TIN TỨC

Vũ điệu tái sinh trong từng cơn đau

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2025-02-28 08:47:51
mail facebook google pos stwis
1328 lượt xem

TRẦN TUẤN

(Đọc “Nghiêng về phía nỗi đau” tập thơ của Trịnh Bích Ngân, NXB Hội Nhà văn, quý II, 2024)

Đúng là có nghiêng/ nghiêng hẳn về phía nỗi đau. Thơ mang trong mình “tâm thức”/ phẩm tính của “vết thương”. Và nỗi đau/ vết thương lớn nhất, chỉ vài nét chấm phá thôi, nhưng đã cho thấy cái gai góc quyết liệt trong tiếng thơ mang nỗi “bất cam”, gánh ghì số phận riêng - chung kiếp người: “Sự thật có lúc là quái vật/khi nó ẩn mình dưới lớp ngụy tạoSự thật/ lương tâm cắn xé tả tơi/ ác thú khi đã no nê/ con rắn mái gầm phùng mang/ phun vào ánh ngày chất độc” (Sự thật có lúc là ác thú - trang 77).

Trong thơ luôn “trĩu nặng” sự “mất còn”. Đó là “bi cảm” nhưng không dừng lại ở cái bi cảm lòng riêng của một cá nhân mà là nỗi “bi cảm văn hóa” (văn học, nghệ thuật). Nỗi bi cảm được lưu cất từ một con người đã sống, lục lọi, tìm kiếm mình trong các vỉa tầng đời sống, từng vỉa quặng văn nhân, kịch nghệ để rồi hóa “rêu phong” (cỏ) trườn trên những bờ tường xám ngắt của một miếu đường hay mao ốc cổ, “ẩn nhẫn/ trần gian“những miền cỏ dại”…

“Nghiêng về phía nỗi đau” trân trọng phẩm giá, neo giữ “cái đẹp” “bằng sinh mệnh trái tim” chứ không phải là sự nhìn nhận bế tắc về cái nghịch thường, bất an đời sống. Nhờ vậy trải ra bao bi kịch thế thái nhân tình vẫn sinh động, sóng sánh nhịp đập/ nỗi băn khoăn về tình yêu, tình đời…Như “vệt khói/ quấn quýt/ thầm thì thầm thì…” choàng ôm lấy mặt đất hiện thực. Trong “nắm níu những úa vàng” vẫn thấy “chồi non đang nhún nhẩy”. Trịnh Bích Ngân đã trong cuộc với nỗi đau, cho phép nỗi đau tràn vào mình một cách sâu sắc nhất để bám chạm được niềm đau thiêng liêng nơi dương gian, từ đó tổng hợp chân xác về bi kịch con người. Tiếng thơ như “Họa sĩ/ máu tim mình/ lặng lẽ/ chảy/ vào tranh”.

“Nghiêng về phía nỗi đau” thể hiện khá rõ cho quá trình sáng tạo thẩm mỹ và thể hiện phong cách nghệ thuật khác biệt của chính chủ thể tạo ra nó. Ngôn từ như “những giai điệu thiết tha bờ sóng” đã nung chảy thế giới vật chất tưởng như ngàn năm bất biến. Thổi vào không khí thơ đương đại những chứa chan dạt dào về tình yêu thấm đượm phủ tràn bờ vách duy lý. Và nỗi đau đã được bóc tách cho rành rẽ, khi “vùi sâu trong thương nhớ vô cùng”. Khi vơi hao, xuôi dịu, “khi tỉnh dậy không còn ràng rịt những cơn đau”.

Thơ bật âm điểm xuyết đôi ba dư vị buồn lặng, xót xa với vết thương vô hình buốt nhói. Thơ trăn trở khôn nguôi về dòng mạch sự sống, mỗi bước chân kiếm tìm hạnh phúc dường như đều vấp vướng chông gai, và cái linh cảm “có thể ngày tận thế lơ lửng đâu đó trên đầu”. Từ cảm thức về thân phận nhỏ bé của con người và cái khao khát khôn nguôi“…mặt đất khô cằn đang khát mưa nguồn”, thơ nâng“giấc thiên thai nơi trần gian nhọc nhằn”, có lúc cất vang “khúc hát của thiên thần gãy lìa đôi cánh”…Sau tất cả để bắt đầu “thấm dần/ trong một ban mai”…; “cho buốt giá vẫn nồng nàn hơi ấm”.

