TIN TỨC

Hơn hai thế kỷ vẫn nghe tiếng Nguyễn Du

Người đăng : phunghieu
Ngày đăng: 2025-12-12 22:02:58
mail facebook google pos stwis
12 lượt xem

Hơn hai trăm năm đã trôi về phía sau lịch sử nhưng tên tuổi Nguyễn Du vẫn như ngọn hải đăng soi rọi vào đời sống tinh thần dân tộc. Từ những nếp nhà cổ ở Tiên Điền, đến các giảng đường văn chương, từ câu hát ru của người mẹ đến những trang sách mỏng lật qua tay lớp trẻ, bóng dáng người thi sĩ bạc mệnh vẫn hiện hữu, lặng lẽ mà bền bỉ.

Có lẽ không nhiều nhân vật trong lịch sử văn hóa Việt Nam để lại dấu ấn sâu thẳm như ông, người mang nỗi đau nhân thế kết tinh thành tuyệt tác “Truyện Kiều”, biến mọi biến cố đời mình thành thớ sợi rung lên cùng vận nước.

Tôi về Tiên Điền vào một buổi chiều cuối thu, khi mặt trời vừa tắt sau rặng phi lao, còn gió thì rì rầm như đang kể lại điều gì từ thời quá vãng. Vùng đất Nghi Xuân (Hà Tĩnh) trầm mặc, những lối nhỏ phủ lá bàng khô, những bờ tre vút lên bên dòng Lam xanh ngắt. Ở đó, người ta nói rằng chạm vào bước chân Nguyễn Du là chạm vào cái run rẩy của lịch sử, một lịch sử không ồn ào chiến công mà lặng lẽ thấm vào đời sống của muôn kiếp nhân gian.

Nguyễn Du - dấu chân giữa biến thiên thời cuộc

Nguyễn Du (1765-1820) sinh ra trong một gia đình đại quý tộc nhưng cuộc đời lại nghiệt ngã hơn bất kì phận người bình thường nào. Cha ông, cụ Hoàng giáp Nguyễn Nghiễm, từng làm Tể tướng triều Lê là ánh hào quang mà cậu bé Nguyễn Du từng vin vào để hiểu về chữ “trung”. Nhưng rồi cha mất sớm, mẹ ông cũng theo về cõi khác khi ông còn chưa kịp hiểu hết nỗi cô độc của trẻ mồ côi. Khi phong kiến Lê - Trịnh rạn nứt, biến loạn liên miên, Nguyễn Du đi giữa những đổ vỡ, tuổi trẻ của ông bị xé rách bởi sự lỡ dở của thời cuộc.

Chính quãng đời ấy đã gieo vào ông nỗi “thương thân thương người” sâu sắc. Bởi chỉ những ai từng trải qua mất mát, từng chứng kiến trăm nghìn kiếp người trôi dạt mới viết được những câu Kiều đầy máu của thân phận:

Đau đớn thay phận đàn bà,
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung.

Có lúc đọc lại những câu thơ này, tôi tự hỏi: liệu có nhà văn, nhà thơ nào của dân tộc gánh trên vai nỗi buồn của cả thời đại nhiều đến vậy? Và phải chăng chính sự bầm dập ấy đã khiến Nguyễn Du trở thành Nguyễn Du - một Nguyễn Du không thể lặp lại.

 

Tượng đại thi hào Nguyễn Du tại khu tưởng niệm ở Tiên Điền, Nghi Xuân, Hà Tĩnh.

 

Đi qua các trạm dấu chân Nguyễn Du, ta thấy ông không chỉ đi giữa địa lý mà đi giữa số phận. Từ những năm tháng “mười năm gió bụi” ở Thái Bình, Sơn Nam, đến khi làm quan bất đắc dĩ triều Nguyễn, ông mang theo nỗi băn khoăn không dứt về thế sự. Người đời thường kể rằng ông hay đứng lặng ở bến sông, nơi thuyền buông neo, mắt nhìn xa xăm như đang đối thoại với những linh hồn lang thang. Những chuyến đi sứ Trung Hoa là dấu mốc khiến tâm hồn Nguyễn Du thêm trĩu nặng. Đứng trước mồ Đạm Tiên, ông viết:

Bất tri tam bách dư niên hậu,
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như?

