TIN TỨC

Bây giờ tôi chỉ muốn nói: Cảm ơn!

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2025-04-05 20:01:56
mail facebook google pos stwis
1046 lượt xem

TUẤN TRẦN

Thương gửi Thầy giáo, Nhà Phê bình Văn học Lê Thanh Nga.

Ra trường, trò vội vàng ly hương khi đã khẳng định rằng không thể có một danh phận thỏa đáng nơi quê mình. Những mùa bão đi qua, bao ngày đông tháng giá, trò mãi mê tìm danh phận, chọn bản chất... Khí thở đời sống thị thành ăn ngấm với nhiều nỗi nhọc nhằn khôn tả, ắt hẳn đã làm cho trò không thể là cậu thanh niên ngỗ ngược, sống không tiết độ như ngày còn trên giảng đường – Đã từng gây ra bao nỗi chán chường cho thầy cô và bạn bè.

Trò vẫn nhớ như in cái ngày thầy trò biết đến nhau, thông qua một "sự cố" trong cuộc thi nghiệp vụ Sư Phạm của Khoa. Phút chốc xốc nổi của trò đã tạo ra một ấn tượng nội tâm bất khiết, nhưng qua đó trò hiểu được thầy mình bao dung tới độ nào. Sau “sự vụ”, TS. Ngô Quỳnh Nga đã tâm sự với trò và có chia sẻ rằng, trong trò có hình bóng của Thầy - ở cái "khí khái": "Hi vọng Tuấn sẽ điều hòa bản ngã và ý thức hơn trong học tập và rèn luyện đạo đức để sau này làm nên nhiều việc hữu ích". Trò nào dám nhận, khi biết bao "cổ tích" được truyền miệng về hình ảnh một Lê Thanh Nga thông tuệ, duyên dáng và đã kinh qua những trải nghiệm tứa máu để trở thành vị Tiến Sĩ Lý luận phê bình trẻ nhất xứ Nghệ hồi ấy. Còn trò, nói ra thật đáng hổ thẹn, như lời nhận xét của một giảng viên Khoa giáo dục trường ta: "Thành phần dặt dẹo".

Năm năm xa quê, khi ra đi chẳng lời tạ từ, thời gian đằng đẵng trò bặt vô âm tín. Trò thật tội lỗi. Nhưng thầy biết chăng, trò vẫn kết nối với cô - vợ thầy. Vẫn luôn hỏi về “thầy tui” có còn ngấm rượu hay chăng, có chăm vẽ thư họa như thưở trước, hoặc biết cách giúp vợ sửa ống nước hay chưa… Nay vườn nhà có trồng nhiều hoa? cu cậu lớn lên viêm xoan đã đỡ lành hơn chưa?... Trò vẫn hướng về thầy, về ngọn đồi yên ắng bất động gần nhà, về mẹ cha đã già đang như cái bóng vào ra trong căn nhà mái lá đơn sơ…

Có lần đã từng tâm sự với cô về thời gian trò viết cuốn sách đầu tay, trò bị chảy máu cam nhiều ngày, những giọt máu đổ rơi tanh tưởi trên tay phím. Viết quả là đau đớn khôn tả… Qua đó, cô cũng nói về ngày mới chớm yêu, tới thăm gác xép của thầy và thấy những vệt máu như ai rảy lên tường. Hóa ra là có những đêm như thế, những đêm cam nhẫn bấy trần: đói và đau đời chữ nghĩa thầy đã hắt hơi ra máu… Trò hiểu rằng “Kafka” đã khiến thầy đổ máu. Cái luận văn mà dễ gì ai viết được trong thời buổi “chữ nghĩa giả trá” lên ngôi này, đã làm thầy bị thương. Trò biết rằng trong cơn đói bụng oằn thắt thầy vẫn đi tìm cầu sự no lòng suốt ngày dài đêm thâu ở thư viện thủ đô.

