- Tư liệu văn học
- Thiên hạ đệ nhất hùng quan
Thiên hạ đệ nhất hùng quan
(Vanchuongthanhphohochiminh.vn) - Trên đường thiên lý, dọc từ Bắc xuống Nam, nếu hỏi nơi nào có biển cả, mây trời, núi rừng đẹp nhất thì câu trả lời của nhiều người, hẳn sẽ phải là: đèo Hải Vân - Hải Vân Quan. Đúng thế, đây là con đèo nằm trên quốc lộ 1 và làm thành ranh giới tự nhiên giữa tỉnh Thừa Thiên Huế (phía Bắc) và Đà Nẵng (phía Nam).
Trên cung đường uốn lượn lên cung đèo Hải Vân. Ảnh tác giả cung cấp.
So với tứ đại đỉnh đèo ở Tây Bắc (Ô Quy Hồ cao khoảng 2000 m, dài khoảng 50 km; Mã Pì Lèng cao khoảng 1200 m, dài khoảng hơn 20 km; Khau Phạ cao khoảng 1500 m, dài khoảng 35 km; Pha Đin cao khoảng 1650 m, dài khoảng hơn 32 km) đèo Hải Vân có thể không bằng (cao khoảng 500 m, dài khoảng 20 km) nhưng đường đi quanh co hiểm trở, núi ngàn hùng vĩ thì chắc cũng không kém phần nào. Đặc biệt, con đèo này nằm kề bên biển biếc thơ mộng nên cảnh núi khuất trong mây, chân dầm nước biển thì cả bốn con đèo kia sẽ không thể nào có được. Chẳng thế, khi ngang qua nơi này, năm Canh Thìn - 1470, dừng chân ngắm biển trời non nước tráng lệ, vua Lê Thánh Tông đã phải thốt lên và ban cho sáu chữ: “Thiên hạ đệ nhất hùng quan”. Và rồi, đến thời nhà Nguyễn, triều đình lại sai người khắc hình con đèo lên Dụ Đỉnh (đỉnh thứ 8 trong Cửu Đỉnh) thờ trong sân Thái Miếu. Đến năm Minh Mạng thứ 7 – 1826, ở cửa ải trên đỉnh đèo, mặt nhìn về phía Đà Nẵng, nhà vua lại cho chạm đủ sáu chữ mà vua Lê thời xưa từng ban tặng cho chốn này.
Nhắc lại đôi điều về con đèo trong mắt người xưa như vậy để thấy được cảnh quan mỹ lệ tuyệt đối của thắng cảnh Hải Vân. Theo các nhà địa lý, đèo Hải Vân nằm trên mạch núi bắt nguồn từ dãy Trường Sơn hùng vĩ đâm ngang ra biển. Từ trên cao nhìn xuống, người ta sẽ thấy Hải Vân như dựa lưng vào dãy Bạch Mã và nhìn ra phía Đông Hải. Các núi Đại Tu Nông, Tiểu Tu Nông, núi Tỉa, núi Kiên Kiên … tầng tầng, lớp lớp; trùng trùng, điệp điệp … tựa như đang xô đẩy nhau, lao về phía biển xanh. Đứng trên đỉnh đèo, nhìn về mạn Bắc, buổi nao trời quang, người ta sẽ thấy nhà thờ Loan Lý cùng những làng chài thanh bình và vịnh Lăng Cô như viên ngọc sáng với những bãi cát trắng mịn, trải dài bên biển nước mênh mông, xanh biếc; hiện lên trong tầm mắt, ở phía dưới chân đèo tựa chốn bồng lai giữa miền nhân gian; khiến cho lòng người không khỏi bị quyến rũ, mê mải. Quay lại mạn Nam, ta sẽ thấy thành phố Đà Nẵng sầm uất với những cao ốc chọc trời cùng với bán đảo Sơn Trà, cảng Tiên Sa, đảo Cù Lao Chàm… ôm những bãi biển trong xanh, rực rỡ cát vàng; lộng lẫy tựa như thiếu nữ đang tuổi xuân thì, tràn trề nhựa sống. Bây giờ đi lên đèo Hải Vân người ta không còn thấy khiếp đảm như câu ca thủa nào: “Đi bộ thì khiếp Hải Vân/Đi thuỷ thì sợ sóng thần hang Dơi”.
