TIN TỨC

“Thu thức giấc” của Trịnh Bích Ngân - Mùa của những rung động

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2025-04-08 08:05:06
mail facebook google pos stwis
875 lượt xem

TRẦN HÀ YÊN
 

THU THỨC GIẤC
 

Đêm/ Vẩn đục/ Tinh tuyền

Mùa thu/ Trong tôi/ Thức giấc

 

Mùa thu/ Những mùa thu cách tôi/

Một tầm tay/ Một vòng ôm/

Mà quất quýt/ Và đắm say

 

Mùa thu trong tôi/ Chiếc lá chín vàng

Ngất ngây nụ hôn/ Của gió

 

Nụ hôn / Xuyên thời gian / Vượt qua cách trở

Mà giông bão / Và tử thần

Không thể / Tách chia

 

Đêm / Tinh tuyền /

Vẩn đục

Mùa thu / Trong tôi / Đỏ cháy

(TRỊNH BÍCH NGÂN)
 

Mùa thu, mùa của những rung động nhẹ nhàng nhưng sâu lắng, đã từ lâu trở thành nguồn cảm hứng bất tận trong văn chương và thi ca. Trong bài thơ Thu Thức Giấc, trích Nghiêng về phía nỗi đau của nhà thơ Trịnh Bích Ngân, mùa thu không chỉ hiện diện như một hiện tượng thời tiết hay một khung cảnh thiên nhiên, mà còn là một miền cảm xúc sâu kín, một sự thức tỉnh của tâm hồn. Thu Thức Giấc như dòng suối chảy qua từng ngóc ngách ký ức, chạm đến trái tim người đọc bằng những hình ảnh vừa quen thuộc, vừa bất ngờ.

Bài thơ mở đầu bằng một sự đối lập đầy ám ảnh: Đêm / vẩn đục / tinh tuyền /. Sự đối lập giữa vẩn đụctinh tuyền không chỉ là một trạng thái của đêm, mà còn gợi lên sự giằng xé trong nội tâm con người. Đêm tối thường gắn với sự u uất, nặng nề của ký ức, nhưng đồng thời cũng là khoảng lặng tinh khiết, nơi con người soi chiếu vào chính mình. Cách ngắt dòng độc đáo giúp nhấn mạnh sự đối lập này, tạo ra một không gian đầy trầm tư, nơi người đọc cảm nhận rõ hơn sự xáo trộn của cảm xúc.

Câu thơ Mùa thu / trong tôi / thức giấc / cho ta thấy đây không chỉ đơn thuần là sự chuyển mùa của thiên nhiên, mà còn là một sự thức tỉnh trong tâm hồn con người. Mùa thu trong bài thơ không chỉ là một khoảnh khắc của thời gian, mà còn là biểu tượng cho ký ức, cho những cảm xúc đã từng ngủ yên nay lại bừng tỉnh. Cụm từ trong tôi thức giấc cho thấy một sự trở mình, một sự hồi sinh của những cảm xúc tưởng chừng đã bị chôn vùi theo năm tháng.

Hình ảnh những mùa thu cách tôi / một tầm tay / một vòng ôm / mang đến cảm giác vừa gần gũi, vừa xa xôi. Chỉ một tầm tay, chỉ một vòng ôm, tưởng chừng dễ dàng chạm tới, nhưng thực tế lại là một khoảng cách không thể vượt qua. Điều này khơi gợi nỗi nhớ về những mùa thu đã trôi qua, những con người đã từng hiện diện trong đời nhưng giờ chỉ còn là hồi ức. Câu thơ ngắn gọn nhưng đầy ám ảnh, như một tiếng thở dài giữa dòng chảy vô tận của thời gian.

