TIN TỨC

Nhà thơ Vũ Thiên Kiều, du ca ấy như thời gian thơm thảo | Phùng Văn Khai

Người đăng : vctphcm
Ngày đăng: 2023-05-03 19:26:53
mail facebook google pos stwis
244 lượt xem

Vũ Thiên Kiều là một cây bút trẻ trung, sung sức ở Kiên Giang. Thân gái dặm trường, cô gái quê lúa xã Quỳnh Hoàng, huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình từng là học sinh giỏi Văn toàn quốc năm 1985 bây giờ đã đằm thắm dịu dàng dân mến dân thương trong Ban Dân vận huyện Hòn Đất nơi biên giới Tây Nam Tổ quốc. Không ai nghĩ Vũ Thiên Kiều đã vào độ tuổi năm mươi càng không ai nghĩ Kiều đã đạt nhiều giải thưởng văn chương uy tín, xuất bản các tập thơ dày dặn ngân vang, viết những truyện ngắn thăm thẳm nỗi người mà câu văn xanh thắm.

Nhà thơ Vũ Thiên Kiều

Chúng tôi, các nhà văn quân đội có việc gì đất phương Nam thường lập tức tìm tới Vũ Thiên Kiều. Khi là mời nàng thơ đi trại viết như một thỏi nam châm hút các anh chàng Bắc - Trung - Nam hào hứng tới trại; lúc giao cho Kiều nhiệm vụ kết nối, thực hiện những thao tác của Ban Tổ chức, Kiều đều xuất sắc hoàn thành. Kiều dẫn chương trình trong các cuộc tọa đàm, giao lưu đều ân tình, sáng tạo. Kiều đọc thơ cho bộ đội nơi tận cùng biên giới cháy hết mình như ngọn lửa tuổi đôi mươi... Vũ Thiên Kiều là vậy, nàng thơ Hòn Đất - Kiên Giang luôn cống hiến hết mình cho thi ca, bè bạn và cuộc sống. Mười năm không gặp vẫn như in một tấm lòng không suy suyển. Gặp mặt hôm trước hôm sau điện thoại từ xa hay trò chuyện thật gần vẫn là một Vũ Thiên Kiều đắm say, mới mẻ và đầy tin yêu cuộc sống. Bởi vậy chăng mà thơ Vũ Thiên Kiều luôn dài rộng, mênh mang: Trên đỉnh dốc xông xênh nắng gió/ ngời ngợi sắc xuân/ có chút nào trầm tư về chân dốc/ thuở mồ hôi bầu bạn những âu lo... (Đỉnh dốc); nhưng rất suy tư: Giọt mồ hôi túa trên gương mặt người thợ/ nhúm méo mặt đời cho phẳng phiu từng phiến đá/ vuông thành sắc cạnh/ dịu êm xinh lối nhỏ (Lòng đá); còn vô cùng tinh nghịch: Dông dốc sông Văn/ lồng tồng bụng chữ/ áo ngủ sấn khuy cài... người về thánh thót chiều chuông/ nết dạ nết làng/ vân vân giếng nước (Điềm sen); mới mẻ đầy chiêm nghiệm: Chiếc bánh luộc bằng lửa nhớ/ đỏ than đếm hơi thở em/ cuộn chăn một, hai, ba/ mớ hoa giấy cười đêm sang ngày (Ngụm nước nằm ngang); và ngang tàng thanh thoát: Ánh mắt anh nhốt nắng quái ngang đường/ sương nâng đôi chân mềm em/ bay bay mùa mật... ánh mắt anh bời bời cầu Ô Thước/ cát cuộn bụi tròn/ đôi sam dìu nhau (Mật mùa)...

Thơ Vũ Thiên Kiều như cuộc sống của chính con người Hòn Đất - Kiên Giang. Mà rộng hơn, mông mênh hơn bởi những đắng cay cuộc đời không một riêng ai mà tất cả chúng ta thảy đều phải đón nhận. Vũ Thiên Kiều lúc nào cũng cười thật tươi, mau mắn và lí lắc nhưng đủ thông minh cũng như đủ khù khờ trong tất thảy các câu chuyện văn chương. Hôm gần đây thôi, khi gặp nhà thơ Hoài Vũ ở Sài Gòn, tôi cứ tưởng nhắc đến Vũ Thiên Kiều chắc gì tác giả Hương tràm, Vàm Cỏ Đông, Vàm cỏ Tây... biết tới bậc hậu sinh mà ông lại rất rành thơ của Kiều còn bảo các nhà thơ trẻ, nhất là các nữ nhà thơ đất phương Nam hiện nay tài tình lắm. Tôi im lặng bởi những gì không nói ra cũng là cần thiết. Như thi ca cũng vậy, chớ có nói hết ra. Ví như là Phơi lá đỏ mong mùa đựng chín/ ruột nối một dây/ căng/ đứt đoạn giữa chừng (Búi chổi mắt anh); Nôi thở trong váng đèn dầu đỏ/ mầm tre chồi lên từ gò đất/ mẹ sinh em (Sấm chớp phù sa); Anh về đầy chén cơm hơn/ trăng non/ già/ khuyết/ dỗi hờn.../ mặc trăng (Anh về)... thì rõ ràng những gì chưa nói hết ra mới là ngân vọng vậy.