Nghiêng về phía nỗi đau” còn là nghiêng về sáng tạo ngôn từ, để những âm vần nối kết vết cắt cứa rằng rịt vào bầu trời và đại dương cho sự tái tạo mới.  Với tiếng Việt, tác giả đã thực hiện một hành trình bền bỉ cống hiến, dâng tặng“nhặt bình minh ngày cũ/ ủ trái tim sóng đôi/ dẫu âm dương cách trở/ dẫu biển xanh bạc đầu”. Sự bay bỗng diễn ngôn kết hợp với cách hóa hình thức văn bản trở thành điểm sáng cho thơ khi đặt nó đối mặt với đời sống đương đại. Khiến cho cảm hứng/ giác thấy sự sống bừng thức về phía mặt trời và say mê thế giới tự nhiên - cái vốn đã quen cũ trong thơ, là cảm thức của hồn thơ lãng mạn như đã quen nhàm nhàm, nay trở thành một lối thẩm mỹ có tính can dự, mang tinh thần thời đại

Những nỗi đau chưa tuyệt vọng bao giờ…Mỏng mảnh mà kiên cường, “gắng gỏi yêu thương”. Và hơn thế, đó là những “câu thơ sơn hà/ ngấm vào từng tế bào thịt da Tổ quốc”. Thơ hiến mình cho những rạn vỡ, những xoay trở bất tận, nhưng những vết thương đó không hề vô tội/ dụng, ngược lại nó tồn tại để hi sinh và cảm hóa… Hi sinh cho những trò chuyện tỉnh thức tâm tư với “từng chiếc lá cọng rơm/ bện thành tổ ấm”, với bóng đêm “nơi trần gian còn lầm lụi”. Để soi gương thấy mặt đời, soi tâm thấy cội nguồn. Thơ“được viết bằng trái tim ứa máu/ và linh hồn của những con người đã hóa đất đai”.

Đi sâu vào cái đằng đẵng, đằm sâu của nơi chốn“khắc khoải niềm riêng câm lặng”. Nơi những đắng cay thân phận cứ vỗ đập khôn nguôi trên bàn tay rưng rưng, khóe môi vô hồi vọng tưởng. Để “lịm đi trong nụ hôn tướm máu/ và hồi sinh trong bóng tối nhiệm màu”. Nhưng như “một chiến binh/ mang trong mình thương tích / vẫn không rời gươm giáo”. Hình hài thẩm mỹ của tác phẩm đẹp như một bức tượng Hi Lạp

Có một sự thanh vắng, du dương, trong cơn “trùng trùng bão cuốn”. Thơ đã chuyển dịch vị trí, đôi lúc hụt hẫng đơn độc, giòn khô, vỡ vụn từ từ xé ra khỏi đêm trường buồn bã mà trở nên trìu mến, dịu dàng, nâng thức. Như một dòng chảy tự nhiên trở về với vũ trụ, như “vết sẹo long lanh” chảy dọc cơ thể “tợ giải ngân hà”. Một sự nguyện hiến vô tư cho nghệ thuật: lắm thương tổn, nhiều ngậm ngùi nhưng cảm xúc được thấp ướt mượt mà. Trái tim nhỏ bé phơi gở ra giữa bao la ‘miền suối mát trong ngần” và nhịp đập của nó như mãi thao thức.

Nhà thơ “đánh thức hi vọng” từ niềm riêng và từ nỗi thương cảm tận cùng của thời đại. Âm thanh cảm xúc luôn tạo ra sợi chỉ bền chặt thắt bện, gia cố sự bập bùng của ngọn lửa tình yêu với đất và người. Cho sự được yêu thương và ôm ghì nhau, choàng hôn kí ức, nuôi dưỡng những mầm sống kì diệu nơi bóng tối sáng lòa:“Không khoảng cách nào có thể rẽ chia/ những trái tim có trong nhau/ những linh hồn hòa vào máu của đất/ những khát vọng tự do được hoài thai/ cả trong chiếc mầm bé nhỏ/ dưới bóng ô lưu đơn độc trong chiều”. Ở một nơi nào đó tận cùng vết thương, có sự chờ đợi các nhân duyên hàn gắn. Thật nhiều nỗi vô vọng, nhưng không chịu khuất nhục vì “những con chữ/ linh hồn/ bất tử”.

