TIN TỨC

Một đêm trăng không dễ có ở trên đời!

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2025-03-22 07:01:21
mail facebook google pos stwis
850 lượt xem

TUẤN TRẦN

(Cảm nhậnĐặng Nguyệt Anh thơ chọn tập 1”)

Thực tế, Đặng Nguyệt Anh là một nhà thơ. Nhưng khi gấp “Đặng Nguyệt Anh thơ chọn (tập 1)” lại, trong tôi đong chứa không chỉ là tiếng thơ “Giữa lại những trầm tư yên ắng”, những “Mơ ước” “tương tư nắng”. Mà còn là một hiện hữu, một giấc mơ ngọt ngào dễ gì có được trên đời. Một huyền thoại, vâng! Nhưng đã thành thực theo cách thật kì diệu: “Nguyệt” nơi “Mảnh trăng cuối rừng” đang bước ra từ giấc mộng đêm hè hôm ấy, ngước nhìn lên bỗng thấy những tán lá kết vòm ôm lấy trăng sáng trên nền trời xanh sâu thẳm nơi “Rừng núi hoang vu. Trăng hạ huyền làm ta [sao khỏi] chới với”. Đặc biệt, con đường ban đêm với ngàn sao nhấp nháy như những đôi mắt biếc nhìn xuống trần gian từ tiên thiên... thật giàu nhạc tính...Thơ khác nào trăng kia nở ra trong vắt, có chút bí mật và xa lạ như được tẩm ướp trong bầu không vô trùng không chút tạp chất: “Trăng xa soi tỏ lòng người/ trăng trân trọng cả những lời tử sinh/ nhưng…một cõi riêng mình/…/ Trăng vi diệu sống thanh tân một đời”.

Chính cái đêm như thế! Cái đêm trăng trong sáng lạ thường với bước chân thiếu phụ hối hả đường khuya vào Nam ra Bắc để tìm chồng viễn chinh…Và rồi trở thành cô du kích giữa đường rừng/ đời “muôn nẻo nắng mưa”. Trải nghiệm những cung đường trăng đầy hoa lửa, hồn thi nhân nhận thức và thấm nhuần “Cõi người còn lắm giá băng/ trăm năm mời ghé cung hằng dạo xuân”.

Vâng! và cũng chính từ cái đêm trăng nước mộng mơ. Cái đêm trăng cũng đầy lạnh lùng xa cách chốn đường khuya nẻo vắng giục lòng chiến thắng đó, một nữ nhân nương theo lối mòn Trường Sơn tìm phu quân đã trở nên kiên trinh, như bông hoa tỏa hương dọc chiến hào: “Ta đợi trăng đi những bước trập trùng cao thấp mộng du/…/ Mình ta thức với xanh xao núi rừng/ À ơi ta cõng trên lưng/ À ơi ta ủ trong lòng. À ơi!...”

Thời/ không nghệ thuật ngập tràn ánh trăng. Thứ ánh sáng thượng tuần trong xanh, diệu vợi. trăng theo thiếu nữ đi về miền nhớ: “Bâng khâng về người xuân cũ/ một trời lãng đãng phấn hương say”. Ngược lên non ngàn hay một chiều Paris, nơi vạn lý quan san, trăng dọi sáng đôi bờ êm đềm sông Đông. Dưới dòng sáng lấp lánh sự sống ấy, mọi thứ dường như đang âm thầm lặng lẽ nở ra những điềm an lành đẹp đẽ ẩn hiện với những nét trang nhã, thanh kỳ, mỹ lệ đến không ngờ. Đó là “ngọn lửa hòa bình không bao giờ tắt”.  Đêm rừng ấy bản hòa sắc trữ tình ngân vang: “Từ em/ gọi nguyệt về trăng/ là khi tôi đã gọi rằm/ sang đêm/ Hoang sơ/ một lối cỏ mềm/ cháy lên em.../ thắp sáng miền nhân gian!”.

