TIN TỨC

Vũ điệu tái sinh trong từng cơn đau

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2025-02-28 08:47:51
mail facebook google pos stwis
1273 lượt xem

TRẦN TUẤN

(Đọc “Nghiêng về phía nỗi đau” tập thơ của Trịnh Bích Ngân, NXB Hội Nhà văn, quý II, 2024)

Đúng là có nghiêng/ nghiêng hẳn về phía nỗi đau. Thơ mang trong mình “tâm thức”/ phẩm tính của “vết thương”. Và nỗi đau/ vết thương lớn nhất, chỉ vài nét chấm phá thôi, nhưng đã cho thấy cái gai góc quyết liệt trong tiếng thơ mang nỗi “bất cam”, gánh ghì số phận riêng - chung kiếp người: “Sự thật có lúc là quái vật/khi nó ẩn mình dưới lớp ngụy tạoSự thật/ lương tâm cắn xé tả tơi/ ác thú khi đã no nê/ con rắn mái gầm phùng mang/ phun vào ánh ngày chất độc” (Sự thật có lúc là ác thú - trang 77).

Trong thơ luôn “trĩu nặng” sự “mất còn”. Đó là “bi cảm” nhưng không dừng lại ở cái bi cảm lòng riêng của một cá nhân mà là nỗi “bi cảm văn hóa” (văn học, nghệ thuật). Nỗi bi cảm được lưu cất từ một con người đã sống, lục lọi, tìm kiếm mình trong các vỉa tầng đời sống, từng vỉa quặng văn nhân, kịch nghệ để rồi hóa “rêu phong” (cỏ) trườn trên những bờ tường xám ngắt của một miếu đường hay mao ốc cổ, “ẩn nhẫn/ trần gian“những miền cỏ dại”…

“Nghiêng về phía nỗi đau” trân trọng phẩm giá, neo giữ “cái đẹp” “bằng sinh mệnh trái tim” chứ không phải là sự nhìn nhận bế tắc về cái nghịch thường, bất an đời sống. Nhờ vậy trải ra bao bi kịch thế thái nhân tình vẫn sinh động, sóng sánh nhịp đập/ nỗi băn khoăn về tình yêu, tình đời…Như “vệt khói/ quấn quýt/ thầm thì thầm thì…” choàng ôm lấy mặt đất hiện thực. Trong “nắm níu những úa vàng” vẫn thấy “chồi non đang nhún nhẩy”. Trịnh Bích Ngân đã trong cuộc với nỗi đau, cho phép nỗi đau tràn vào mình một cách sâu sắc nhất để bám chạm được niềm đau thiêng liêng nơi dương gian, từ đó tổng hợp chân xác về bi kịch con người. Tiếng thơ như “Họa sĩ/ máu tim mình/ lặng lẽ/ chảy/ vào tranh”.

“Nghiêng về phía nỗi đau” thể hiện khá rõ cho quá trình sáng tạo thẩm mỹ và thể hiện phong cách nghệ thuật khác biệt của chính chủ thể tạo ra nó. Ngôn từ như “những giai điệu thiết tha bờ sóng” đã nung chảy thế giới vật chất tưởng như ngàn năm bất biến. Thổi vào không khí thơ đương đại những chứa chan dạt dào về tình yêu thấm đượm phủ tràn bờ vách duy lý. Và nỗi đau đã được bóc tách cho rành rẽ, khi “vùi sâu trong thương nhớ vô cùng”. Khi vơi hao, xuôi dịu, “khi tỉnh dậy không còn ràng rịt những cơn đau”.

Thơ bật âm điểm xuyết đôi ba dư vị buồn lặng, xót xa với vết thương vô hình buốt nhói. Thơ trăn trở khôn nguôi về dòng mạch sự sống, mỗi bước chân kiếm tìm hạnh phúc dường như đều vấp vướng chông gai, và cái linh cảm “có thể ngày tận thế lơ lửng đâu đó trên đầu”. Từ cảm thức về thân phận nhỏ bé của con người và cái khao khát khôn nguôi“…mặt đất khô cằn đang khát mưa nguồn”, thơ nâng“giấc thiên thai nơi trần gian nhọc nhằn”, có lúc cất vang “khúc hát của thiên thần gãy lìa đôi cánh”…Sau tất cả để bắt đầu “thấm dần/ trong một ban mai”…; “cho buốt giá vẫn nồng nàn hơi ấm”.