Một cậu học trò sớm thấm đau nghiệp văn chương đã trở nên “quái kiệt”, lánh mình trên Đại Huệ để “cưỡng cầu” cái đẹp nhói tim của thi ca thế gian trăm vạn quyển. Rồi ngày ra trường loay hoay, lật trở tìm cầu công việc,… Người con xứ Nghệ chỉ bữa đói bữa no lại thêm bị “trừng phạt” cho cái định mạng với văn chương và kịch nghệ, sẽ thêm đắng đót muôn phần. Nhưng sau biết bao biến đổi bể dâu, bao gắng gỏi phi thường, thầy tôi đã đánh một mốc son chói sáng trên con đường học vấn của mình, trở thành TS văn học khi còn rất trẻ. Quả là đớn đau mà xứng đáng. Phải chăng! Mọi điều lớn lao trên đời đều được đánh đổi bằng nỗi đau khổ vĩ đại khôn tả - như tiếng chim kia hót lên vài khúc gắt gao trang trọng trong bụi mận gai… Trò thương thầy biết mấy, một con người nhỏ nhắn mà ngang bạo, đã qua nhiều thăng giáng đời người, đối diện với sống còn vẫn một đường cao thượng mà đi. Trò mong mau chóng hết năm học để trở lại quê hương. Ngày hạnh ngộ với thầy, mình cụng ly và tỉ tê về chuyện của trò, những ngọn núi, những gió sương, bao ưu phiền chuốc sầu mà trò đã đi qua… Ngay lúc này trò khát khao chực trào hai tiếng quê hương…

Bốn năm trên giảng đường trò cứ để tâm trí bay theo đám mây qua bục giảng, rụng đi xiết bao “lời vàng ý ngọc” của một thế hệ gia công sư phạm mẫu mực hiếm có và không thể tìm lại được. Những ngày tháng tha phương, đày mình trong giếng đời trũng sâu mưu cầu dục vọng, thực lòng không còn nhiều thời gian để chăm sóc sự học, sự đọc...

Thầy biết đó, trò cũng chỉ là một hồn thơ bọt bèo, mong manh và chỉ muốn được mong manh, nhưng “thập tải phong trần” buộc nam nhân phải xốc liệt, điên cuồng để gánh ghì số phận, lắm lúc uột èo, hư nát, chênh chao trên khung trục tình - tiền - quyền. Trò sao quên được hương quê vị quán, đồi thông rú Chúa. Chẳng quên được con đường tắt ngang giữa đồng quê ám mộng đã nhiều hơn một lần trò cắp rượu đến ê a chuyện đời và thơ với Thầy. Có lúc thầy trò ta đôi mắt trâng trớ, trầm ngâm thầm thỉ thầy kể về người thầy khả kính của mình với những bài học giá máu, thấm nhuần tư cách của một chuyên gia văn học mẫu mực trên nhiều phương diện… Và giờ thầy đã là một người học trò xuất sắc của thầy mình.

Có phải thế này chăng như một nhà văn đã nói: “Anh giúp tôi thì người khác sẽ giúp anh” – Đó là quy luật muôn thưở. Giáo dục bao đời rễ đắng nhưng quả ngọt và văn học sẽ giúp người ta nhận ra được một kiếp sống ngắn ngủi đâu dễ dàng chi. Để rồi chính cái sống thật khó, thật khổ, thật nhọc nhằn đó mà ta biết sống sao cho xứng đáng, cho an trú và trọn vẹn trong hiện tại. Và trò hứa với thầy nguyện “sinh nghề tử nghiệp”, sống là con đẻ của giáo dục, chết làm “linh thần” trên cánh đồng chữ nghĩa…

Trong lòng trò luôn canh cánh về những hồi ức hoa niên đẹp đẽ đã qua, đeo ách đủng đẳng những lời cảm ơn và xin lỗi chưa kịp tỏ bày. Còn lại đó những mặc cảm khó đòi, những nỗi niềm thương nhớ giảng đường và thầy cô mà trước kia có những oán giận lòng riêng trò cố chấp chưa tiện để về. Nay đã đến lúc trò thắm lại một miền neo đậu, tìm đến thầy thỏa nỗi nặng lòng tri âm…