Đó không chỉ là câu hỏi về sự vô thường, mà là nỗi cô đơn tột cùng của người nghệ sĩ: ba trăm năm sau, còn ai khóc ông? Nhưng rồi lịch sử ấy thật diệu kỳ: hai trăm năm đã trôi, không phải chỉ một vài người khóc, mà cả dân tộc nhớ thương ông. Những người trẻ thuộc làu từng câu Kiều, những cụ già chống gậy vẫn khe khẽ ngân nga câu lẩy đầy thương nhớ, những học giả trên khắp thế giới nghiên cứu tác phẩm của Nguyễn Du như một biểu tượng văn học Đông Á.

“Truyện Kiều” - tấm gương soi thân phận Việt

Đi giữa khu di tích Tiên Điền hôm nay, tôi dừng lại trước căn nhà nhỏ với hàng cau đứng lặng. Trong không gian mênh mang ấy, tôi bỗng nhớ đến lời nhà nghiên cứu Nguyễn Du từng nói: “Truyện Kiều” không chỉ là tác phẩm văn học mà là tâm hồn Việt, là tiếng khóc của dân tộc.

Và quả đúng như vậy.

Người Việt có thể khác nhau ở vùng miền, giọng nói, phong tục; nhưng nhắc đến Kiều, tất cả như tìm được tiếng chung của cảm xúc. Từ niềm thương phận tài hoa, đến nỗi căm giận bất công, từ sự khát khao yêu thương đến những đoạn trường đớn đau, “Truyện Kiều” chứa trong đó toàn bộ phổ cảm xúc của một dân tộc quen chịu đựng nhưng không bao giờ khuất phục.

Lật từng trang Kiều, ta bắt gặp cả “nhân tình thế thái” lẫn triết lý về chữ “tâm”. Ta gặp cái đẹp mong manh, cái ác lẩn khuất, sự phản bội, tình tri kỷ, đêm trăng, tiếng đàn, những giọt nước mắt - tất cả hòa thành một bản trường ca của đời sống. “Truyện Kiều” tồn tại không chỉ vì nghệ thuật ngôn từ kiệt xuất mà vì nó chạm đến điểm yếu mềm nhất của con người: nỗi đau và niềm hy vọng. Đó là lý do mà suốt hai thế kỷ, tác phẩm vẫn làm người đời ngậm ngùi:

Khi tỉnh rượu, lúc tàn canh,
Giật mình mình lại thương mình xót xa

Chiều muộn, tôi ghé thăm khu lăng mộ. Con đường dẫn vào phủ đầy lá thông, gió thổi thành những tiếng rì rào như lời chào của đất trời. Trên bia đá, dòng chữ “Thanh Hiên thi tập” khắc mờ, như muốn nhắc con người đời sau đừng chỉ nhớ Nguyễn Du qua Kiều, mà hãy nhớ cả những câu thơ ông viết trong cô quạnh, day dứt trước biến động lịch sử.

Đứng trước phần mộ người thi sĩ, tôi bất giác cúi đầu. Không phải vì sự uy nghi của một nhân vật lịch sử, mà vì thấy chính mình cũng như bao người đều là những thân phận vô thường mà Nguyễn Du từng thương xót. Từ nơi an nghỉ của ông nhìn ra, những cánh đồng xanh ngắt trải dài, dòng Lam giang lững lờ chảy. Có điều gì đó rất thực, rất đời thường; nhưng cũng có điều gì vô hình, khiến lòng người chùng xuống, thấy như vừa chạm vào rìa của lịch sử.

Người dân Tiên Điền kể rằng sáng sớm hay lúc hoàng hôn, nhiều du khách tự nhiên đứng lặng hàng chục phút trước mộ Nguyễn Du mà không rõ vì sao. Có lẽ bởi đứng nơi này, ai cũng thấy mình bé nhỏ trước tấm lòng bao dung của ông, người đã “khóc cho trăm họ, khóc cho muôn loài”.

Hơn hai trăm năm - sự trở lại của một tâm hồn bất tử

Hơn hai trăm năm kể từ ngày Nguyễn Du rời cõi tạm, thời gian tưởng chừng đã đủ dài để những dấu vết phàm trần trôi vào quên lãng. Thế nhưng, thật lạ kỳ: càng đi xa khỏi thời đại của ông, con người hôm nay lại càng thấy ông gần gũi. Ông trở lại bằng một cách lặng lẽ hơn, bền bỉ hơn bằng những câu thơ len lỏi trong đời sống, bằng những cảm xúc mà người đọc nhận ra ở chính mình.