Thưở ấy, người con gái sông Ninh xuân xanh rạng ngời đã vội trùng biệt viễn ly với người chồng đương kì mặn nồng gối chăn và rồi đằng đẵng triền miên “Chưa kịp lành vết thương/ đất nước lại đạn bom chinh chiến” . Cung đường trận mạc lỗ chỗ những hố bom, đêm trường sâu thấn: “sông Ninh tràn đầy pháo sáng/ sông Ninh tràn đầy thủy lôi/ không làm mềm lòng trai gái quê tôi”... “Ngoại ơi!” Có phải không? Trong cái đêm “thiếp từng mảng ánh trăng”(Mảnh trăng cuối rừng - Nguyễn Minh Châu) “ngoại” đã gặp lại ông. Kể từ đó trong thơ trăng trở thành thi cảm bất tận, ăn ngấm những giọt lệ lung linh, huyền diệu. Đâu đây trên cảo thơm luôn dậy mùi hương phù sa bãi bồi, những “chân đê xanh mướt cỏ non/ .../ thuyền ai về neo dưới bóng hàng tre”. Trăng ấm áp nở sắc trắng tinh khôi lối về bình minh cùng hương rừng Hoàng liên quyến rũ, “Trời khuya lạc một vì sao/ Để em/ [Ngoại tôi] gửi nhớ thương vào hương đêm”.

Khi tình nẩy nở, khi tình đơm bông, khi hôn nhân đơm hoa kết hạt cũng không thể huyền diệu hơn phút giây đó. Phải không “ngoại”? “Phút giây số phận” (AndreMaurois) trong một đời người. Khoảnh khắc “ngoại” gặp lại “ông” giữa đêm trăng sáng bừng cả giải ngân hà, nơi tuyến lửa, hay đầu sóng ngọn gió...Gặp lại lần này là minh chứng/ đóng đinh lòng son sắt vợi sâu, viết nên câu chuyện trăm năm đời người và nghĩa tình chồng vợ tựa thiếp vàng sơn son. “Ngoại” đã từng “Lặng im” (tr46) nén tang tóc thời thế: “Anh đâu”/.../ “Em như nắng gió trăng sao dõi tìm”. Để rồi hôm nay, khuôn dáng “trời em áo lụa”/…/ “mắt thu biếc nắng”/…/ “một đời ai thực ai mơ”. “Ngoại” tỏa rạng hơn, bừng sáng hơn và ngàn lần cao quý hơn so với “thuyền trăng…/ trắng trong ngân hà”.

Khoảnh khắc đó/ Đột nhiên/ Cỏ cây chim thú/ Đình cuộc chiến tranh/ đã tiếp diễn bao đời (Khoảng khắc đó – Maicơn Đâyanăng). Hồn thơ “Bồi hồi tháng giêng nhịp xuân trong vắt. Nguyên sơ đất trời phút giao hòa. Nhân loại sinh thành cho em gặp anh. Vườn ngát hương cau quấn quýt giây trầu. Truyền thuyết tình yêu bắt đầu từ đấy.” Ngày đó ngoại thật xinh đẹp trẻ trung như trăng non đầu tháng. Cô gái vận áo xanh và “Mình ta thức với xanh xao núi rừng”. Hình ảnh nàng thơ giữa đêm trường cô tịch đã xóa đi cảm giác ưu sầu, lạnh lẽo, thổi vào không khí cô liêu một ý vị trữ tình ấp iu, nồng đượm. Và dưới hằng hà sa số tình cảm ánh sáng kia, “ngoại” lả lướt hơn trong màu áo xanh, thêm phần hư ảo: “Xa xưa từ vạn kiếp rồi/ hình như ai đã ngỏ lời... hình như/ trăng thì vẫn cứ mộng mơ/ cứ huyền ảo, cứ thực hư giữa trời”.

Trong cái đêm bất thường ấy, người thiếu nữ hiện lên phi thường. Không chỉ là một cô gái như mảnh trăng thanh tân, xinh đẹp mà còn là một mảnh hồn trần gan góc, xốc liệt đạn bom: “Xin lau lách đưng phủ đường nhan sắc/ Bão giông ơi đừng lấp lối nhu mì/ Và đức hạnh: thiên đường hay địa ngục/ Cứu em nào qua phận mỏng nữ nhi”. Nó tạo nên vẻ đẹp trong thuần nhất quán, chín và hoàn thiện một cách kì diệu mà, nói như một học giả, tự thân nó đã là sức mạnh: “Thật nàng đấy ư?/ Li ti những giọt trăng đang tan ra, thấm vào hoa cỏ đất đai. Vũ trụ chuyển hóa. Ta ngu ngơ cuồng si, phiêu bạt mười phương, nửa kiếp phong trần.”