Thưa thầy! Nay trò viết đôi dòng cảm - hiểu, yêu, trân trọng và nhớ… Vì duyên cớ của một buổi trưa hiếm có, trò rảnh tay không bận bịu giấy tờ sách vở. Thời khí Sài Gòn cũng có chút bức bối lúc giữa ngọ. Nhưng có lẽ đường sách Nguyễn Huệ, dòng chảy văn chương và những thi dân, văn dân phóng thoáng dào dạt, chí tình chí nghĩa đã nhuốm đọng, vuốt dịu bầu không. Ăn trưa cùng nhà văn Tống Phước Bảo, trong cuộc trò chuyện về chữ nghĩa, Bảo có nhắc tới TS Lê Thanh Nga, một “nghệ nhân” thật trìu mến và dễ thương. Giây phút đó, đột nhiên như có điều chi cán qua tâm trí trò, và… cay mắt mọng mi. Thầy mình, người mà năm năm rồi mình không dám nhắc đến tên, sợ đứa trẻ hư này sẽ làm cấu uế danh dự của một con người chí kính - người đã sửa phạt mình bằng chỉ một lời "đau đáu": "Cho cậu mười năm, mười năm mà không sống cho ra con người, không trồng được một cái cây hay trở thành một giáo viên công lập thì xem như thầy trò ân đoạn nghĩa tuyệt". Chỉ có giáo viên công lập mơi có thể neo buộc cái bản chất “rừng rú” của tôi cho bớt đi cái “tùy tiện”, “chểnh mảng” - có thể thầy nghĩ vậy. Thực tế, sự nghiệp công lập cũng là nỗ lực vươn tới của trò.

Trò đã ôm mang lời phán bảo của thầy ra Bắc vào Nam để luôn dẻo dai nín chịu và nỗ lực sống sót... Dẫu giữa cái bề bộn cuộc sống, trong cơn rất đau thương lắm lúc trò hằn học và điên hận, “con sói đồng hoang” lại đánh động thời không trong địa mộ tâm linh trò, để trò đã từng rít lên như đang bị giết thịt. Nhưng trò chưa rời nghề một giờ nao, vẫn ngày hai buổi tới trường, đọc và viết như bền bỉ hơn mỗi ngày để tất cả niềm hận nỗi yêu giết chết trang giấy với đời sống trắng, bảo chứng cho rằng trò đã cố gắng đủ nhiều để tự “chữa thương” và không phụ công thầy đã từng dạy dỗ, để tâm và có lẽ thầy còn nhớ ít nhiều về cậu học trò phách lối thưở nào.

Thưa thầy! Trò nhớ thương cái hình dáng nhỏ nhắn, lăn lẳn, cái đầu nhẵn nhụn uẩn súc kim cổ  và cái miệng lắm lời duyên dáng, hóm hỉnh của Thầy. Hình ảnh một người nghệ sĩ/ nhân với tư thái rất dân gian đã thể hiện một cách có lý trong cái ôn nhu, từ ái, cẩn trọng của một nhà giáo. Thầy là dòng suối hiền hòa chảy tự nhiên từng đường ăn ý ở. Không cần tô lục chuốt hồng, là hữu xạ tự nhiên hương, cái cười đó rất hiền, cái cử động của đồng tử, mắt, môi, khóe miệng,… tất cả đều khiến người đối diện cảm thấy đời nhẹ khôn kham… Vì có khiêm tốn chiều kích nên thầy đi thật nhanh, hòa lẫn vào đám sinh viên chẳng nhận ra người thầy tuổi tác đâu nữa. Mọi cử chỉ đều rất tháo vát, bặt thiệp, tạo cảm sự thân gần ngay từ lần đầu tiếp xúc. Chính những điều đó đã làm cho người bạn - Nhà văn của trò hôm nay nhắc tới thầy bằng cách như nẩy nở trong lòng một niềm vui tha thiết...