Trong những lớp học nhỏ ở miền quê, học sinh vẫn ngắt quãng từng câu Kiều để luyện đọc, để hiểu nghĩa, rồi để thuộc lòng. Ở những thành phố lớn, người trẻ ghi lên mạng xã hội đôi đoạn thơ mà họ thấy như viết cho chính cuộc đời mình. Trong những đêm văn nghệ dân gian, tiếng hát Kiều, tiếng hát ca trù cất lên, như kéo quá khứ về ngồi cạnh hiện tại. Và trên các bục giảng của những học viện, trường đại học, hàng trăm đề tài mỗi năm vẫn tiếp tục nghiên cứu Nguyễn Du dẫu tưởng như đã nói mãi, nói hoài, vẫn chưa thể cạn.

Bởi Nguyễn Du không chỉ để lại một tác phẩm, mà để lại một “hệ sinh thái cảm xúc” của dân tộc. Kiều không chỉ là Kiều mà là biểu tượng của bao phận đời chịu đựng, của sự hiền lành, sự hy sinh, của niềm tin mong manh mà mạnh mẽ. Đọc Kiều để thương người, nhưng cũng để soi vào chính mình, để hiểu tại sao nỗi buồn của 200 năm trước vẫn có thể rung lên trong lồng ngực hôm nay.

Nhiều học giả nói rằng sở dĩ Nguyễn Du bất tử vì ông viết bằng trái tim của cả nhân loại. Nhưng tôi nghĩ ông bất tử vì điều giản dị hơn: ông viết bằng đôi mắt ướt. Đôi mắt ấy nhìn thấu những nếp nhăn của đời người, những khổ đau bị bỏ quên, những kiếp người bé nhỏ bị cuốn vào xoáy lốc thời cuộc. Ông viết để “khóc hộ cho đời” và đời vì thế mà nhớ ơn ông.

Mỗi lần đọc Kiều, ta thấy mình kiên nhẫn hơn, nhân ái hơn, lặng lẽ hơn trong cách đối diện với bất công và thử thách. Cũng giống như dòng Lam giang đi cùng lịch sử, thơ Nguyễn Du đi cùng con người Việt qua từng thời kỳ, để nhắc ta rằng dù biến động đến đâu, cái đẹp và cái thiện vẫn có con đường để nảy nở. Và bởi vậy, hai trăm năm không làm Nguyễn Du xa đi; nó chỉ khiến bóng hình ông hiện lên rõ hơn như một vì sao cố định trên bầu trời văn hóa Việt, dẫn chúng ta bước tiếp trong hành trình kiếm tìm lòng nhân ái của chính mình.

Trước khi rời Tiên Điền, tôi ngoái lại lần cuối. Trời đã tím dần. Một lớp sương mỏng phủ lên rặng tre, còn tiếng chim cuối ngày như đang gọi nhau về tổ. Trong khoảnh khắc ấy, tôi chợt hiểu vì sao hơn hai trăm năm qua, người Việt vẫn không thôi nhắc đến tên Nguyễn Du. Ông không chỉ là đại thi hào, là danh nhân văn hóa thế giới, mà là “bạn tâm hồn” của dân tộc, người đã gói ghém cả nỗi đau và niềm hy vọng vào những câu thơ sống mãi. Lịch sử có thể đổi thay, vương triều có thể qua đi, nhưng còn con người thì còn “Truyện Kiều”.

Và còn “Truyện Kiều” thì Nguyễn Du vẫn hiện diện lặng lẽ, nhân hậu như một trái tim bất tử của văn hóa Việt.