Hình ảnh đẹp và giàu sức gợi: Chiếc lá chín vàng / ngất ngây nụ hôn / của gió mang đến một cảm giác lãng mạn, bay bổng. Chiếc lá chín vàng là biểu tượng quen thuộc của mùa thu, của sự chuyển giao giữa sống và tàn, giữa rực rỡ và héo úa. Nhưng trong bài thơ này, chiếc lá không đơn thuần chỉ rơi rụng trong lặng lẽ mà lại ngất ngây như thể đang chìm đắm trong một khoảnh khắc yêu đương đầy đam mê với gió. Ở đây, nụ hôn của gió không chỉ là sự ve vuốt của thiên nhiên mà còn là sự giao hòa của cảm xúc con người, một khoảnh khắc yêu thương nồng nàn dù biết rằng rồi sẽ tan biến.

Nhưng điều đặc biệt hơn cả là nụ hôn / xuyên thời gian / vượt qua cách trở. Không còn là một cái chạm thoáng qua giữa thiên nhiên và vạn vật, mà đó là sự bất tử của những cảm xúc chân thành. Giữa cuộc đời đầy biến động, có những điều có thể bị xóa nhòa, nhưng cũng có những tình cảm không gì có thể chia cắt, dù là giông bão / và tử thần. Đây là một trong những hình ảnh có tác dụng gợi cảm mạnh mẽ nhất của bài thơ. Câu thơ đã nhấn mạnh và khẳng định rằng: Tình yêu, ký ức và những rung động sâu lắng trong tâm hồn con người có thể vượt lên trên những rào cản khắc nghiệt nhất của thời gian và cuộc đời.

Bài thơ khép lại bằng một hình ảnh đẹp, sáng tạo đến bất ngờ: Mùa thu / trong tôi / đỏ cháy /. Nếu như mùa thu thường gợi đến sự dịu dàng, lắng đọng với sắc vàng và những cơn gió nhẹ, thì ở đây, nó lại hiện lên trong sắc màu đỏ cháy, một hình ảnh mạnh mẽ, dữ dội. Phải chăng, đây là ngọn lửa của những cảm xúc bùng nổ, của những ký ức không thể nguôi ngoai, hay chính là sức sống mãnh liệt còn rực cháy ngay cả trong những ngày thu tưởng chừng lặng lẽ?

Bằng những hình ảnh giàu sức gợi, những đối lập tinh tế và cách diễn đạt súc tích, bài thơ Thu Thức Giấc không chỉ đơn thuần là một bản nhạc thu buồn, mà còn là một lời khẳng định về sự bất diệt của những rung cảm trong tâm hồn con người. Mùa thu trong thơ không chỉ là một mùa của thiên nhiên, mà còn là mùa của ký ức, của những nỗi niềm không thể gọi tên, của những xúc cảm đã từng tưởng chừng ngủ yên nhưng vẫn âm ỉ cháy trong tâm hồn chủ thể trữ tình - nhà thơ - và trong tâm hồn của mỗi chúng ta.