Nghiêng về phía nỗi đau” còn là nghiêng về sáng tạo ngôn từ, để những âm vần nối kết vết cắt cứa rằng rịt vào bầu trời và đại dương cho sự tái tạo mới.  Với tiếng Việt, tác giả đã thực hiện một hành trình bền bỉ cống hiến, dâng tặng“nhặt bình minh ngày cũ/ ủ trái tim sóng đôi/ dẫu âm dương cách trở/ dẫu biển xanh bạc đầu”. Sự bay bỗng diễn ngôn kết hợp với cách hóa hình thức văn bản trở thành điểm sáng cho thơ khi đặt nó đối mặt với đời sống đương đại. Khiến cho cảm hứng/ giác thấy sự sống bừng thức về phía mặt trời và say mê thế giới tự nhiên - cái vốn đã quen cũ trong thơ, là cảm thức của hồn thơ lãng mạn như đã quen nhàm nhàm, nay trở thành một lối thẩm mỹ có tính can dự, mang tinh thần thời đại

Những nỗi đau chưa tuyệt vọng bao giờ…Mỏng mảnh mà kiên cường, “gắng gỏi yêu thương”. Và hơn thế, đó là những “câu thơ sơn hà/ ngấm vào từng tế bào thịt da Tổ quốc”. Thơ hiến mình cho những rạn vỡ, những xoay trở bất tận, nhưng những vết thương đó không hề vô tội/ dụng, ngược lại nó tồn tại để hi sinh và cảm hóa… Hi sinh cho những trò chuyện tỉnh thức tâm tư với “từng chiếc lá cọng rơm/ bện thành tổ ấm”, với bóng đêm “nơi trần gian còn lầm lụi”. Để soi gương thấy mặt đời, soi tâm thấy cội nguồn. Thơ“được viết bằng trái tim ứa máu/ và linh hồn của những con người đã hóa đất đai”.

Đi sâu vào cái đằng đẵng, đằm sâu của nơi chốn“khắc khoải niềm riêng câm lặng”. Nơi những đắng cay thân phận cứ vỗ đập khôn nguôi trên bàn tay rưng rưng, khóe môi vô hồi vọng tưởng. Để “lịm đi trong nụ hôn tướm máu/ và hồi sinh trong bóng tối nhiệm màu”. Nhưng như “một chiến binh/ mang trong mình thương tích / vẫn không rời gươm giáo”. Hình hài thẩm mỹ của tác phẩm đẹp như một bức tượng Hi Lạp

Có một sự thanh vắng, du dương, trong cơn “trùng trùng bão cuốn”. Thơ đã chuyển dịch vị trí, đôi lúc hụt hẫng đơn độc, giòn khô, vỡ vụn từ từ xé ra khỏi đêm trường buồn bã mà trở nên trìu mến, dịu dàng, nâng thức. Như một dòng chảy tự nhiên trở về với vũ trụ, như “vết sẹo long lanh” chảy dọc cơ thể “tợ giải ngân hà”. Một sự nguyện hiến vô tư cho nghệ thuật: lắm thương tổn, nhiều ngậm ngùi nhưng cảm xúc được thấp ướt mượt mà. Trái tim nhỏ bé phơi gở ra giữa bao la ‘miền suối mát trong ngần” và nhịp đập của nó như mãi thao thức.