Nguyễn Thành/VNCA

Bài viết liên quan

Xem thêm
Những bài thơ khắc trong hang động: Nét đẹp văn hóa xứ Thanh
Vẻ đẹp của quê hương Xứ Thanh từ xa xưa đã từng được khắc họa bằng những bài thơ của các bậc vua, chúa và tao nhân mặc khách đến với quê hương xứ Thanh như muốn gửi lại muôn sau điều tâm đắc về mảnh đất này.
Xem thêm
Đi tìm dấu tích mộ nữ sĩ Hồ Xuân Hương
Một hành trình nghiên cứu công phu, giàu tâm huyết, góp phần giải mã thêm bí ẩn cuối cùng của Hồ Xuân Hương – người phụ nữ tài hoa trong lịch sử thi ca Việt Nam.
Xem thêm
Hành trình tri ân và sáng tạo của Đoàn Văn nghệ sĩ TP. Hồ Chí Minh (phần 1)
Trong chuỗi hoạt động thực tế sáng tác năm 2025, Đoàn Văn nghệ sĩ TP. Hồ Chí Minh do KTS Nguyễn Trường Lưu, Chủ tịch Liên hiệp các Hội Văn học Nghệ thuật TP. Hồ Chí Minh, làm Trưởng đoàn, đang thực hiện chuyến đi mang chủ đề “Từ Bến Nhà Rồng đến Ba Đình” (từ ngày 17 đến 25/10/2025).
Xem thêm
Những đặc trưng của nền văn hóa Việt Nam
Tóm tắt: Đặc trưng của nền văn hóa Việt Nam chính là đặc điểm nổi bật, thuộc tính riêng của nền văn hóa khi ta đặt nó so sánh với các nền văn hóa khác trong khu vực và quốc tế. Vận dụng cách tiếp cận địa lý - lịch sử, những đặc trưng của nền văn hóa Việt Nam kết tinh thành quả lao động, đấu tranh hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc, gồm: Nền văn hóa hình thành từ nền tảng nông nghiệp trồng lúa nước ở miền sông nước và biển đảo; đề cao giá trị văn hóa gia đình truyền thống; đậm tính cộng đồng, tự trị của văn hóa làng xã; thấm đậm, bao trùm tinh thần yêu nước, ý thức quốc gia - dân tộc; đề cao nữ quyền; trọng nông, xa rừng, nhạt biển; đa dân tộc, thống nhất trong đa dạng; nền văn hóa mở, thích ứng và tiếp biến hài hoà các nền văn minh nhân loại.
Xem thêm
Thiên hạ đệ nhất hùng quan
Trên đường thiên lý, dọc từ Bắc xuống Nam, nếu hỏi nơi nào có biển cả, mây trời, núi rừng đẹp nhất thì câu trả lời của nhiều người, hẳn sẽ phải là: đèo Hải Vân - Hải Vân Quan. Đúng thế, đây là con đèo nằm trên quốc lộ 1 và làm thành ranh giới tự nhiên giữa tỉnh Thừa Thiên Huế (phía Bắc) và Đà Nẵng (phía Nam).
Xem thêm
Đặc điểm của nhân vật tình báo trong tiểu thuyết tình báo, phản gián Việt Nam
Công cuộc Đổi mới (1986) do Đảng khởi xướng đã làm thay đổi diện mạo đất nước trên nhiều phương diện, trong đó có văn học nghệ thuật. Tinh thần đổi mới và giao lưu văn hóa đã làm cho hoạt động văn hóa nghệ thuật nói chung, đời sống văn học nói riêng trở nên phong phú, đa dạng và sôi nổi. Trên văn đàn, các thể loại tiểu thuyết đua nhau nở rộ, trong đó, sự xuất hiện của dòng tình báo, phản gián là một hiện tượng đáng chú ý.
Xem thêm
Bài hát hiếm hoi về sự kiện lịch sử năm 1945 của dân tộc
Thầy giáo tiếng Anh trung học ở TP. HCM Bùi Khánh Nguyên đã sáng tác một ca khúc trang trọng mang tên “Bay lên những linh hồn” dành riêng cho dịp kỷ niệm 80 năm ngày Quốc khánh của Việt Nam (2/9/1945 – 2/9/2025).
Xem thêm
Mưa đỏ và khoảng lặng của tình yêu
“Mưa đỏ” đã tái hiện trận chiến 81 ngày đêm Thành cổ Quảng Trị, nơi người lính vừa kiên cường vừa giàu tình cảm, nhưng những mạch tình yêu trong phim chỉ thấp thoáng, chưa đủ sức vang để cân bằng với khốc liệt chiến trường.
Xem thêm
Sân khấu cho người khiếm thị: Nơi kết nối tâm hồn
Mô hình sân khấu cho người khiếm thị không quá xa lạ với khán giả trên thế giới, thường được biết đến với thuật ngữ “accessibility performance” - biểu diễn tiếp cận, dịch vụ đáp ứng khả năng tiếp cận cho mọi người, bao gồm cả người khuyết tật.