Nhà thơ Bích Ngân đã khéo léo kết hợp những thủ pháp nghệ thuật độc đáo và lựa chọn ngôn từ chuẩn xác để diễn tả tâm trạng. Ngôn từ ở đây cô đọng, giàu hình ảnh. Một trong những điểm đặc biệt của bài thơ là cách tác giả sử dụng ngôn từ cô đọng, tối giản nhưng giàu sức gợi. Mỗi câu thơ ngắn, chỉ vài từ, tạo ra một nhịp điệu rời rạc, như sự ngập ngừng, như nhịp thổn thức của con tim rung động trước mùa thu. Tất cả như những mảnh ghép nhỏ nhưng lại tạo nên bức tranh cảm xúc toàn vẹn của chủ thể trữ tình. Các biện pháp nghệ thuật được tác giả sử dụng như tương phản, nhân hóa hay những hình ảnh mang tính biểu tượng… có tác dụng làm nổi bật vẻ đẹp đa chiều của mùa thu. Ví dụ như phép tương phản được sử dụng ở ngay từ đầu bài thơ. Đó là sự đối lập giữa "vẩn đục" "tinh tuyền" đã tạo nên một cảm giác vừa căng thẳng, vừa hài hòa. Đây không chỉ là sự tương phản về mặt hình ảnh, mà còn là sự đối lập giữa hai trạng thái tâm hồn: Hỗn loạn và thanh tịnh, khát khao và bình yên. Hoặc những hình ảnh có tính biểu tượng như chiếc lá chín vàng, nụ hôn của gió, mùa thu đỏ cháy…tất cả đều là những biểu tượng đầy sức gợi, mang đến những tầng ý nghĩa sâu sắc. Chiếc lá không chỉ đơn thuần là hình ảnh thực của thiên nhiên, đó là biểu tượng của thời gian, của sự đổi thay. Nụ hôn của gió là sự giao hòa giữa trời đất và con người. Việc nhân hóa các hình ảnh tự nhiên như chiếc lá, gió, mùa thu đã thổi hồn vào từng câu chữ, khiến cho thiên nhiên trở nên sống động, gần gũi hơn. Điều này cũng giúp người đọc cảm nhận được sự gắn kết mật thiết giữa con người và thiên nhiên. Không phải vô tình mà các câu thơ trong cả bài thơ đều là những câu ngắn, giàu nhạc tính. Nhà thơ không sử dụng những câu thơ kể lể, dài dòng, cũng không phô bày cảm xúc một cách lộ liễu mà gợi mở tinh tế cho sự cảm nhận. Chị không trực tiếp bày tỏ cảm xúc hay áp đặt một thông điệp cụ thể lên người đọc. Trong suốt chiều dài bài thơ, ta không thấy Bích Ngân nói “Tôi nhớ mùa thu”, hay bảo rằng “Tôi buồn” mà chị chỉ vẽ ra những hình ảnh, những sắc thái cảm xúc để người đọc tự mình cảm nhận. Chẳng hạn, khi viết: Những mùa thu cách tôi / một tầm tay / một vòng ôm, nhà thơ không nói rõ đó là nỗi nhớ về ai, về điều gì, nhưng chính sự mơ hồ ấy lại tạo nên sức mạnh. Không có những lời khẳng định rõ ràng về nỗi nhớ, tình yêu hay sự mất mát, nhưng mỗi hình ảnh lại mở ra một thế giới riêng, khiến người đọc tự soi chiếu vào mùa thu của chính mình. Đó có thể là một hoài niệm đẹp đẽ, một tiếc nuối mơ hồ, hoặc một cảm giác khát khao muốn níu giữ những điều đã qua. Người đọc có thể tự gán ghép mùa thu ấy với những gì họ đã đánh mất và đó chính là nét đẹp của sự gợi mở trong phong cách thơ của Bích Ngân. Tác giả đã để những khoảng trống cho người đọc tự mình lấp đầy.

Cũng trong bài thơ Thu Thức Giấc, người đọc dễ dàng nhận ra có sự biến đổi trong nhịp điệu, từ lặng lẽ đến bùng cháy. Đây cũng là điểm đặc sắc trong phong cách thơ của Bích Ngân nói chung và đặc biệt trong tập thơ Nghiêng về phía nỗi đau. Ngay từ đầu bài thơ, nhịp thơ đã chậm rãi, như một bước chân nhẹ nhàng bước vào không gian mùa thu. Những câu thơ ngắn, từng chữ như rơi xuống một cách dè dặt, tạo ra cảm giác suy tư: Mùa thu / trong tôi/ thức giấc. Nhưng đến cuối bài thơ, nhịp điệu trở nên dồn dập hơn, mạnh mẽ hơn: Mùa thu /trong tôi/ đỏ cháy. Hay từ sự dịu dàng, lắng đọng của thu, tác giả bất ngờ kết thúc bằng một hình ảnh đầy kịch tính, mùa thu không còn là màu vàng êm ả, mà là đỏ cháy. Đây có thể xem là cao trào cảm xúc của bài thơ. Sự đỏ cháy này không chỉ là một hình ảnh thị giác, mà còn là cảm giác của một trái tim đang rực lửa, một tâm hồn không chịu ngủ yên trong nỗi buồn mà muốn bùng cháy với những khát khao, những rung động mãnh liệt. Sự thay đổi nhịp điệu này khiến bài thơ không còn là một bản nhạc trầm buồn của mùa thu, mà có cả những nốt thăng, những khoảnh khắc bùng nổ đầy cảm xúc.

