếu ở hai câu đầu, Mai Quỳnh Nam muốn bảo toàn lời hứa đến mức tuyệt đối, thì ở hai câu sau, sự thất hứa, đôi khi để lại hậu quả khác nhau. Nghĩa của hai từ “thất hứa” không còn mang nghĩa thuần túy nữa, nó nương theo cảnh huống để chữ sinh nghĩa.

Thơ khác các loại hình văn chương khác là thế! Các loại hình văn chương khác có thể đạt đến độ nghiền ngẫm, nhưng thơ lại có thể đạt đến mức nghiền nát.

Cái mùi hương, cái mùi hương quái quỷ

ủ bên lòng ma mị u mê

 

Những vì sao rủ nhau đi ngủ

giờ là lúc đôi ta thành vũ trụ

 

Hóa lỏng

trong khuôn hình

 

Giống như em

trong anh

Nếu hai câu đầu nói về sự hấp dẫn, mê hoặc của tình yêu thì những câu sau, lại tuyệt đối hóa tình yêu, lại nói đến cái khoảng cách bằng không, sự là một của đôi lứa. Ý tại ngôn ngoại của bốn câu thơ này là rất rõ và đó là cách nói thật hay của thơ, lại rất mới mẻ. Riêng “hóa lỏng” là một chi tiết đắt.

Sau “Cái mùi hương, cái mùi hương quái quỷ/ ủ bên lòng ma mị u mê”, những  câu “Anh không chơi đuổi hình, bắt bóng/ sao cái bóng của em/ quấn vào anh/ như sợi dây thòng lọng”, “Chết không rời nhau/ chết trong cực khoái/ xác khô kể lại:/ một con côn trùng đực, một con côn trùng cái...” xem ra còn quyết liệt và mang ý nghĩa có phần định mệnh hơn.

Mặt sau của tình yêu, cũng được Mai Quỳnh Nam khai thác triệt để, đẩy lên thành đỉnh điểm trong một cách nói khác biệt: “Chàng không phải là động vật nhai lại/ nàng thích thực đơn mới/ thế là họ thơ thới/ cuộc order tối nay”, “Không phải tình ái/ cô ấy là thặng dư được phân chia lại”, “Trả góp/ anh xin ứng trước/ anh mãi là người mắc nợ/ thỉnh thoảng em nhắc thầm/ anh biết/ đó là tình cảnh đôi ta/ từ dằng dặc sống đến dằng dặc chết”, “Chấp nhận kiểu hành vi không thuộc về nhau/ im lặng trong không gian ở/ im lặng nối dài dây cháy chậm/ với khối mình căng thẳng từ lâu.../ Không thể, nấp vào đâu”...

Tôi dám chắc, số người có thơ về tình yêu, viết về tình yêu đạt đến mức thấu đáo và góc cạnh như Mai Quỳnh Nam, không nhiều.

Đến “Một phía”, Mai Quỳnh Nam tự làm đầy mình lên bằng những bài thơ giàu cảm xúc, góp phần để giọng điệu thơ ông trở nên mềm mại hơn, uyển chuyển hơn. “Mây lụa thắm giăng giăng ngày em đến/ trăng chưa lên chiều có muộn chi nhiều/ mùi hương lạ phả vàng hoa trắng tím/ mùa ấm dần từ phía nắng anh yêu”; “Bao nhiêu nước dưới chân cầu vẫn chảy/ bao nhiêu mây quấn quít rủ nhau về/ bao nhiêu nắng bàng hoàng ngây dại/ bao nhiêu đêm khắc khoải mảnh trăng thề”; “Cây lẻ hình em bóng sớm phai/ em đi buông xuống vệt sương dài/ long lanh mảnh nắng vờn bên áo/ phảng phất mùi hương thơm gió phai” - đó là ba ví dụ cụ thể.

Những bài thơ làm động tâm độc giả trong “Một phía” vốn là cái mạnh, cái cố hữu của Mai Quỳnh Nam, cũng rất sẵn. Có thể thực chứng: “Khoảng cách giữa hai bó cỏ/ to như trí lự con bò”; “Ngoại trừ cái chết/ Tất cả đều không rõ rệt”; “Tôi mất quá khứ, tôi còn tương lai/ cơ hội xòe ta mở cuộc chia bài”; “Mọi khái quát chỉ là cốc nước vơi/ sự thiếu hụt kia thuộc về bản thể đời”; “Có những chuyện long trời lở đất/ diễn ra trong chớp mắt/ bằng một cái tặc lưỡi”; “Hy vọng người này/ người này sập bẫy.../ hy vọng người kí/ người kia sập bẫy.../ đầy rẫy cạm bẫy/ ai ai cũng thấy.../ ai ai cũng chen chân vào đấy”...