Có thể nói rằng, dọc chiến hào luôn có dấu chân của tình yêu đôi lứa: “Tôi đi trồng gió mỗi ngày/ Hồn tôi giờ đã xanh đầy gió non”. Tình ái quốc lồng trong sự bền bỉ, son sắc đợi chờ và niềm cảm dũng chiến đấu: “Con đường gần con đường xa/ Đi bên nhau để mặn mà yêu tin/ Để rồi thao thức từng đêm/ Cho trang thơ cũng say niềm khát khao”... Trên con đường đi tìm hạnh phúc “ngoại” đã hóa thành cô xung kích, để tới đích hai trái tim tuổi trẻ phải đổi bằng giá máu... Nhưng phải chăng là thế này “Hạnh phúc thực hơn mọi điều đã tả - Lại ngọt ngào kì lạ, lớn lao hơn” (Bằng Việt)? Nhưng có phải chăng là thế này “bắt đâu từ đâu nhỉ?/ Từ tấm lòng mùa thu/ Yêu thương và tha thứ/ Không oán ghét hận thù”. Đã có một đêm như thế. Một đêm chiến tranh thanh bình yên ả “Trăng lên như thể con thuyền/ buồm căng thương nhớ/ trôi quên ngân hà”.

Hồn thơ trong sáng vời vợi đã nẩy nở từ “Vàng son thời thiếu nữ/ Thương mình tím hoàng hôn”. Một giấc mơ thi vị đã thành thực ư! Vâng! Thực hơn thế là “ngoại” của hôm nay chưa bao giờ quên cái phút giây gặp lại nơi “trời thu trong vắt” đó. Và có phải thế này chăng, từ buổi hạnh ngộ cho mãi về sau “Trăng” đã trở thành điểm tựa tinh thần sáng mãi trong tâm hồn “thiếu nữ”:: “Ngày xưa/ trăng nõn trăng non/ Chỉ thương chú cuội/ mỏi mòn gốc đa/ Bao nhiêu tuổi nữa trăng già/ Gió hoang thổi dạt Ngân Hà/ về đâu?”.