Thầy cho trò mười năm, trò cũng chẳng biết năm năm tới trò sẽ trở nên như thế nào. Hiện tại trò vẫn chưa thể an trú nơi thân mình, đôi lúc chập chờn dại khôn... Nhưng sau những vấp váp thế lộ trò đã bớt đi chút ít “trí mờ nghiệp nặng”. Đã biết vấn trách mình và bớt đi những phức cảm vĩ cuồng, những lộ cuồng tàng ngạo với đời sống và nhân sinh. Trò vẫn thực hành yêu thương mỗi ngày, giống như thầy đã từng, thầy còn nhớ chăng khoảnh khắc giao thì năm đó, chuyển gió trở mùa thầy đã luồn tay vào vạt áo của trò để xem mặc đã đủ ấm chưa. Cái tế vi trong cách quan tâm đó, âm thầm như ngọn gió lan thấm vào tận đáy lòng rồi lại gửi hương ngược hướng tỏa bay. Thầy tôi, như một bài thơ nhưng rất sống động thực cảnh. Ngọn lửa yêu nghề, quý chữ nghĩa và tận hiến cho giáo dục nước nhà nói chung cũng như dạy học/ đào tạo giáo viên Ngữ Văn nói riêng luôn được đốt đuốc cho cháy rực.