Nhà thơ “đánh thức hi vọng” từ niềm riêng và từ nỗi thương cảm tận cùng của thời đại. Âm thanh cảm xúc luôn tạo ra sợi chỉ bền chặt thắt bện, gia cố sự bập bùng của ngọn lửa tình yêu với đất và người. Cho sự được yêu thương và ôm ghì nhau, choàng hôn kí ức, nuôi dưỡng những mầm sống kì diệu nơi bóng tối sáng lòa:“Không khoảng cách nào có thể rẽ chia/ những trái tim có trong nhau/ những linh hồn hòa vào máu của đất/ những khát vọng tự do được hoài thai/ cả trong chiếc mầm bé nhỏ/ dưới bóng ô lưu đơn độc trong chiều”. Ở một nơi nào đó tận cùng vết thương, có sự chờ đợi các nhân duyên hàn gắn. Thật nhiều nỗi vô vọng, nhưng không chịu khuất nhục vì “những con chữ/ linh hồn/ bất tử”.

Thời/ không nghệ thuật từ trong “đau thương vô tận” hiện lên qua thi pháp độc đáo, phép nhìn hiện thực được đặc tả, cận cảnh rồi toàn cảnh và đi sâu vào những suy nghiệm vũ trụ, nhân sinh, tình người, bong nứt“khoảng trống dậy mùi hương” nơi cấu hình thẩm mỹ. Bích Ngân đã mở ra mênh mông ẩn dụ. Những bâng khâng được tạo tác từ cách đảo xới cảm xúc về thời gian nhân sinh và thời gian siêu hình cũng như dòng chảy biến ảo của sự sống để đến được với nhiều chiều kích ngã rẻ trong đời thường:“lặng thầm ôm ấp bóng đêm/ vẫn dịu dàng trước bình minh gõ cửa”.

Về cách bày trí hình thức văn bản tập thơ “Nghiêng về phía nỗi đau” phải nói là độc, lạ. Những hình ảnh mà tác giả đã bắt lấy trên hành trình/ những nẻo đường tìm kiếm hạnh phúc và sáng tạo nghệ thuật của mình. Những bức hình minh họa tự cất lời, đồng thanh cùng với thơ: Bình minh, hoàng hôn, hoa ven đường, những miếu đường quạnh quẽ, nhà thờ, ngõ lối, căn phòng, ô cửa, ngạnh phiến tàn, hay những bè hoa tiễn người khuất bóng…Đã thể hiện sự tế vi nơi tư duy mỹ cảm của chủ thể trữ tình. “Cái đẹp” bật nẩy từ cái hài hòa quấn quyện.