Nhắc đến câu ca dao, bất chợt, trí tưởng tượng trong tôi lại hình dung ra đoạn đường đưa Huyền Trân Công Chúa về nhà chồng cách đây hơn bảy trăm năm ở trên đèo, thời kỳ hai châu Ô, Rí của vương quốc Chăm Pa và sau này dâng cho nhà Trần, trở thành biên giới giữa hai nước Đại Việt và Chiêm Thành. Cuộc hôn nhân chính trị này ít nhiều sử sách hay những huyền thoại dân gian vẫn còn lưu lại. Nghĩ thế, hoá ra con đèo cũng chính là một chứng nhân lịch sử của đám cưới con gái vua Trần. Ngày đó, chắc chắn con đường thiên lý Bắc Nam ấy trên đèo rất khó đi và nguy hiểm. Có lẽ, khi ấy nó chỉ là lối mòn tự nhiên do “người ta đi mãi thì thành đường” mà thôi. Con đường trên những triền núi rợn ngợp, đầy hiểm trở; với một bên là vách đá cheo leo, cây cối rậm rịt với một bên là khe sâu thăm thẳm, sơn lam chướng khí. Chẳng những thế, giữa núi rừng hoang vu, lạnh lẽo; ở lưng chừng trời còn có biết hổ báo cùng các loại thú dữ khác rình rập bắt người. Người ta truyền nhau rằng, ngày xưa, lúc trời chạng vạng hay rạng đông, thường có một bầy hổ ngồi thè lưỡi chầu chực trên những tảng đá bên đường để đợi con mồi đi qua. Bầy hổ này đã lấy đi sinh mạng của biết bao người. Cho nên, mỗi khi có việc phải qua đèo, người ta thường rủ nhau đi thành đoàn và mang theo vũ khí để phòng thân. Chuyện này thực hư ra sao bây giờ chắc khó phân xử tường minh nhưng chắc chắn trên đèo hiện vẫn còn những ngôi miếu để thờ thần hổ. Khi xưa, mỗi lần qua đây, người ta thường phải dâng lễ vật cúng bái đặng mong ngài giúp đỡ cho được an lành. Đường xá khó đi, hiểm trở như vậy cho nên, năm 1719, chúa Nguyễn Phúc Chu, ngang qua đèo Hải Vân đã phải thốt lên cảm tác: “Việt Nam xung yếu thử sơn điên/Tuyệt lĩnh hoàn như Thục đạo thiên/Đãn kiến vân hoành tam tuấn lĩnh/Bất tri nhân tại kỷ trùng thiên …” (Ải lĩnh xuân vân) - tác giả Đinh Bá Truyền dịch thơ rằng: “Việt Nam xung yếu núi này/ Khác chi đất Thục non xây bóng cùng/ Ba từng mây phủ trùng trùng/ Chẳng hay người ở bên cung trời nào? …” (Núi Ải mây xuân). Do thế địa hiểm yếu, đèo Hải Vân được coi như bức trường thành bảo vệ biên giới phía Nam ở thời Trần và kinh đô Thuận Hoá thời nhà Nguyễn. Cho nên, trên đỉnh đèo, nhà Trần đã cho dựng một cửa ải; sau này nhà Nguyễn tiếp tục trùng tu và mở rộng, gọi là Hải Vân Quan. Trong suốt trường kỳ lịch sử, Hải Vân Quan được sử dụng để làm đài quan sát nhằm bảo vệ biên cương (đứng trên đỉnh đèo có thể nhìn được toàn bộ khu vực trên biển và trên đất liền); đồng thời đây cũng là yết hầu của con đường bộ từ phía Nam ra Huế và có thể khống chế được cả con đường trên biển đi dưới chân núi. Vì vậy nhà Nguyễn còn cho lập đồn binh, trạm gác để phòng thủ, bảo vệ con đèo và đường trạm. Nghe kể, trước thời nhà Nguyễn, muốn vượt núi Hải Vân phải đi qua ba đèo gọi là Chính Đạo, Thượng Đạo và Trung Đạo. Nhưng đến hồi tháng Hai năm Bính Tuất (1826), vua Minh Mạng đã cho xây các bậc đá để cho dễ đi hơn và làm các cửa ải canh phòng trên đỉnh đèo. Ải chính dựa vào sườn núi, có đá xếp làm thành chắn ngang, phía trước và sau đều trổ cửa. Phía trên, cửa trước, nhìn về Huế có đề ba chữ “Hải Vân Quan”; phía trên, cửa sau, nhìn về Đà Nẵng, có đề sáu chữ “Thiên Hạ Đệ Nhất Hùng Quan”. Sách “Đại Nam thực lục chính biên” chép rõ ràng về các cửa ải này như sau: “Cửa trước cao và dài đều 15 thước, ngang 17 thước 5 tấc; cửa sau cao 15 thước, dài 11 thước, ngang 18 thước 1 tấc; cửa tò vò đều cao 10 thước 8 tấc, ngang 8 thước 1 tấc”. Sau này, khoảng gần chục năm trở lại đây, Hải Vân Quan đã được nhà nước xếp hạng di tích Quốc gia (năm 2017) và do lâu ngày, nhiều hạng mục đã bị xuống cấp nên công trình này tiếp tục được đầu tư trùng tu (năm 2021). Bây giờ di tích Hải Vân Quan đã trở thành một điểm du lịch nổi tiếng. Cung đèo Hải Vân được dân phượt trong và ngoài nước đánh giá là một trong những cung đường đèo ven biển ngoạn mục nhất ở Việt Nam.