Thời/ không nghệ thuật từ trong “đau thương vô tận” hiện lên qua thi pháp độc đáo, phép nhìn hiện thực được đặc tả, cận cảnh rồi toàn cảnh và đi sâu vào những suy nghiệm vũ trụ, nhân sinh, tình người, bong nứt“khoảng trống dậy mùi hương” nơi cấu hình thẩm mỹ. Bích Ngân đã mở ra mênh mông ẩn dụ. Những bâng khâng được tạo tác từ cách đảo xới cảm xúc về thời gian nhân sinh và thời gian siêu hình cũng như dòng chảy biến ảo của sự sống để đến được với nhiều chiều kích ngã rẻ trong đời thường:“lặng thầm ôm ấp bóng đêm/ vẫn dịu dàng trước bình minh gõ cửa”.

Về cách bày trí hình thức văn bản tập thơ “Nghiêng về phía nỗi đau” phải nói là độc, lạ. Những hình ảnh mà tác giả đã bắt lấy trên hành trình/ những nẻo đường tìm kiếm hạnh phúc và sáng tạo nghệ thuật của mình. Những bức hình minh họa tự cất lời, đồng thanh cùng với thơ: Bình minh, hoàng hôn, hoa ven đường, những miếu đường quạnh quẽ, nhà thờ, ngõ lối, căn phòng, ô cửa, ngạnh phiến tàn, hay những bè hoa tiễn người khuất bóng…Đã thể hiện sự tế vi nơi tư duy mỹ cảm của chủ thể trữ tình. “Cái đẹp” bật nẩy từ cái hài hòa quấn quyện.

