- Lý luận - Phê bình
- Vũ điệu tái sinh trong từng cơn đau
Vũ điệu tái sinh trong từng cơn đau
(Đọc “Nghiêng về phía nỗi đau” tập thơ của Trịnh Bích Ngân, NXB Hội Nhà văn, quý II, 2024)
Đúng là có nghiêng/ nghiêng hẳn về phía nỗi đau. Thơ mang trong mình “tâm thức”/ phẩm tính của “vết thương”. Và nỗi đau/ vết thương lớn nhất, chỉ vài nét chấm phá thôi, nhưng đã cho thấy cái gai góc quyết liệt trong tiếng thơ mang nỗi “bất cam”, gánh ghì số phận riêng - chung kiếp người: “Sự thật có lúc là quái vật/khi nó ẩn mình dưới lớp ngụy tạo…Sự thật/ lương tâm cắn xé tả tơi/ ác thú khi đã no nê/ con rắn mái gầm phùng mang/ phun vào ánh ngày chất độc” (Sự thật có lúc là ác thú - trang 77).
Trong thơ luôn “trĩu nặng” sự “mất còn”. Đó là “bi cảm” nhưng không dừng lại ở cái bi cảm lòng riêng của một cá nhân mà là nỗi “bi cảm văn hóa” (văn học, nghệ thuật). Nỗi bi cảm được lưu cất từ một con người đã sống, lục lọi, tìm kiếm mình trong các vỉa tầng đời sống, từng vỉa quặng văn nhân, kịch nghệ để rồi hóa “rêu phong” (cỏ) trườn trên những bờ tường xám ngắt của một miếu đường hay mao ốc cổ, “ẩn nhẫn/ trần gian” “những miền cỏ dại”…
“Nghiêng về phía nỗi đau” trân trọng phẩm giá, neo giữ “cái đẹp” “bằng sinh mệnh trái tim” chứ không phải là sự nhìn nhận bế tắc về cái nghịch thường, bất an đời sống. Nhờ vậy trải ra bao bi kịch thế thái nhân tình vẫn sinh động, sóng sánh nhịp đập/ nỗi băn khoăn về tình yêu, tình đời…Như “vệt khói/ quấn quýt/ thầm thì thầm thì…” choàng ôm lấy mặt đất hiện thực. Trong “nắm níu những úa vàng” vẫn thấy “chồi non đang nhún nhẩy”. Trịnh Bích Ngân đã trong cuộc với nỗi đau, cho phép nỗi đau tràn vào mình một cách sâu sắc nhất để bám chạm được niềm đau thiêng liêng nơi dương gian, từ đó tổng hợp chân xác về bi kịch con người. Tiếng thơ như “Họa sĩ/ máu tim mình/ lặng lẽ/ chảy/ vào tranh”.
“Nghiêng về phía nỗi đau” thể hiện khá rõ cho quá trình sáng tạo thẩm mỹ và thể hiện phong cách nghệ thuật khác biệt của chính chủ thể tạo ra nó. Ngôn từ như “những giai điệu thiết tha bờ sóng” đã nung chảy thế giới vật chất tưởng như ngàn năm bất biến. Thổi vào không khí thơ đương đại những chứa chan dạt dào về tình yêu thấm đượm phủ tràn bờ vách duy lý. Và nỗi đau đã được bóc tách cho rành rẽ, khi “vùi sâu trong thương nhớ vô cùng”. Khi vơi hao, xuôi dịu, “khi tỉnh dậy không còn ràng rịt những cơn đau”.
Thơ bật âm điểm xuyết đôi ba dư vị buồn lặng, xót xa với vết thương vô hình buốt nhói. Thơ trăn trở khôn nguôi về dòng mạch sự sống, mỗi bước chân kiếm tìm hạnh phúc dường như đều vấp vướng chông gai, và cái linh cảm “có thể ngày tận thế lơ lửng đâu đó trên đầu”. Từ cảm thức về thân phận nhỏ bé của con người và cái khao khát khôn nguôi“…mặt đất khô cằn đang khát mưa nguồn”, thơ nâng“giấc thiên thai nơi trần gian nhọc nhằn”, có lúc cất vang “khúc hát của thiên thần gãy lìa đôi cánh”…Sau tất cả để bắt đầu “thấm dần/ trong một ban mai”…; “cho buốt giá vẫn nồng nàn hơi ấm”.