Và tôi không khỏi giật mình khi đọc:

Tiếng dội trên xuống

tiếng vọng dưới lên

khoảng giữa tối đen

 

      không gì hết

     và:

Giờ là lúc hạ màn

không trống, không kèn

ôi! cái thời rùm beng

leng keng kèn trống

tiền hô, hậu ủng

lủng xủng loảng xoảng

Thơ Mai Quỳnh Nam luôn có chủ ý. Nẻo về của ý trong thơ ông dày đặc.Lượng thông điệp trong thơ ông tương đối đa dạng, đa chiều.  Đó vừa là nét tiêu biểu, vừa là bản sắc thơ Mai Quỳnh Nam. Ông luôn có đức tin không gì lay chuyển nổi từ mẹ: “Suốt cuộc đời con nghe tiếng gọi: / mẹ đây mà, con ơi, ở đâu?” và nhận ra cái cốt lõi của thơ mình mà ông còn mãi theo đuổi đến tận cùng: “Vệt chớp/ luồng ánh sáng/ đường thơ tối giản”.

Phố Khuất Duy Tiến, đêm 22 tháng 11 năm 2024

Bài viết liên quan

Xem thêm
Những chấn thương nội tâm trong “Mã độc báo thù”
“Mã độc báo thù” là tiểu thuyết mới nhất của nhà văn Nguyễn Văn Học, vừa được NXB Công an nhân dân phát hành. Đây là một trong vài tiểu thuyết đầu tiên viết về đề tài tội phạm công nghệ cao ở Việt Nam. Tuy nhiên, nhà văn không chỉ nói về tội phạm, mà còn xoáy sâu về những tổn thương của con người trong thời đại số.
Xem thêm
Huệ Triệu, một nhà giáo, nhà thơ
Cả hai tư cách, nhà giáo và thi nhân, Huệ Triệu là một gương mặt sáng giá.
Xem thêm
Chúng ta có thực sự tự do trong chính tác phẩm của mình?
Văn học, cũng như các lĩnh vực khác, theo tôi đều có những dòng chảy nối tiếp âm thầm, tạo nên nhiều sự giao thoa, đan cài giữa cũ và mới, quen thuộc và khác lạ
Xem thêm
Biểu tượng nước trong thơ Vũ Mai Phong
“Nước” trong văn hóa phương Đông là thủy – khởi nguyên của sự sống, mang phẩm chất mềm mại – bền bỉ – linh hoạt biến hóa của triết lý nhu thắng cương. Trong thi ca Việt Nam, “nước” gắn với dòng chảy thời gian tâm thức dân tộc, văn hóa lịch sử và tâm linh
Xem thêm
“Hư Thực” của Phùng Văn Khai: Tiếng nói Hậu Hiện Đại và Dấu Ấn Văn Chương Đương Đại Việt Nam
Văn học luôn là tấm gương phản chiếu xã hội, là nơi ghi lại những biến chuyển của thời đại và tâm hồn con người. Trong lịch sử văn học Việt Nam, mỗi thời kỳ đều có những tác phẩm tiêu biểu, vừa mang dấu ấn thời đại, vừa để lại những giá trị trường tồn cho đời sau. Tuy nhiên, khi thế giới bước vào kỷ nguyên toàn cầu hóa và đa dạng văn hóa, các giá trị truyền thống gặp nhiều thử thách. Đặc biệt, với sự bùng nổ thông tin và biến động xã hội, con người ngày nay không còn sống trong một thế giới đơn giản, rạch ròi mà là một thế giới đa chiều, hỗn loạn và khó đoán định.
Xem thêm
Thế giới kỳ vĩ của thơ
Thế giới của thơ, với thi sỹ là bến đậu của tâm hồn, là cánh đồng gieo trồng cảm xúc và chữ nghĩa, là bầu trời để cất cánh ước mơ và thả hồn phiêu lãng; với đọc giả là nhịp cầu kết nối con tim, là dòng sông soi rọi, tắm táp tâm hồn để được nâng đỡ và bay cao.
Xem thêm
Văn học dịch và những tác động đến đời sống văn học Việt Nam những năm đầu thế kỉ XXI
Nói đến văn học dịch những thập niên đầu thế kỉ 21, có lẽ, trước hết, phải nhắc tới việc rất nhiều tác phẩm thuộc hàng “tinh hoa”, “kinh điển”, hay các tác phẩm đạt được các giải thưởng văn chương danh giá (Nobel, Pulitzer, Man Booker...) đã được chú trọng chuyển ngữ trong giai đoạn này.
Xem thêm
Vài nhận thức về trường ca “Lò mổ” của Nguyễn Quang Thiều
Tôi hỏi nhiều nhà thơ và văn, rằng họ thấy trường ca “Lò mổ” của Nguyễn Quang Thiều như thế nào và đặng họ có thể khai sáng chút gì cho tôi nhưng không ai có câu trả lời khiến tôi thỏa mãn, đa phần đều nói “Ái chà, Lò mổ của Nguyễn Quang Thiều hả, bọn tớ cũng chỉ nghe dư luận ồn ào trên mạng thôi chứ có sách đọc đâu!”.