Ngày 27/2/2025

TT

* Chữ in nghiêng: Trích thơ trong tập thơ Nghiêng về phía nỗi đau

Bài viết liên quan

Xem thêm
Hồi hộp trước “phút bù giờ” của Minh Đan
Ngôn ngữ của Minh Đan đôi lúc không còn chỉ là ký tự để giải nghĩa, mà là vật liệu có tâm hồn – biết khít lại, giãn ra, để tạo hình tượng và âm thanh.
Xem thêm
Phát triển
Nội dung quyết định hình thức. Xét cả quá trình văn học lâu dài, các hình thức tác phẩm kế tiếp nhau xuất hiện, tác động vào nền văn học, góp phần tạo ra phát triển văn chương. Bài viết chỉ đề cập đến chủ đề này của cuốn sách.
Xem thêm
Vẻ đẹp tình người và nỗi niềm ưu tư trong thơ Phạm Nguyên Thạch
Một trong những cánh én đầu đàn của văn học An Giang - nhà thơ Phạm Nguyên Thạch, anh sinh năm 1948, hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, nguyên Phó Chủ tịch Hội Văn học Nghệ thuật An Giang và hiện là Chi hội trưởng Chi hội Nhà văn Việt Nam tỉnh An Giang. Anh sáng tác từ trước năm 1975. Từ đó đến nay, nhà thơ đã có những tác phẩm tạo tiếng vang được xuất bản: “Ngôi nhà lợp ngói âm dương” (Văn Nghệ AG, 1986); “Theo tình” (VNAG, 1994); “Gió” (NXB Trẻ, 1999); “Thị trấn đá” (VNAG, 2002); “Cỏ lá quẩn quanh” (VNAG, 2006); “Mưa ảo” (NXB Hội Nhà văn, 2019).
Xem thêm
Nghiên cứu truyện Nam Cao theo góc nhìn thi pháp
Bằng cách ghi nhận từ các bài nghiên cứu, lời giới thiệu, chắt lọc những ý kiến nho nhỏ, có khi chỉ một vài nhận xét liên quan, có thể đưa ra một cách nhìn về tình hình nghiên cứu truyện ngắn Nam Cao trên góc độ thi pháp học hiện đại.
Xem thêm
Nguyễn Thành Phong – Nhà thơ tài hoa trữ tình, quan chiêm ngoại vi và nội hàm tự sự luận cảm của thơ Việt Nam thời kỳ đổi mới
Trữ tình và tự sự là những khái niệm của thơ, ngoại diên và nội hàm là những khái niệm của logic học. Ngoại vi là một phần của ngoại diên chỉ các đối tượng có phạm vi nhất định và chỉ định. Trong thơ, nó là các địa danh, hoặc các nhân vật trữ tình, các không thời gian xác định, tạo nguồn cảm hứng. Ngoại vi nhỏ hơn ngoại diên. Nội hàm là nội dung thuộc tính bên trong cả chủ quan và khách quan của sự vật, hiện tượng. Trữ tình nói bằng cảm xúc, gắn với bộc lộ chủ thể. Tự sự kể lại, tả lại khách thể. Phàm lệ mấy câu để bài viết này đỡ cảm thấy gượng ép, mong được đồng cảm.
Xem thêm
Hãy sống như những người đã chết - Một nhan đề độc đáo
Lúc đi học, thầy cô từng bảo nhan đề là tên của tác phẩm, còn có cách gọi khác là đầu đề, là cái tít chung của một văn bản. Nhan đề (đầu đề) thường do người viết đặt ra - như người bố, người mẹ đặt tên cho đứa con của mình; nhưng cũng có khi do người khác (cán bộ biên tập) đặt hộ, hoặc đổi tên đi cho hay, cho phù hợp với chủ đề của tác phẩm.
Xem thêm
Inrasara: Tác phẩm văn chương, từ tốt & hay đến lớn
Tại tọa đàm cùng tên do Hội Nhà văn TPHCM tổ chức, nhà thơ – nhà phê bình Inrasara đã mang đến những luận điểm sắc sảo, giàu trải nghiệm, mở ra cách nhìn mới về sự cộng hưởng giữa sáng tác và tiếp nhận, để văn chương thực sự chạm tới và ở lại lâu dài trong lòng người đọc.
Xem thêm
Văn học Đổi mới, một cách nhận diện
Cho đến nay, cụm từ “Văn học Đổi mới đã được sử dụng khá rộng rãi. Từ trong nhà trường đến ngoài xã hội, từ báo chí đến các các cơ quan truyền hình, đài phát thanh, trong các bài nói chuyện hay phát biểu của các nhà sáng tác, phê bình văn học, nó được xuất hiện một cách tự nhiên giống như một thuật ngữ đã được định hình.
Xem thêm
Phù sa tâm hồn qua “Ký ức bão!” của Lương Duy Cường