Bài viết liên quan

Xem thêm
Thơ là linh dược
Tôi nhận được tập thơ Cả những ngày đã quên của tác giả Trần thị Thuỳ Vy, sinh năm 1975, quê Duy Xuyên Quảng Nam. Tập thơ dày 115 trang, khổ 18x18, bìa cứng giấy đẹp, trình bày rất trang nhã, do Nhà XB Hội Nhà Văn ấn hành tháng 10 năm 2024. Cầm tập thơ lên tôi đọc đi đọc lại đôi lần, thấy hay hay, cái dễ nhận ra là tâm tư tình cảm của tác giả đã gởi trọn vào đây! Về quê hương về suy tư, về cuộc sống đã được tác giả biến hoá thành những con chữ có cánh bay xa, biết nói, biết giao tiếp với mọi người. Trong đó, sự cảm nhận rất mới với Thơ.
Xem thêm
Sắc thái Thời gian và cảm xúc Hoài niệm trong tập thơ Khi tâm hồn đầy nắng của Biện Tiến Hùng
Tập thơ Khi tâm hồn đầy nắng của Biện Tiến Hùng không chỉ là một tuyển tập gồm 107 bài thơ, mà còn là một tấm gương phản chiếu sinh động thế giới nội tâm phong phú và sâu lắng của thi sĩ. Bằng một giọng điệu trữ tình, chân thành và đượm màu ký ức, Biện Tiến Hùng đã khéo léo kiến tạo một không gian nghệ thuật nơi thiên nhiên, thời gian và con người hòa quyện vào nhau, tạo nên một bản giao hưởng cảm xúc đa tầng, một dòng chảy liên hồi của cảm xúc. Sức hấp dẫn của tập thơ nằm ở cách tác giả nhân hóa thời gian và biến hoài niệm thành chất liệu thi ca, qua đó không chỉ tái hiện một khung cảnh đã qua mà còn khơi gợi những nỗi niềm chung của độc giả về sự phù du của đời sống của kiếp người trong cõi nhân sinh.
Xem thêm
Cái “ngông” của Nguyễn Công Trứ
Thượng Uy Viễn – Nguyễn Công Trứ là một hiện tượng đặc biệt trong thời kỳ trung đại. Đời ông đầy giai thoại, mà giai thoại nào cũng cho thấy bản lĩnh sống, trí tuệ, triết lý nhân văn sâu sắc nhưng cũng rất hóm hỉnh, bình dân…
Xem thêm
Hơi thở cuộc sống trong thơ Nguyễn Kim Thanh
Trong hành trình sáng tạo của mỗi nhà văn đến với văn chương thì “ngôn ngữ là yếu tố thứ nhất của văn học” để làm nên tác phẩm. Ngôn ngữ trong thơ (trữ tình), truyện (tự sự) và kịch (kịch bản văn học) đều có sự giống và khác nhau. Cùng với sự đam mê, năng khiếu, và “thiên phú” (trời cho) thì mỗi tác giả có sự thành công ở những thể loại khác nhau. Có người sáng tác thơ hay nhưng viết truyện lại dở và ngược lại có người viết truyện hay nhưng thơ thì không ra gì. Lại có người thành công ở nhiều thể loại: thơ, truyện, kịch, ký, lý luận phê bình. Nhà văn Nguyễn Kim Thanh là cây bút chuyên viết truyện ngắn, tiểu thuyết, tản văn, bút ký và đã xuất bản bốn tác phẩm văn xuôi. Nhưng nay chị lại “thử sức” sang thể loại thơ với tập thơ đầu tay “Giọt nước mắt thủy tinh” có 30 bài.
Xem thêm
Nỗi buồn chiến tranh - và cách nhìn về việc đổi mới dạy học văn trong nhà trường
Vừa qua, tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh của nhà văn Bảo Ninh được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch vinh danh là một trong 50 tác phẩm tiêu biểu của văn học Việt Nam 50 năm qua đã tạo nên nhiều tranh luận trái chiều. Nhiều ý kiến cũng đã đặt ra vấn đề là có nên đưa tác phẩm này vào sách giáo khoa Chương trình Giáo dục phổ thông 2018 hay không. Là những người đã từng học văn qua nhiều lần thay sách và là những người đang dạy môn văn nhiều năm trong nhà trường phổ thông, chúng tôi có một số suy nghĩ trong cách nhìn về việc đổi mới dạy học văn trong nhà trường về Nỗi buồn chiến tranh với tính chất là “những người trong cuộc”.
Xem thêm
Văn học đương đại Trung Quốc từ lăng kính các giải thưởng Hội Nhà văn (2015 - 2025)
Nhìn chung, hệ thống giải thưởng Hội Nhà văn Trung Quốc giai đoạn 2015 - 2025 đã làm nổi bật vai trò “điều hướng” và “chuẩn hóa” của mình trong việc thiết lập các tiêu chí thẩm mĩ, định hình phong cách sáng tác và thúc đẩy tương tác giữa văn học - học thuật - công chúng. Điều này cho thấy một mô hình văn học với định hướng chiến lược - kết hợp giữa nhu cầu nghệ thuật, định hướng chính sách và cơ chế truyền thông - đang ngày càng chiếm vị trí trung tâm trong đời sống văn hóa đương đại Trung Quốc.
Xem thêm
Chân dung tâm hồn của nhà thơ Nguyên Bình qua “Mật ngữ trắng đen”
“Mật ngữ trắng đen” (NXB Thuận Hóa, 2025) của nhà thơ Nguyên Bình, hội viên Hội Nhà văn TP.HCM, là một thế giới thi ca đầy suy tưởng, nơi ánh sáng và bóng tối, mộng mị và hiện thực, nỗi đau và niềm yêu thương luôn song hành, soi chiếu vào nhau. Tựa như cái tên Mật ngữ trắng đen, thơ Nguyên Bình gợi cảm giác về sự đối lập, nhưng không phải để phân định ranh giới thiện ác, buồn vui, mà để khai mở một cõi cảm xúc và nhận thức đa chiều về tình yêu, cuộc sống, con người. Ở mỗi bài thơ, tập thơ của anh đều ẩn chứa một lớp nghĩa nhân sinh sâu sắc.