Ngày 27/2/2025

TT

* Chữ in nghiêng: Trích thơ trong tập thơ Nghiêng về phía nỗi đau

Bài viết liên quan

Xem thêm
Chân dung Nguyễn Bính qua giai thoại văn học
Để đánh giá chân tài nhà thơ phải dựa vào trước tác của họ. Tuy vậy, nhiều khi căn cứ vào các cảnh huống sinh hoạt thường ngày, dựa vào những câu chuyện hoạt động văn nghệ đời thường của văn nghệ sĩ, mà người ta hay gọi là giai thoại, cũng giúp ta hiểu thêm cuộc đời và sáng tác của họ hơn. Hầu hết tác giả văn học Việt Nam đều có những giai thoại đáng nhớ, trong đó không thể không kể đến “thi sĩ chân quê” Nguyễn Bính.
Xem thêm
“Khoảng trời xanh ký ức” – khúc lắng đọng, yêu thương
Sau buổi ra mắt ấm áp tập thơ “Khoảng trời xanh ký ức” (30/5/2025), bài viết của TS. Hoàng Thị Thu Thủy tiếp tục khắc họa nét đẹp dung dị và giàu cảm xúc trong thơ Nguyễn Thị Phương Nam – một “nhật ký tâm hồn” chạm đến trái tim người đọc.
Xem thêm
Một cách nghĩ khác về tình yêu
Nhà văn Đỗ Viết Nghiệm với tham luận “Một cách nghĩ khác về tình yêu” mang đến nhiều gợi mở sâu sắc về cách nhìn và sức sáng tạo của tác phẩm.
Xem thêm
Nhà văn Mai Văn Tạo – Viết từ tấm lòng sâu nặng để tri ân nguồn cội
Vùng đất miền Tây Nam Bộ đã luôn ghi khắc văn nghiệp của các nhà văn kỳ cựu, đưa tên tuổi họ trở thành những nguồn sáng rạng rỡ với những trang viết đậm hồn đất và tình người của xứ sở nơi đây. Có thể kể đến nhà văn, nhà nghiên cứu, học giả Nguyễn Chánh Sắt, Nguyễn Hiến Lê, Nguyễn Văn Hầu…; các nhà văn Sơn Nam, Anh Đức, Trang Thế Hy, Nguyễn Quang Sáng, Lê Văn Thảo, Nguyễn Lập Em, Phạm Trung Khâu, Lê Đình Trường, Ngô Khắc Tài…; các nhà thơ Thanh Hải, Phạm Hữu Quang, Đinh Thị Thu Vân, Trịnh Bửu Hoài, Thu Nguyệt, Phạm Nguyên Thạch, Ngọc Phượng, Song Hảo…
Xem thêm
Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam đương đại - một số xu hướng chủ yếu
Giữa lúc tiểu thuyết và phim Mưa đỏ của Chu Lai làm dấy lên nhiều tranh cãi về ranh giới giữa lịch sử và hư cấu, bài viết của PGS-TS Nguyễn Văn Dân đem lại một cái nhìn hệ thống về tiểu thuyết lịch sử Việt Nam đương đại.
Xem thêm
Khơi dậy sức sáng tạo văn học nghệ thuật trong lực lượng sáng tác trẻ ở miền núi - Thực tiễn và kỳ vọng
Cần phải làm gì, làm như thế nào để khơi dậy sức sáng tạo của những người sáng tác trẻ; để tạo môi trường nuôi dưỡng họ trở thành lực lượng sáng tác chuyên nghiệp?
Xem thêm
Thử giải mã ba nhà văn khó đọc ba miền
Ba miền đất nước, ba cá tính sáng tạo khác biệt – Nguyễn Bình Phương với “hiện thực lũy thừa”, Nhật Chiêu cùng “thể Sương” mơ huyền, và Ngô Phan Lưu qua “lối viết nông dân” thấm đẫm đời thường.
Xem thêm
Thoát khỏi thân phàm - Tiểu luận của Hồ Anh Thái
Bản năng tự vẫn nằm im cũng có khi bất ngờ trỗi dậy. Không phải là muốn chết. Chỉ là “một lúc” mà thôi. Được thoát ra khỏi thế giới này trong chốc lát, được thấy mình đã thoát hồn khỏi thân phàm, được thấy người ở lại người cười người khóc. Xong đâu đấy, ta trở lại, tái sinh, nhìn cuộc đời bằng cặp mắt mới. Cuộc đời dù có vắng ta cũng chẳng làm sao.
Xem thêm
Chạm thu - chạm ngưỡng cửa thu về
Chạm thu – tập thơ mới của bác sĩ, nhà thơ Mai Hữu Phước mang đến những chiêm nghiệm lắng sâu về đời người và tình thơ. Bài viết của Lê Bá Duy gợi mở một hành trình thi ca giàu cảm xúc, chân thành và đầy dư âm.
Xem thêm
“Tình đất biên cương” – Tập truyện giàu giá trị hiện thực và giá trị nhân văn
Những người từng quen biết và cùng công tác với anh luôn nhận thấy anh là một cán bộ gương mẫu, trách nhiệm, tác phong nhanh nhẹn, ngôn từ giao tiếp hoạt bát. Tuy nhiên, ít ai biết trong anh tiềm tàng một khả năng sáng tác văn chương như vậy. Khi hoàn thành nhiệm vụ công chức, được nhà nước cho nghỉ chế độ, cũng chính là lúc “anh hoa phát tiết”, các thể loại thơ, tản văn, truyện ký, tiểu thuyết,… được thể nghiệm và đáng nể nhất là hai tập sách dày dặn (Truyện ký Tình yêu người lính - NXB Thanh niên năm 2021, 364 trang và tiểu thuyết Hoa trong mắt bão - NXB Hội Nhà văn năm 2023, 570 trang) và hiện tại trên tay tôi là tập truyện ngắn Tình đất biên cương.