Những ngày đầu tháng Tám, tôi có chuyến đi miền Trung vào đúng dịp trời như rút ruột để nắng, đến nỗi chỉ cần thêm một giọt bỏng sẽ vỡ cả thinh không. Để mấy ngày sau trở về nhà, trong giấc mơ, quờ tay, tôi vẫn chạm vào bỏng rát. Người ta nói, trước những cơn thiên tai, nắng thường đi trước để dọn đường.
Xem thêm
Đói và sự thức tỉnh mình
Đọc ĐÓI của Đỗ Thành Đồng ngay trong phút thứ 59 và chuẩn bị bước qua con số 0. Nhìn lên góc giấy, hóa ra đây là trang thứ 59 LỤC BÁT ĐỜI. Có những sự tự nhiên, ngẫm cũng hay.
Xem thêm
Tác phẩm hay –Từ tiếp nhận và sáng tác
Có những câu hỏi tưởng chừng giản dị nhưng khiến người cầm bút trăn trở cả đời: Thế nào là một tác phẩm hay?
Xem thêm
Cảm thức quê hương, từ những tản văn đậm hồn quê
Ai đó từng nói: “Trong vũ trụ có nhiều kỳ quan, nhưng kỳ quan tuyệt phẩm nhất đó là trái tim người mẹ”. Tình yêu của mẹ đẹp đẽ, thiêng liêng và bao la chẳng có bến bờ. Có mẹ, ta như có tất cả. Khi mẹ vắng xa cuộc sống sẽ đầy nỗi buồn thương, chán chường, tiếc nuối… Thời gian có chờ đợi ai bao giờ…
Xem thêm
Ký ức bóng mùa qua hay là cảm thức thời gian trong thơ Cao Ngọc Thắng
Cao Ngọc Thắng đã thực sự ám ảnh và thao thức về thời gian, không ngừng đi tìm thời gian đã mất để phục sinh những ký ức gần và ký ức xa trên hành trình tâm linh sự sống.
Xem thêm
Văn học các dân tộc thiểu số sau ngày đất nước thống nhất và hướng đi mới trong kỉ nguyên số
Văn học hiện đại các dân tộc thiểu số sau gần một thế kỉ hình thành và phát triển, đến nay đã có gần 1500 hội viên ở các loại hình nghệ thuật. Các thế hệ nhà văn dân tộc thiểu số đã đạt được những thành tựu và ghi dấu ấn độc đáo trong nền văn học nước nhà.
Xem thêm
Những câu chuyện hấp dẫn và cảm động
Giữa tháng 6 năm 2025 nghệ sĩ Hồ Thanh Thoan cho ra mắt tập Bút ký mang tựa đề:“Một thời đã qua” do NXB Thuận Hóa ấn hành, dày 224 trang, khổ 14,5 x 20cm. Với vốn sống từng trải, đảm nhiệm nhiều trọng trách chuyên môn khác nhau, có dịp đến nhiều vùng miền, bắt gặp những câu chuyện thú vị, người nghệ sỹ đa tài ấy lặng lẽ chép vào sổ tay, nay mới có dịp viết xong 20 câu chuyện về “người thật, việc thật” đầy hấp dẫn và cảm động. Đó là nghệ sĩ Hồ Thanh Thoan, Phó Chủ tịch chuyên trách Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh Quảng Trị.
Xem thêm
GS.TS Trần Văn Khê tự truyện về cách học
GS.TS Trần Văn Khê, cây đại thụ của nền âm nhạc dân tộc Việt Nam, không chỉ được biết đến là người có công rất lớn trong việc đưa âm nhạc dân tộc Việt Nam ra thế giới, như nhà thơ Huy Cận đã từng nói về ông: “Chân đi tám hướng, mười phương/Tinh thần dân tộc một đường trước sau”. Là người Việt Nam vinh dự nhận hơn 14 giải thưởng, huy chương, bằng danh dự giá trị trong nước và thế giới. Mà GS.TS Trần Văn Khê còn là người có tấm gương sáng về tinh thần tự học, phương pháp học... đáng để chúng ta học hỏi.
Xem thêm
Thăm nơi neo đậu quê mình với thơ
Con người ta khi tuổi càng cao thì nỗi niềm về quê hương bản quán càng dâng đầy trong tiềm thức, nhất là người đó lại là người tha phương, sống nơi đất khách.
Xem thêm
Nhà thơ Hữu Thỉnh - Cây bút phê bình cự phách
Bài của PGSTS Vũ Nho đăng Văn nghệ Công An
Xem thêm
“Ngày Xanh” trong thơ Hồ Thế Hà hay là thơ của một thời hoa mộng
Bài của TS Hoang Thu Thủy về thơ PGS.TS Hồ Thế Hà
Xem thêm
“Trăm ngàn” – Hành trình truy nguyên bản thể giữa phế tích ký ức và nỗi cô đơn hiện sinh
Bài phản biện của nhà thơ Hương Thu xung quanh việc khen chê truyện ngắn Trăm Ngàn
Xem thêm