“Nghiêng về phía nỗi đau” còn là nghiêng về sáng tạo ngôn từ, để những âm vần nối kết vết cắt cứa rằng rịt vào bầu trời và đại dương cho sự tái tạo mới. Với tiếng Việt, tác giả đã thực hiện một hành trình bền bỉ cống hiến, dâng tặng“nhặt bình minh ngày cũ/ ủ trái tim sóng đôi/ dẫu âm dương cách trở/ dẫu biển xanh bạc đầu”. Sự bay bỗng diễn ngôn kết hợp với cách hóa hình thức văn bản trở thành điểm sáng cho thơ khi đặt nó đối mặt với đời sống đương đại. Khiến cho cảm hứng/ giác thấy sự sống bừng thức về phía mặt trời và say mê thế giới tự nhiên - cái vốn đã quen cũ trong thơ, là cảm thức của hồn thơ lãng mạn như đã quen nhàm nhàm, nay trở thành một lối thẩm mỹ có tính can dự, mang tinh thần thời đại
Những nỗi đau chưa tuyệt vọng bao giờ…Mỏng mảnh mà kiên cường, “gắng gỏi yêu thương”. Và hơn thế, đó là những “câu thơ sơn hà/ ngấm vào từng tế bào thịt da Tổ quốc”. Thơ hiến mình cho những rạn vỡ, những xoay trở bất tận, nhưng những vết thương đó không hề vô tội/ dụng, ngược lại nó tồn tại để hi sinh và cảm hóa… Hi sinh cho những trò chuyện tỉnh thức tâm tư với “từng chiếc lá cọng rơm/ bện thành tổ ấm”, với bóng đêm “nơi trần gian còn lầm lụi”. Để soi gương thấy mặt đời, soi tâm thấy cội nguồn. Thơ“được viết bằng trái tim ứa máu/ và linh hồn của những con người đã hóa đất đai”.
Đi sâu vào cái đằng đẵng, đằm sâu của nơi chốn“khắc khoải niềm riêng câm lặng”. Nơi những đắng cay thân phận cứ vỗ đập khôn nguôi trên bàn tay rưng rưng, khóe môi vô hồi vọng tưởng. Để “lịm đi trong nụ hôn tướm máu/ và hồi sinh trong bóng tối nhiệm màu”. Nhưng như “một chiến binh/ mang trong mình thương tích / vẫn không rời gươm giáo”. Hình hài thẩm mỹ của tác phẩm đẹp như một bức tượng Hi Lạp…
Có một sự thanh vắng, du dương, trong cơn “trùng trùng bão cuốn”. Thơ đã chuyển dịch vị trí, đôi lúc hụt hẫng đơn độc, giòn khô, vỡ vụn từ từ xé ra khỏi đêm trường buồn bã mà trở nên trìu mến, dịu dàng, nâng thức. Như một dòng chảy tự nhiên trở về với vũ trụ, như “vết sẹo long lanh” chảy dọc cơ thể “tợ giải ngân hà”. Một sự nguyện hiến vô tư cho nghệ thuật: lắm thương tổn, nhiều ngậm ngùi nhưng cảm xúc được thấp ướt mượt mà. Trái tim nhỏ bé phơi gở ra giữa bao la ‘miền suối mát trong ngần” và nhịp đập của nó như mãi thao thức.
Nhà thơ “đánh thức hi vọng” từ niềm riêng và từ nỗi thương cảm tận cùng của thời đại. Âm thanh cảm xúc luôn tạo ra sợi chỉ bền chặt thắt bện, gia cố sự bập bùng của ngọn lửa tình yêu với đất và người. Cho sự được yêu thương và ôm ghì nhau, choàng hôn kí ức, nuôi dưỡng những mầm sống kì diệu nơi bóng tối sáng lòa:“Không khoảng cách nào có thể rẽ chia/ những trái tim có trong nhau/ những linh hồn hòa vào máu của đất/ những khát vọng tự do được hoài thai/ cả trong chiếc mầm bé nhỏ/ dưới bóng ô lưu đơn độc trong chiều”. Ở một nơi nào đó tận cùng vết thương, có sự chờ đợi các nhân duyên hàn gắn. Thật nhiều nỗi vô vọng, nhưng không chịu khuất nhục vì “những con chữ/ linh hồn/ bất tử”.
Thời/ không nghệ thuật từ trong “đau thương vô tận” hiện lên qua thi pháp độc đáo, phép nhìn hiện thực được đặc tả, cận cảnh rồi toàn cảnh và đi sâu vào những suy nghiệm vũ trụ, nhân sinh, tình người, bong nứt“khoảng trống dậy mùi hương” nơi cấu hình thẩm mỹ. Bích Ngân đã mở ra mênh mông ẩn dụ. Những bâng khâng được tạo tác từ cách đảo xới cảm xúc về thời gian nhân sinh và thời gian siêu hình cũng như dòng chảy biến ảo của sự sống để đến được với nhiều chiều kích ngã rẻ trong đời thường:“lặng thầm ôm ấp bóng đêm/ vẫn dịu dàng trước bình minh gõ cửa”.
Về cách bày trí hình thức văn bản tập thơ “Nghiêng về phía nỗi đau” phải nói là độc, lạ. Những hình ảnh mà tác giả đã bắt lấy trên hành trình/ những nẻo đường tìm kiếm hạnh phúc và sáng tạo nghệ thuật của mình. Những bức hình minh họa tự cất lời, đồng thanh cùng với thơ: Bình minh, hoàng hôn, hoa ven đường, những miếu đường quạnh quẽ, nhà thờ, ngõ lối, căn phòng, ô cửa, ngạnh phiến tàn, hay những bè hoa tiễn người khuất bóng…Đã thể hiện sự tế vi nơi tư duy mỹ cảm của chủ thể trữ tình. “Cái đẹp” bật nẩy từ cái hài hòa quấn quyện.
Ngày 27/2/2025
TT
* Chữ in nghiêng: Trích thơ trong tập thơ Nghiêng về phía nỗi đau