Có thể nói rằng, Thu Thức Giấc không chỉ đơn thuần là một bài thơ về mùa thu mà còn là một bức tranh cảm xúc đầy biến động của con người trước thời gian, ký ức và những rung động sâu thẳm trong tâm hồn. Mùa thu trong bài thơ không chỉ là sắc vàng của lá rơi, làn gió nhẹ thoảng qua, mà còn là một thực thể sống động, mang theo hơi thở của quá khứ, hiện tại và cả những khao khát không tên.

Nhà thơ đã tạo nên một không gian thơ đặc biệt, nơi mùa thu không chỉ gợi buồn mà còn chứa đựng sự mãnh liệt, nơi những cảm xúc tưởng như dịu dàng lại có thể đỏ cháy, nơi những ký ức tưởng như xa vời lại có thể xuyên thời gian, vượt qua cách trở. Mỗi câu thơ là một nhịp đập của trái tim, khi thì rời rạc, chậm rãi như tiếng thở dài của kẻ hoài niệm, khi thì bùng nổ, dữ dội như một ngọn lửa cảm xúc chưa bao giờ lụi tàn.

Thu Thức Giấc như một lời nhắc nhở rằng: Mùa thu không chỉ là một khoảnh khắc trong năm, mà còn là trạng thái của tâm hồn. Có những mùa thu chỉ đến một lần rồi đi, nhưng cũng có những mùa thu cứ mãi thức giấc trong lòng người, những mùa thu của tình yêu, của ký ức, của những rung cảm không thể gọi tên! Và dù mùa thu ấy dịu dàng hay rực cháy, nó vẫn mãi hiện hữu, như một phần không thể tách rời trong tâm hồn chúng ta. Và đó chính là giá trị lớn nhất của Thu Thức Giấc, một bài thơ không chỉ để đọc, mà còn để cảm!

(Bài đăng Diễn đàn Văn nghệ Việt Nam, số tháng 4/2025)