Tôi đã từng đi qua đèo Hải Vân cả bằng đường tàu hoả và đường bộ, đi trên đỉnh đèo và đi xuyên hầm qua núi. Thú thực đi đường nào cũng thấy đẹp. Đi theo đường bộ, bắt đầu từ Lăng Cô lên đến lưng đèo, đường khá dễ đi. Nhưng từ lưng đèo lên đến đỉnh đèo và sang phía bên Đà Nẵng, đường rất khó đi. Tuy vậy đây lại là đoạn đường “tuyệt đối của điện ảnh”. Nhìn trên flycam cung đường uốn lượn quanh co, mềm như dải lụa, bám vắt vẻo trên các sườn núi với những khúc cua tay áo liên tục hay đổ đèo ngoằn nghoèo theo hình chữ chi, thậm chí có chỗ quay ngoặt ngược trở lại, tưởng chừng 180 độ, vừa quay ngoắt vừa đổ dốc cực kỳ nguy hiểm. Từ ngày có đường bộ xuyên hầm qua núi, khi qua đèo Hải Vân, cơ bản xe ô tô không phải vượt đỉnh đèo, hành trình ra Bắc vào Nam trở nên an toàn hơn rất nhiều. Những tưởng như thế đường trên đỉnh đèo sẽ buồn thiu. Nhưng không, cung đường ấy, ban ngày không lúc nào vắng người, nhất là khách du lịch và dân phượt. Không đi đường bộ trên đỉnh đèo, đi ô tô xuyên hầm qua núi, đặc biệt là đi bằng tàu hoả, ta cũng sẽ được chiêm ngưỡng những cảnh đẹp có một không hai rừng biển ở Hải Vân. Qua cửa kính ô tô hay tàu hoả, vào mùa hoa (mùa hè) ta sẽ thấy trên thảm xanh mướt của lá cây rừng, trải từ những triền núi xuống mặt biển là một rừng hoa trắng như tuyết (hoa bìm trắng). Khi ấy ta có cảm giác ở Hải Vân giữa mùa hè có tuyết rơi. Ngoài vẻ đẹp của cỏ cây hoa lá, chúng ta còn được ngắm nhìn rừng núi và biển cả giao hoà với nhau rất thơ mộng. Con tàu uốn lượn, lúc thì trườn ra bên bờ biển để hiện lên trong tầm mắt một mặt nước trong xanh với hàng ngàn con sóng nhẹ nhàng, du dương xô vào các chân núi hay những bãi đá nhấp nhô bên những bờ cát vàng mịn; khi thì lại bò vào, lẩn khuất trong những rặng núi hun hút, với một bên là bờ vực một bên vách đá. Cứ vậy mà khung cảnh con đèo khi thì núi rừng, lúc lại biển khơi cùng thay nhau luân phiên bày ra trước mắt cái cảnh đẹp thần tiên; làm người ta có cảm giác cứ như thực lại như mơ. Đi dưới chân núi và đi trên đỉnh núi, mỗi cung đường có một cái thú riêng. Nhưng thích nhất, “phê” nhất, vẫn là đi đường bộ vượt qua đỉnh đèo. Nếu ở Trung Quốc, Mao Trạch Đông từng nói “Bất đáo Trường Thành phi hảo hán” thì ở Việt Nam tôi cũng muốn bắt chước câu nói của Mao để ví von hành trình trải nghiệm trên cung đèo nổi tiếng, từng được mệnh danh là “Thiên hạ đệ nhất hùng quan” rằng: “bất đáo Hải Vân phi phượt thủ”.