Xem thêm
Linh thiêng và tươi đẹp nơi cột mốc Xà Xía
Hà Tiên là một miền đất xinh xắn, thơ mộng ở cuối trời Tây Nam của Tổ quốc. Miền đất biên viễn này rất ấn tượng, không rộng lớn lắm nhưng địa hình giống như một Việt Nam thu nhỏ. Nơi đây có đủ sông ngòi, hang động, đồi núi, đồng bằng, vũng vịnh, hải đảo… Bởi thế, từ lâu, người ta đã đồn đại, ví von cảnh đẹp ở Hà Tiên tựa như “thiên đường dưới hạ giới”, ngắm vui mắt mà “không chán trong lòng”.
Xem thêm
Thuần khiết và ám ảnh
Là một trong những tiếng nói nữ nổi bật của văn học đương đại Nhật Bản, Ogawa Yoko chạm đến độc giả bằng lối viết dịu dàng, thấm đẫm cảm xúc và chiều sâu tinh tế. Kết tinh thầm lặng chính là kết tinh trọn vẹn của chất văn ấy – thuần khiết, thầm lặng nhưng ám ảnh.
Xem thêm
Nguyễn Bỉnh Khiêm trong dòng chảy văn hóa dân tộc
Sách Lịch triều hiến chương loại chí viết về Trạng Trình Quốc Công như sau: “Vua Mạc tôn như bậc thầy, khi trong nước có việc quan trọng vẫn sai sứ đến hỏi ông. Có lúc còn triệu ông về kinh để hỏi mưu lớn. Ông học rộng, hiểu sâu nghĩa lý Kinh Dịch, mưa nắng, họa, phúc việc gì cũng biết trước”. Nguyễn Bỉnh Khiêm còn có nhiều môn đệ tiếng tăm lẫy lừng như Nguyễn Dữ, Lương Hữu Khánh, Phùng Khắc Khoan, Nguyễn Quyện, Giáp Hải, Trương Thời Cử, Đinh Thời Trung, Nguyễn Văn Chính… Những người này có sở học đạt đến trình độ uyên bác và đều là danh thần vang tiếng một thời. Ngày nay nhìn lại, chúng ta thấy bóng dáng Nguyễn Bỉnh Khiêm rất lớn, là cây đại thụ che mát cả một khoảng sân rộng của lịch sử và văn học thời kỳ trung đại.
Xem thêm
Những kiếp người đến bờ bên kia...
11 nhân vật với số phận, nghề nghiệp khác nhau, cùng xuôi đến bờ bên kia trên một chuyến đò ngang. Mỗi người đều mang theo nhiều triết lý để nhìn cuộc đời nên vì thế mà con đò cũng nặng trĩu...
Xem thêm
Nguyễn Bắc Sơn: Nhà văn tiên phong trong đổi mới
Nguyễn Bắc Sơn bước vào lĩnh vực tiểu thuyết sau khi đã cho ra mắt hơn mười tác phẩm đủ các thể loại bút ký, tiểu luận, truyện ngắn. Đứng về phương diện nào đó, có thể xem bộ ba tiểu thuyết Luật đời và cha con, Lửa đắng, Gã tép riu - Vỡ vụn - Cuộc vuông tròn là sự tổng kết đời văn của anh.
Xem thêm
Ký ức chiến tranh nhìn từ lăng kính nữ
Chiến tranh không khép lại vào năm 1975 mà tiếp tục vang vọng trong ký ức của những thế hệ di cư. Với thế hệ 1.5, ký ức ấy không đến từ trải nghiệm trực tiếp mà được truyền qua lời kể của mẹ, của bà, của những thân thể mang thương tích lịch sử. Trong Những người đàn bà mắt đen và Một thoáng ta rực rỡ ở nhân gian, Viet Thanh Nguyen và Ocean Vuong không chỉ viết lại ký ức chiến tranh từ bên lề, mà còn khẳng định quyền được kể chuyện của những người từng bị câm lặng. Văn chương, từ đó, trở thành không gian của đối thoại, của tự chữa lành và giành lại bản sắc.
Xem thêm
Một thoáng vui buồn trên cù lao Biện
Từ trạm đèn Biển Sơn nhìn quanh bốn phía chúng tôi thấy bán đảo Biện Sơn (phường Nghi Sơn, tỉnh Thanh Hóa) hiện ra giống như một cánh tay khổng lồ vươn về phía biển, ôm gọn vào lòng một vụng nước xanh màu ngọc bích rất đẹp. Cũng trên ngọn đèn biển ấy, chúng tôi trông về phía cầu cảng đang chạy ra xa, phía ngoài vụng nước mênh mông xanh màu ngọc bích, thấy khu kinh tế Nghi Sơn nổi bật lên những khu phố hiện đại với các nhà máy nhiệt điện, nhà máy lọc dầu và nhà máy xi măng, từng nổi tiếng cả nước.
Xem thêm
Về 3 vị tướng vừa được truy tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân
Bài viết về các anh hùng của Trung tướng Nguyễn Đức Hải
Xem thêm