Bài viết liên quan

Xem thêm
Một Nguyễn Mạnh Tuấn vừa lạ vừa quen trong hai tác phẩm mới
Một Nguyễn Mạnh Tuấn vừa lạ vừa quen trong hai tác phẩm mới
Xem thêm
Nhà văn Nguyễn Mạnh Tuấn chua ngọt một đời cầm bút
Văn Chương TP. Hồ Chí Minh trân trọng giới thiệu bài viết của nhà thơ, nhà lý luận phê bình Lê Thiếu Nhơn như một tiếp nối của cuộc trò chuyện đẹp này.
Xem thêm
Hoàng Đăng Khoa và nỗi buồn đương đại trong tập thơ mới
Có thể nói, buồn là phẩm chất thuộc tính thương hiệu của thi nhân. Tản Đà từ khoảng 1916 đã viết “Đêm thu buồn lắm chị Hằng ơi/ Trần thế em nay chán nửa rồi”, 20 năm sau, khoảng 1936, Xuân Diệu “Hôm nay trời nhẹ lên cao/ Tôi buồn không hiểu vì sao tôi buồn”. Cũng khoảng ấy, nhưng trước một hai năm, Thế Lữ cũng “Tiếng đưa hiu hắt bên lòng/ Buồn ơi! xa vắng mênh mông là buồn”. Ngay cả Tố Hữu, cùng thời gian, viết: “Buồn ta là của buồn đời/ Buồn ta không chảy thành đôi lệ hèn/ Buồn ta, ấy lửa đang nhen/ Buồn ta, ấy rượu lên men say nồng”. Đều buồn cả.
Xem thêm
Quá trình tự vượt lên chính mình
Tôi nhận được thư mời của Ban Tổ chức buổi Giao lưu - Tặng sách vào buổi chiều hôm nay (16/11) tại tư dinh của họa sỹ Nguyễn Đình Ánh ở Việt Trì, Phú Thọ. Ban Tổ chức có nhã ý mời tôi phát biểu ở buổi gặp mặt. Thật vinh dự nhưng quá khó với tôi: Lại phải xây dựng thói quen “Biến không thành có, biến khó thành dễ, biến cái không thể thành cái có thể…” như Thủ tướng Phạm Minh Chính thường nói!
Xem thêm
Nguyễn Thanh Quang - Giọng thơ trầm lắng từ miền sông nước An Giang
Trong bản đồ văn học đương đại Việt Nam, mỗi vùng đất đều mang trong mình một mạch nguồn riêng, âm thầm mà bền bỉ, lặng lẽ mà dai dẳng như chính nhịp sống của con người nơi đó. Và trong không gian thi ca rộng lớn ấy, An Giang như một miền phù sa bồi đắp bởi nhánh sông Hậu, bởi dãy Thất Sơn thâm u, bởi những cánh đồng lúa bát ngát, bởi mênh mang sóng biển và bởi những phận người chất phác, luôn có một sắc thái thi ca rất riêng. Đó là vẻ đẹp của sự hiền hòa xen chút sắc bén, của nỗi lặng thầm pha chút đa đoan, của những suy tư tưởng như bình dị mà lại chứa cả thẳm sâu nhân thế.
Xem thêm
Thơ Thảo Vi và cội nguồn ánh sáng yêu thương
Giọng thơ trầm bổng, khoan nhặt. Thi ảnh chân phương mà thật gợi cảm và tinh tế. Có lúc ta cảm nhận được những man mác ngậm ngùi, nỗi hối tiếc đan xen niềm hoài vọng, mơ tưởng. Thơ Thảo Vi có sự hòa phối các biện pháp nghệ thuật với dụng ý làm nổi bật nội dung, tư tưởng cốt lõi. Đó là tâm thức cội nguồn, chạm đến đỉnh điểm của tình cảm thương yêu, thấu hiểu với cõi lòng của đấng sinh thành. Thơ Thảo Vi là tiếng gọi đầy trìu mến, sâu lắng dư âm từ những thi hứng đậm cảm xúc trữ tình.
Xem thêm
Những chấn thương nội tâm trong “Mã độc báo thù”
“Mã độc báo thù” là tiểu thuyết mới nhất của nhà văn Nguyễn Văn Học, vừa được NXB Công an nhân dân phát hành. Đây là một trong vài tiểu thuyết đầu tiên viết về đề tài tội phạm công nghệ cao ở Việt Nam. Tuy nhiên, nhà văn không chỉ nói về tội phạm, mà còn xoáy sâu về những tổn thương của con người trong thời đại số.
Xem thêm
Huệ Triệu, một nhà giáo, nhà thơ
Cả hai tư cách, nhà giáo và thi nhân, Huệ Triệu là một gương mặt sáng giá.
Xem thêm
Chúng ta có thực sự tự do trong chính tác phẩm của mình?
Văn học, cũng như các lĩnh vực khác, theo tôi đều có những dòng chảy nối tiếp âm thầm, tạo nên nhiều sự giao thoa, đan cài giữa cũ và mới, quen thuộc và khác lạ
Xem thêm
Biểu tượng nước trong thơ Vũ Mai Phong