Xem thêm
Nguyễn Duy – Vịn thi ca vượt thác thời gian...
Bài đăng Văn nghệ Công an số ra ngày 13/11/2025
Xem thêm
Thơ có nghĩa là “thương” - Tiếng thơ Đặng Nguyệt Anh
Một bài viết thấm đẫm nhân tình của Tuấn Trần – người trẻ viết về Đặng Nguyệt Anh, “ngoại” của thơ và của lòng nhân hậu. Từ câu chữ đến cảm xúc, bài viết là một lời tri ân chân thành dành cho thế hệ cầm bút đã “đem trái tim yêu thương gánh ghì số phận chung”, để hôm nay, thơ của họ vẫn còn làm dịu đi những cơn bão đời người.
Xem thêm
Chất liệu dân gian trong ca khúc Việt Nam hiện đại
Bài viết này xin phép được tiếp tục trình bày một xu hướng vận động chủ đạo của âm nhạc dân gian truyền thống Việt Nam sau 1975: dân tộc hóa ca khúc Việt Nam.
Xem thêm
Đọc thơ Thiên Di
Dường như là một giấc mơ chậm rãi, dịu dàng, vẫn đọng lại dư âm của cô đơn, khao khát và hy vọng. Tác giả sử dụng nhịp điệu từ những chi tiết nhỏ – mưa rả rích, ánh mắt, cánh hoa – để cảm xúc lan tỏa, khiến độc giả không cần lạm dụng từ ngữ hoa mỹ vẫn cảm nhận được sự mềm mại, tinh tế và ám ảnh.
Xem thêm
Nguyễn Khuyến “thâm nho” giữa đời thường
Nguyễn Khuyến (Nguyễn Thắng, 1835-1909) hiệu Quế Sơn, tự Miễn Chi. Người đời gọi ông là Tam Nguyên Yên Đổ, do lấy địa danh là xã (làng) Yên Đổ (huyện Bình Lục, Hà Nam trước đây) ghép với việc ông thi đỗ đầu (giải nguyên) cả ba kỳ thi hương, hội và đình. Nhưng việc này thì chính Nguyễn Khuyến cũng chẳng tự hào cho lắm, ông viết: “Học chẳng có rằng hay chi cả/ Cưỡi đầu người kể đã ba phen”.
Xem thêm
Triệu Kim Loan - Khúc độc thoại xanh của hồng gai
Bài viết sâu sắc dưới đây của nhà văn Kao Sơn dành cho buổi ra mắt sách Chữ gọi mùa trăng - Tập thơ thứ 7 đánh dấu chặng đường chín muồi của nhà thơ Triệu Kim Loan
Xem thêm
Quan niệm của Xuân Diệu về thơ từ những câu chuyện đời thường
Sinh thời, theo thống kê của Mã Giáng Lân, thi sĩ Xuân Diệu đã có hơn 500 buổi bình thơ trước công chúng. Đây là hoạt động nghệ thuật mà hiếm có nhà thơ, nhà văn nào ở Việt Nam và cả trên thế giới có thể sánh được. Không chỉ trong nước, chính “ông Hoàng thơ tình” Xuân Diệu đã có công quảng bá thi ca Việt Nam ra thế giới, giúp độc giả nước ngoài biết đến Nguyễn Du, Nguyễn Trãi, Tú Xương, Hồ Xuân Hương…
Xem thêm
Hành trình nước - Bước chuyển mình của kẻ sĩ chu du
Với Hành trình nước, Vũ Mai Phong cho phép người đọc thám hiểm một cõi tâm hồn mình, để chiêm nghiệm, để cảm nhận sự chuyển hóa kỳ diệu của nước - từ giọt sương nhỏ bé hóa thành đại dương bao la, từ tâm hồn cá nhân hòa vào tính thiêng của Tổ quốc.
Xem thêm
Gió Phương Nam 4 - Những lời thơ chân thực
Trang thơ “Gió Phương Nam 4” dễ dàng gợi lại những bước chân đồng đội năm xưa – bước chân thời chiến, bước chân thời bình, mang theo niềm vui, nỗi nhớ và cả những nỗi buồn sâu lắng.
Xem thêm
“Bến nước kinh Cùng” - Bến đợi của ký ức và tình người…
“Giữa bao vội vã, còn mấy ai lắng lòng với những phận người quê mộc mạc?” - Chính từ trăn trở ấy, “Bến nước kinh Cùng” của nhà văn Nguyễn Lập Em được tìm đến như một lời nhắc nhở tha thiết, đưa ta trở về với đất và người Nam Bộ, nơi tình quê và tình người thấm đẫm trong từng trang viết.
Xem thêm
Người thơ xứ Quảng: “Ảo hương lãng đãng bên trời cũ”
Nhà thơ Xuân Trường - tên thật Nguyễn Trường - là một tâm hồn phiêu bạt. Ông sinh ngày 12/12/1949 (theo giấy khai sinh) nhưng thực tế là năm 1945 (tuổi Ất Dậu), tại xã Đại Phong, huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam.
Xem thêm