Xem thêm
Ẩn số đường đến thơ của Trần Hóa
Bài đăng Diễn đàn Văn nghệ Việt Nam, số tháng 9/2025
Xem thêm
Nhà lý luận phê bình Đỗ Nguyên Thương và tập thơ “Tìm về miền ký ức”
Tôi quen nhà giáo, nhà Lý luận Phê bình văn học Đỗ Nguyên Thương thật tình cờ trong buổi Tọa đàm về Thơ 1-2-3 do nhà thơ Phan Hoàng chủ trì có sự phối hợp của Hội nhà văn Cần Thơ và khoa Khoa học Xã hội và Nhân văn tường Đại học Cần Thơ.
Xem thêm
Tư tưởng nhân dân anh hùng
1. Vì tình yêu quê hương đất nước, Trần Bảo Định đến với văn chương. Nhà văn Long An để lại dấu ấn đáng kể trong sinh hoạt văn chương từ những năm 2010 đến nay. Bên cạnh bộ sách Đất và người Nam Bộ mến yêu gồm 14 tập truyện ngắn, Trần Bảo Định còn có 6 tập thơ, 5 tập tiểu luận phê bình. Năm 2024, nhà văn trình làng tuyển tập Đất Việt trời Nam liệt truyện gồm 3 tập (thượng, trung, hạ) do Nxb Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh ấn hành. Tái hiện diễn trình lịch sử vùng đất Nam Bộ từ hồi một 1620, hồi hai 1859, đến hồi ba 1900, tuyển tập có thể xem như trường thiên tiểu thuyết ca ngợi tinh thần đấu tranh yêu nước anh dũng của nhân dân Nam Bộ, như lời giới thiệu của Nhà xuất bản: “Chính các anh hùng vô danh mới thể hiện toàn bộ chủ đích nghệ thuật của Trần Bảo Định, cho thấy tư tưởng: nhân dân anh hùng!”
Xem thêm
Thơ tình Nguyên Bình đắm đuối
(Vanchuongthanhphohochiminh.vn) - Các nhà thơ từ cổ chí kim không nhiều thì ít đều viết thơ tình, điều đó không có gì lạ; vì tâm hồn họ lãng mạn, mơ mộng, tôn thờ phái đẹp. Nhà thơ Nguyên Bình không nằm ngoài số đó. Anh viết văn làm thơ từ thời sinh viên, cả trước và sau năm 1975. Những bài thơ tình, anh không dám trao tay cô nữ sinh xinh đẹp xứ Huế anh yêu say đắm: Vẫn mãi “Là bài thơ còn hoài trong vở/Giữa giờ chơi mang đến lại mang về” thơ Đỗ Trung Quân.
Xem thêm
Mỹ cảm của kiểu tự sự trong suốt trong tập tản văn “Nỗi buồn trong suốt” của Nguyễn Đức Phú Thọ
Tản văn là một thể loại dễ tiếp cận với mọi mặt của đời sống thông qua những lát cắt hiện thực, nhưng trung tâm tinh thần của thể loại này lại là cái tôi tư tưởng, cảm xúc của người nghệ sĩ. Tản văn vừa đậm chất trữ tình, vừa mang bản chất tự sự. Mỗi tác phẩm là một cách diễn giải về “Thế giới như tôi thấy”, đồng thời cũng là một tấm gương phản chiếu cấu trúc nội tâm của nhà văn.
Xem thêm
Cảm nhận thơ Trần Xuân Hóa từ một góc nhìn đa cảm
Bài viết của nhà thơ CCB Trần Trí Thông
Xem thêm
Hơi thở đất quê trong miền nhớ của Huỳnh Khang
Chủ đề và nội dung trong MIỀN NHỚ xoay quanh ký ức quê hương, tình mẫu tử, nghĩa làng nghĩa xóm, thiên nhiên, tình yêu đôi lứa, nỗi buồn mất mát, cùng những triết lý đời thường.
Xem thêm
Tiếng văn từ phía “bạn nguồn”
Nguyễn Minh Sơn, Hồ Tấn Vũ và Nguyễn Thị Như Hiền là ba cây bút thuộc thế hệ 7X và 9X
Xem thêm
Về trên dặm trường thiên lý “Miền Ô châu”
Tiếp theo các cuốn tản văn Sông vẫn chảy đời sông (NXB Thanh Niên 2023), Bốn mùa thương nhớ (NXB Thanh Niên 2024), nhà văn Nguyễn Linh Giang vừa ra mắt cuốn tản văn mới: “Miền Ô Châu” (NXB Phụ Nữ Việt Nam, 2025).
Xem thêm
Thơ ca chào đón Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2/9
Cách mạng tháng Tám - 1945 thành công, mở ra trang sử vàng chói lọi cho dân tộc. Bác Hồ đọc “Tuyên ngôn độc lập”, khai sinh ra Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á được thành lập. Hai tiếng Việt Nam vang lên đầy phấn khởi, tự hào trên trường quốc tế, đã khơi nguồn, làm bừng dậy biết bao cảm hứng về thơ ca, nhạc, họa thật mới mẻ, mãnh liệt và sôi nổi, làm không khí văn nghệ đổi sắc thay da. Từ đây nền văn học của ta chỉ còn duy nhất một trào lưu là văn học cách mạng.
Xem thêm