Chúng tôi ngang qua con đèo gặp đúng buổi giao mùa, kỳ lạ thay, trên giữa đỉnh đèo, không chỉ có ranh giới của hai miền đất, một bên Huế với sông Hương và một bên Đà Nẵng với sông Hàn mà còn có cả ranh giới của hai vùng khí hậu của một bên Bắc (phía Huế) và một bên Nam (phía Đà Nẵng). Ở phía ngoài Bắc ẩm ướt, mưa lạnh, âm u còn bên trời Nam ấm áp, khô ráo, trời quang. Bầu trời Hải Vân bên Huế sương giăng mây mờ, bên Đà Nẵng bồng bềnh mây trắng. Tiết trời như thế, nó lại làm tôi nhớ đến Đà Lạt. Ngỡ mình đang ở trên miền thông reo với tiết trời mát mẻ, lạnh se se, dưới cả một nền trời mây sương giăng mắc huyền ảo. Cứ thế, ngắm nhìn cả biển mây trắng lờ lững trôi dưới lưng chừng đèo, có lúc còn che khuất cả đại dương mênh mông xanh biếc, bất giác tôi lại nghĩ. Nếu miền Trung, mảnh đất đầy nắng, đầy gió vốn rất nhiều mây thì đèo Hải Vân với biển mây bao la kia hẳn sẽ là cái rốn, nơi mây tụ. Mây trên khắp mọi miền dường như đang kéo nhau về đây tụ hội mà làm thành một lễ hội festival rất tự nhiên. Mây trên đèo Hải Vân nhiều vô kể. Có đám xà xuống mặt đất, quấn vào bên chân, làm mờ nhân ảnh. Có đám la đà, phiêu du trên những triền núi, chạy dài xa xa về phía chân trời góc biển. Có đám lại hòa vào sương khói của vịnh Lăng Cô hay phiêu bồng trên bầu trời bên bán đảo Sơn Trà ... Và, cũng có khi, những đám mây không trôi nữa, dừng lại ít phút, tựa lưng vào nhau làm thành những bức trường thành tầng tầng, lớp lớp. Nhìn biển mây mênh mông ấy, ai không biết lại tưởng đây là bến mây hay cổng thiên đường chốn bồng lai. Như thế, nhìn trời mây ở Hải Vân, bảo sao không thú vị cho được. Bảo sao các tay săn mây lão luyện không khỏi í ới; kéo nhau lên trên đỉnh đèo, ăn chực nằm chờ để thừa cơ ra tay bấm máy. Bảo sao nam thanh nữ tú dám bất chấp đường đèo quanh co, nguy hiểm để đưa nhau đến đây hòng lưu lại một thoáng xuân thì trong những tấm ảnh. Vậy đấy, biển mây huyền ảo trên đèo Hải Vân đã làm cho không gian của đèo vừa như thực lại vừa như mơ, giống như nơi tiên cảnh. Biển mây như thế quả đúng là “Ải Vân” như cái tên mà người xưa đã từng gọi con đèo.
Chiều buông, khách du lịch đưa nhau xuống núi, đỉnh đèo dần trở về với trạng thái như vốn có của miền sơn cước. Đứng trên đỉnh đèo, nhìn những vầng sáng cuối ngày đang nhuộm hồng cả những áng mây; trải ra trên khắp các thung lũng, dải đều trên những con đường mềm mại như dải lụa đang uốn lượn quanh co bên các sườn núi ở cả hai bên mạn Bắc và Nam mà lòng không khỏi nao nao thương nhớ một cái gì đó chẳng thể gọi thành tên. Bên “ni”, xa xa, vịnh Lăng Cô giống như một bức tranh thủy mặc đang chìm dần trong màn đêm theo bóng hoàng hôn. Biển xanh, cát vàng, đầm phá long lanh nước bạc được choàng lên một màu tím sẫm. Bên “tê”, thành phố đáng sống của Việt Nam hiện lên trong một khung cảnh ngoạn mục. Bầu trời xanh thẫm chuyển dần sang màu vàng cam, rồi hòa dần vào muôn ngàn ánh điện lung linh như sao sa trên các toà cao ốc tạo thành một bức tranh ánh sáng thật huyền diệu. Chiều buông càng sâu, ngày tàn kết thúc, không gian bốn bề trên đèo càng trở nên trầm lắng, u buồn. Khi ấy, bất chợt trong tôi lại vọng lên câu ca dao của miền Trung non xanh nước biếc: “Chiều chiều dắt bạn qua đèo/Chim kêu bên nớ, vượn trèo bên ni” cùng với âm thanh vừa liên tục vừa đứt đoạn trong điệu Lý Hoài Nam: “Uẩy ..., oả ..., chi rứa ..., chi rứa ...” mà không khỏi chạnh lòng chất chứa nỗi niềm hoài hương của một thời tiền nhân đi mở cõi!
Bài, ảnh: Phan Anh, Đào Hiền