Xem thêm
Quan điểm của Nguyễn Đình Chiểu đối với Phật giáo
Nguyễn Đình Chiểu (1822-1888) là một nhà Nho tuy đỗ đạt không cao nhưng cụ là một nhà Nho đức nghiệp, một con người trong ba tư cách: một nhà thơ, một thầy giáo và một thầy thuốc suốt đời vì dân vì nước.
Xem thêm
Thơ Nguyễn Bình Phương – Tiểu luận của Thiên Sơn
Việc làm thơ của Nguyễn Bình Phương như một sự bừng lóe của linh giác. Mỗi lần cầm bút viết là khám phá cái thế giới lạ lùng, huyền bí như thế giới của giấc mơ. Mà làm thơ, như anh, chính là đang theo đuổi những giấc mơ. Như bước vào một cảnh giới kỳ lạ, với cách nhìn, cảnh cảm và cách nghĩ khác, xa lạ với hầu hết mọi người.
Xem thêm
Văn học và dân tộc như một vấn đề học thuật
Kết nối ngôn ngữ, văn học với sự tồn tại một dân tộc đã là một thực hành phổ biến trong đời sống tri thức ở châu Âu từ nửa đầu thế kỉ XVIII. Một dân tộc là lí tưởng khi nó thống nhất tất cả những người nói cùng một ngôn ngữ trong một lãnh thổ chung, từ đó tạo thành một quốc gia - dân tộc. Văn học, với tư cách là hiện thân rõ ràng và lâu đời nhất của ngôn ngữ một dân tộc, có vai trò như là yếu tố ràng buộc và thống nhất. Nhà phê bình văn học Hoa Kì René Wellek viết: “Văn học vào thế kỉ XVIII bắt đầu được cảm thấy như là tài sản quốc gia, như là một sự thổ lộ tâm trí dân tộc, như là một phương tiện cho quá trình tự xác định của dân tộc”(1).
Xem thêm
Nhà văn Thomas Mann: Bậc thầy của mâu thuẫn
Xuất bản lần đầu vào năm 1924, Núi thần nhanh chóng trở thành cuốn sách bán chạy và được cho là tiểu thuyết tiếng Đức có ảnh hưởng bậc nhất thế kỉ 20. Nhưng ít ai biết nó được viết ra trong sự gián đoạn của chiến tranh và thay đổi của thời đại.
Xem thêm
“Những ngọn gió biên cương” - Khúc sử thi đi qua căn bếp có mùi nhang
Bài đăng trên Tạp chí Diễn đàn Văn nghệ Việt Nam, số 12/2025.
Xem thêm
Ngọn gió chiều thổi qua “Nắng dậy thì”
Dòng thời gian sáng, trưa, chiều, tối đã chảy vào văn thơ bao thời theo cách riêng và theo cái nhìn của mỗi người cầm bút. Nguyễn Ngọc Hạnh đã thả cách nhìn về phía thời gian qua những sáng tác của ông. Thâm nhập vào không gian thơ trong Nắng dậy thì*, bạn đọc sẽ nhận thấy cảm thức thời gian của một thi sĩ ở tuổi đang chiều.
Xem thêm
Văn chương Nobel và thông điệp nhân văn
“Không chỉ ngày nay loài người mới khốn khổ? Chúng ta luôn luôn khốn khổ. Sự khốn khổ gần như đã trở thành bản chất của con người (Osho, Chính trực, Phi Mai dịch, Nxb Lao động, 2022, tr.14). Thế giới ngày càng bất an, con người ngày càng mỏng mảnh. Sức chống cự của con người giảm thiểu trước quá nhiều biến động: chiến tranh, dịch bệnh, thiên tai; đứt gãy cộng đồng, sự đơn độc, cái chết. Vì con người, dòng văn học chấn thương ra đời. Cũng vì con người, xu hướng văn học chữa lành hình thành vào thế kỉ XXI.
Xem thêm
Những nét đẹp văn hóa truyền thống Việt Nam trong “Mùa lá rụng trong vườn” của Ma Văn Kháng
Trong hành trình trở về cội nguồn, Ma Văn Kháng đã dựng nên nhiều chân dung cao đẹp tiêu biểu cho truyền thống ân nghĩa thuỷ chung của dân tộc. Nhưng nổi bật giữa bản đồng ca trong trẻo ấy là nhân vật chị Hoài - một con người coi “cái tình, cái nghĩa” là quý nhất. Hình ảnh chị Hoài trở về thăm và ăn tết với gia đình chồng cũ vào chiều ba mươi tết đã gây xúc động lòng người, để lại nhiều tình cảm đẹp đẽ cho bao thế hệ độc giả.
Xem thêm
Đọc ‘Bão’ – Ánh sáng nhân tâm giữa cơn bão thời cuộc
Tiểu thuyết Bão của PGS.TS, nhà văn Nguyễn Đức Hạnh được nhà văn Phan Đình Minh tiếp cận trên cả ba phương diện: nội dung xã hội, nghệ thuật tự sự và chiều sâu nhân văn.
Xem thêm
Khơi thông điểm nghẽn, đổi mới tư duy và cơ chế để văn học nghệ thuật phát triển
Văn học nghệ thuật luôn giữ vị trí đặc biệt trong tiến trình phát triển của đất nước, là nền tảng tinh thần vững chắc cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Xem thêm
Hạt gạo tháng Giêng – Nỗi nhớ xuân từ những phòng trọ xa quê
Trong mạch thơ viết về mùa xuân, nhiều thi sĩ đã chọn gam màu tươi sáng, ăm ắp hội hè và sum họp. Nhưng với nhà thơ Xuân Trường, mùa xuân trong bài “Hạt gạo tháng Giêng” lại mang sắc điệu trầm buồn, thấm đẫm nỗi xa quê của những phận người lao động nghèo nơi đô thị.
Xem thêm