TP. Hồ Chí Minh, 28/03/2025

Bài viết liên quan

Xem thêm
Hơi thở cuộc sống trong thơ Nguyễn Kim Thanh
Trong hành trình sáng tạo của mỗi nhà văn đến với văn chương thì “ngôn ngữ là yếu tố thứ nhất của văn học” để làm nên tác phẩm. Ngôn ngữ trong thơ (trữ tình), truyện (tự sự) và kịch (kịch bản văn học) đều có sự giống và khác nhau. Cùng với sự đam mê, năng khiếu, và “thiên phú” (trời cho) thì mỗi tác giả có sự thành công ở những thể loại khác nhau. Có người sáng tác thơ hay nhưng viết truyện lại dở và ngược lại có người viết truyện hay nhưng thơ thì không ra gì. Lại có người thành công ở nhiều thể loại: thơ, truyện, kịch, ký, lý luận phê bình. Nhà văn Nguyễn Kim Thanh là cây bút chuyên viết truyện ngắn, tiểu thuyết, tản văn, bút ký và đã xuất bản bốn tác phẩm văn xuôi. Nhưng nay chị lại “thử sức” sang thể loại thơ với tập thơ đầu tay “Giọt nước mắt thủy tinh” có 30 bài.
Xem thêm
Nỗi buồn chiến tranh - và cách nhìn về việc đổi mới dạy học văn trong nhà trường
Vừa qua, tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh của nhà văn Bảo Ninh được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch vinh danh là một trong 50 tác phẩm tiêu biểu của văn học Việt Nam 50 năm qua đã tạo nên nhiều tranh luận trái chiều. Nhiều ý kiến cũng đã đặt ra vấn đề là có nên đưa tác phẩm này vào sách giáo khoa Chương trình Giáo dục phổ thông 2018 hay không. Là những người đã từng học văn qua nhiều lần thay sách và là những người đang dạy môn văn nhiều năm trong nhà trường phổ thông, chúng tôi có một số suy nghĩ trong cách nhìn về việc đổi mới dạy học văn trong nhà trường về Nỗi buồn chiến tranh với tính chất là “những người trong cuộc”.
Xem thêm
Văn học đương đại Trung Quốc từ lăng kính các giải thưởng Hội Nhà văn (2015 - 2025)
Nhìn chung, hệ thống giải thưởng Hội Nhà văn Trung Quốc giai đoạn 2015 - 2025 đã làm nổi bật vai trò “điều hướng” và “chuẩn hóa” của mình trong việc thiết lập các tiêu chí thẩm mĩ, định hình phong cách sáng tác và thúc đẩy tương tác giữa văn học - học thuật - công chúng. Điều này cho thấy một mô hình văn học với định hướng chiến lược - kết hợp giữa nhu cầu nghệ thuật, định hướng chính sách và cơ chế truyền thông - đang ngày càng chiếm vị trí trung tâm trong đời sống văn hóa đương đại Trung Quốc.
Xem thêm
Chân dung tâm hồn của nhà thơ Nguyên Bình qua “Mật ngữ trắng đen”
“Mật ngữ trắng đen” (NXB Thuận Hóa, 2025) của nhà thơ Nguyên Bình, hội viên Hội Nhà văn TP.HCM, là một thế giới thi ca đầy suy tưởng, nơi ánh sáng và bóng tối, mộng mị và hiện thực, nỗi đau và niềm yêu thương luôn song hành, soi chiếu vào nhau. Tựa như cái tên Mật ngữ trắng đen, thơ Nguyên Bình gợi cảm giác về sự đối lập, nhưng không phải để phân định ranh giới thiện ác, buồn vui, mà để khai mở một cõi cảm xúc và nhận thức đa chiều về tình yêu, cuộc sống, con người. Ở mỗi bài thơ, tập thơ của anh đều ẩn chứa một lớp nghĩa nhân sinh sâu sắc.
Xem thêm
Quan điểm của Nguyễn Đình Chiểu đối với Phật giáo
Nguyễn Đình Chiểu (1822-1888) là một nhà Nho tuy đỗ đạt không cao nhưng cụ là một nhà Nho đức nghiệp, một con người trong ba tư cách: một nhà thơ, một thầy giáo và một thầy thuốc suốt đời vì dân vì nước.
Xem thêm
Thơ Nguyễn Bình Phương – Tiểu luận của Thiên Sơn
Việc làm thơ của Nguyễn Bình Phương như một sự bừng lóe của linh giác. Mỗi lần cầm bút viết là khám phá cái thế giới lạ lùng, huyền bí như thế giới của giấc mơ. Mà làm thơ, như anh, chính là đang theo đuổi những giấc mơ. Như bước vào một cảnh giới kỳ lạ, với cách nhìn, cảnh cảm và cách nghĩ khác, xa lạ với hầu hết mọi người.
Xem thêm
Văn học và dân tộc như một vấn đề học thuật
Kết nối ngôn ngữ, văn học với sự tồn tại một dân tộc đã là một thực hành phổ biến trong đời sống tri thức ở châu Âu từ nửa đầu thế kỉ XVIII. Một dân tộc là lí tưởng khi nó thống nhất tất cả những người nói cùng một ngôn ngữ trong một lãnh thổ chung, từ đó tạo thành một quốc gia - dân tộc. Văn học, với tư cách là hiện thân rõ ràng và lâu đời nhất của ngôn ngữ một dân tộc, có vai trò như là yếu tố ràng buộc và thống nhất. Nhà phê bình văn học Hoa Kì René Wellek viết: “Văn học vào thế kỉ XVIII bắt đầu được cảm thấy như là tài sản quốc gia, như là một sự thổ lộ tâm trí dân tộc, như là một phương tiện cho quá trình tự xác định của dân tộc”(1).