“Nước” trong văn hóa phương Đông là thủy – khởi nguyên của sự sống, mang phẩm chất mềm mại – bền bỉ – linh hoạt biến hóa của triết lý nhu thắng cương. Trong thi ca Việt Nam, “nước” gắn với dòng chảy thời gian tâm thức dân tộc, văn hóa lịch sử và tâm linh
Xem thêm
“Hư Thực” của Phùng Văn Khai: Tiếng nói Hậu Hiện Đại và Dấu Ấn Văn Chương Đương Đại Việt Nam
Văn học luôn là tấm gương phản chiếu xã hội, là nơi ghi lại những biến chuyển của thời đại và tâm hồn con người. Trong lịch sử văn học Việt Nam, mỗi thời kỳ đều có những tác phẩm tiêu biểu, vừa mang dấu ấn thời đại, vừa để lại những giá trị trường tồn cho đời sau. Tuy nhiên, khi thế giới bước vào kỷ nguyên toàn cầu hóa và đa dạng văn hóa, các giá trị truyền thống gặp nhiều thử thách. Đặc biệt, với sự bùng nổ thông tin và biến động xã hội, con người ngày nay không còn sống trong một thế giới đơn giản, rạch ròi mà là một thế giới đa chiều, hỗn loạn và khó đoán định.
Xem thêm
Thế giới kỳ vĩ của thơ
Thế giới của thơ, với thi sỹ là bến đậu của tâm hồn, là cánh đồng gieo trồng cảm xúc và chữ nghĩa, là bầu trời để cất cánh ước mơ và thả hồn phiêu lãng; với đọc giả là nhịp cầu kết nối con tim, là dòng sông soi rọi, tắm táp tâm hồn để được nâng đỡ và bay cao.
Xem thêm
Văn học dịch và những tác động đến đời sống văn học Việt Nam những năm đầu thế kỉ XXI
Nói đến văn học dịch những thập niên đầu thế kỉ 21, có lẽ, trước hết, phải nhắc tới việc rất nhiều tác phẩm thuộc hàng “tinh hoa”, “kinh điển”, hay các tác phẩm đạt được các giải thưởng văn chương danh giá (Nobel, Pulitzer, Man Booker...) đã được chú trọng chuyển ngữ trong giai đoạn này.
Xem thêm
Vài nhận thức về trường ca “Lò mổ” của Nguyễn Quang Thiều
Tôi hỏi nhiều nhà thơ và văn, rằng họ thấy trường ca “Lò mổ” của Nguyễn Quang Thiều như thế nào và đặng họ có thể khai sáng chút gì cho tôi nhưng không ai có câu trả lời khiến tôi thỏa mãn, đa phần đều nói “Ái chà, Lò mổ của Nguyễn Quang Thiều hả, bọn tớ cũng chỉ nghe dư luận ồn ào trên mạng thôi chứ có sách đọc đâu!”.
Xem thêm
Nguyễn Duy – Vịn thi ca vượt thác thời gian...
Bài đăng Văn nghệ Công an số ra ngày 13/11/2025
Xem thêm
Thơ có nghĩa là “thương” - Tiếng thơ Đặng Nguyệt Anh
Một bài viết thấm đẫm nhân tình của Tuấn Trần – người trẻ viết về Đặng Nguyệt Anh, “ngoại” của thơ và của lòng nhân hậu. Từ câu chữ đến cảm xúc, bài viết là một lời tri ân chân thành dành cho thế hệ cầm bút đã “đem trái tim yêu thương gánh ghì số phận chung”, để hôm nay, thơ của họ vẫn còn làm dịu đi những cơn bão đời người.
Xem thêm
Chất liệu dân gian trong ca khúc Việt Nam hiện đại
Bài viết này xin phép được tiếp tục trình bày một xu hướng vận động chủ đạo của âm nhạc dân gian truyền thống Việt Nam sau 1975: dân tộc hóa ca khúc Việt Nam.
Xem thêm
Đọc thơ Thiên Di
Dường như là một giấc mơ chậm rãi, dịu dàng, vẫn đọng lại dư âm của cô đơn, khao khát và hy vọng. Tác giả sử dụng nhịp điệu từ những chi tiết nhỏ – mưa rả rích, ánh mắt, cánh hoa – để cảm xúc lan tỏa, khiến độc giả không cần lạm dụng từ ngữ hoa mỹ vẫn cảm nhận được sự mềm mại, tinh tế và ám ảnh.
Xem thêm
Nguyễn Khuyến “thâm nho” giữa đời thường
Nguyễn Khuyến (Nguyễn Thắng, 1835-1909) hiệu Quế Sơn, tự Miễn Chi. Người đời gọi ông là Tam Nguyên Yên Đổ, do lấy địa danh là xã (làng) Yên Đổ (huyện Bình Lục, Hà Nam trước đây) ghép với việc ông thi đỗ đầu (giải nguyên) cả ba kỳ thi hương, hội và đình. Nhưng việc này thì chính Nguyễn Khuyến cũng chẳng tự hào cho lắm, ông viết: “Học chẳng có rằng hay chi cả/ Cưỡi đầu người kể đã ba phen”.
Xem thêm