Xem thêm
Nhà văn Thomas Mann: Bậc thầy của mâu thuẫn
Xuất bản lần đầu vào năm 1924, Núi thần nhanh chóng trở thành cuốn sách bán chạy và được cho là tiểu thuyết tiếng Đức có ảnh hưởng bậc nhất thế kỉ 20. Nhưng ít ai biết nó được viết ra trong sự gián đoạn của chiến tranh và thay đổi của thời đại.
Xem thêm
“Những ngọn gió biên cương” - Khúc sử thi đi qua căn bếp có mùi nhang
Bài đăng trên Tạp chí Diễn đàn Văn nghệ Việt Nam, số 12/2025.
Xem thêm
Ngọn gió chiều thổi qua “Nắng dậy thì”
Dòng thời gian sáng, trưa, chiều, tối đã chảy vào văn thơ bao thời theo cách riêng và theo cái nhìn của mỗi người cầm bút. Nguyễn Ngọc Hạnh đã thả cách nhìn về phía thời gian qua những sáng tác của ông. Thâm nhập vào không gian thơ trong Nắng dậy thì*, bạn đọc sẽ nhận thấy cảm thức thời gian của một thi sĩ ở tuổi đang chiều.
Xem thêm
Văn chương Nobel và thông điệp nhân văn
“Không chỉ ngày nay loài người mới khốn khổ? Chúng ta luôn luôn khốn khổ. Sự khốn khổ gần như đã trở thành bản chất của con người (Osho, Chính trực, Phi Mai dịch, Nxb Lao động, 2022, tr.14). Thế giới ngày càng bất an, con người ngày càng mỏng mảnh. Sức chống cự của con người giảm thiểu trước quá nhiều biến động: chiến tranh, dịch bệnh, thiên tai; đứt gãy cộng đồng, sự đơn độc, cái chết. Vì con người, dòng văn học chấn thương ra đời. Cũng vì con người, xu hướng văn học chữa lành hình thành vào thế kỉ XXI.
Xem thêm
Những nét đẹp văn hóa truyền thống Việt Nam trong “Mùa lá rụng trong vườn” của Ma Văn Kháng
Trong hành trình trở về cội nguồn, Ma Văn Kháng đã dựng nên nhiều chân dung cao đẹp tiêu biểu cho truyền thống ân nghĩa thuỷ chung của dân tộc. Nhưng nổi bật giữa bản đồng ca trong trẻo ấy là nhân vật chị Hoài - một con người coi “cái tình, cái nghĩa” là quý nhất. Hình ảnh chị Hoài trở về thăm và ăn tết với gia đình chồng cũ vào chiều ba mươi tết đã gây xúc động lòng người, để lại nhiều tình cảm đẹp đẽ cho bao thế hệ độc giả.
Xem thêm
Đọc ‘Bão’ – Ánh sáng nhân tâm giữa cơn bão thời cuộc
Tiểu thuyết Bão của PGS.TS, nhà văn Nguyễn Đức Hạnh được nhà văn Phan Đình Minh tiếp cận trên cả ba phương diện: nội dung xã hội, nghệ thuật tự sự và chiều sâu nhân văn.
Xem thêm
Khơi thông điểm nghẽn, đổi mới tư duy và cơ chế để văn học nghệ thuật phát triển
Văn học nghệ thuật luôn giữ vị trí đặc biệt trong tiến trình phát triển của đất nước, là nền tảng tinh thần vững chắc cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Xem thêm
Hạt gạo tháng Giêng – Nỗi nhớ xuân từ những phòng trọ xa quê
Trong mạch thơ viết về mùa xuân, nhiều thi sĩ đã chọn gam màu tươi sáng, ăm ắp hội hè và sum họp. Nhưng với nhà thơ Xuân Trường, mùa xuân trong bài “Hạt gạo tháng Giêng” lại mang sắc điệu trầm buồn, thấm đẫm nỗi xa quê của những phận người lao động nghèo nơi đô thị.
Xem thêm
Hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa dân tộc trên quê hương Đất Tổ
Phú Thọ - Đất Tổ Vua Hùng là miền đất cội nguồn của dân tộc Việt Nam, là nơi gắn với tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương và nhiều di sản văn hoá đặc sắc. Bởi thế, hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa dân tộc trên quê hương Đất Tổ là việc làm hết sức có ý nghĩa, luôn được Đảng, chính quyền các cấp, đặc biệt là cấp tỉnh quan tâm.
Xem thêm
Tìm hiểu đặc trưng truyện ngắn Nam Cao dưới góc nhìn thi pháp hiện đại
Khi đọc truyện ngắn hiện đại, điều nhiều người quan tâm là yếu tố nào làm nên sự khác biệt giữa các tác giả. Thực ra không phải chỉ ở đề tài, chủ đề, nội dung tư tưởng, ngôn ngữ hay bố cục, kết cấu tác phẩm..., mà là ở giọng văn/giọng điệu mới chủ yếu làm nên sự khu biệt về phong cách tác giả.
Xem thêm
Julio Cortázar và tập truyện ngắn bị “bỏ quên”
Mới đây, A Certain Lucas đã tái xuất sau nhiều thập kỉ, mở ra cánh cửa khám phá nhà văn vĩ đại người Argentina Julio Cortázar cũng như ảnh hưởng vượt khỏi châu Mĩ của cây bút này.
Xem thêm