Tôi đã từng được làm “học trò” của Vũ Thiên Kiều với tư cách học viên hẳn hoi, thi cử hẳn hoi. Cuộc ấy chỉ có một học viên và tôi chỉ thi với chính mình mà chánh chủ khảo là Vũ Thiên Kiều. Cuộc ấy ở trại viết Đồng Tháp do tôi là trại trưởng. Tôi tự thi với chính mình. Tôi bảo: “Kiều ơi! Một trại trưởng, một trưởng ban Thơ như mình mà không làm thơ còn mặt mũi gì nữa. Cuộc này thím phải giúp ta mới được”. Vũ Thiên Kiều tưởng tôi giỡn chơi bèn nói: “Không! Anh cũng có vẻ biết làm thơ thật đấy. Hôm bọn em đưa chùm lục bát lên trang cũng có dăm bảy cụ lão tám, chín mươi bình phẩm ra trò”. Tôi nghiêm ngắn: “Thím đừng có mắng ta tội nghiệp. Cuộc này xa bia rượu vợ con tất thành chính quả thơ ca”.

Hôm sau, tôi gửi chánh chủ khảo Kiều bài thơ Hỏi sen: Sen ơi, sen bao nhiêu tuổi/ mãi thơm sâu nụ hôn đầu/ Sen ơi áo ta sao bạc/ mồ hôi ủ vết chân trâu/ Tơ vạc tàn ngày mưa lạnh/ âm thầm nhóm lửa mặt sông/ Tóc đèn tận đêm ngậm bóng/ kín nỗi sương sa trùng trùng/ Tiếng hót vun chân trời hoa/ hồn nụ tượng hình mấy trắng/ Hàng cây âm âm đội sóng/ trang nghiêm lệ mạn mạn thuyền/ Vách đá trĩu câm vai biển/ khô khuya gõ vết sông bầm/ Nỗi hỏi vang sâu thinh lặng/ cao xanh một giọt sen buông.

Giám khảo Kiều đọc rất kỹ, trầm ngâm rồi trang nghiêm phán: “Hỏng! Thơ của ai chứ không phải của anh. Chung chung quá. Chữ nghĩa vặn vẹo quá”.

Ngày hôm sau, tôi lại trình giám khảo Kiều bài Thơm sen: Mười ba tuổi/ tắm ao sen/ em ửng áo cầu ao/ sen nghiêng bẽn lẽn/ Mười tám tuổi/ tạ sen vào tiếng súng/ em hẹn dấu chim trong/ lấm tấm cau mừng/ Mười năm đằng đẵng sen khuya/ thức xanh hương nhụy/ Anh về - tấm giấy/ tiếng mõ chùa tự bấy thơm sen.

Lần này thì cô giáo Kiều hơi ngước mắt lên thong thả nói: “Tạm được! Bắt đầu có ý tứ nhưng nhất định phải cố lên”.

Tôi không tự ái. Thế là may mắn lắm rồi. Làm văn chương hơi tí tự ái chỉ là xách dép cho thiên hạ.

Ba ngày sau, tôi lại trình ra bài Sen cởi áo: Hé chồi nghiêng lung/ Mưa mừng chấp chới/ Chúm chím hương bung/ Xanh ngần tơ tuổi/ Bung biêng đá sỏi/ Thắm thẹn then xanh/ Lụa gầy thức nhụy/ Chớp lóa gõ cành/ Riết phồng ngát ngọt/ Gió nhức mùa non/ Trăng mưng tở mở/ Núm thơm nghiên son/ Nhiên trong tơ tóc/ Buông cởi sơ sương/ Ngực hoan khỏa khép/ Muốt bờ mây vương.

Quá tam ba bận, giám khảo Vũ Thiên Kiều lần này biết rằng không khen “học trò” cũng không ổn bèn căng mắt nhìn mãi rồi bảo: “Cái câu Núm thơm nghiên son có vẻ đường được. Từ rày trở đi, anh hoàn toàn có thể làm thơ”.

Cuộc ấy với tôi quả là một thử thách nhớ đời.

Vũ Thiên Kiều đến với thơ nghiêm túc còn có phần nghiêm khắc với chính bản thân mình. Phải vậy chăng mà chặng đường bền bỉ ba mươi năm không chút hụt hơi càng đi càng xum xuê gốc cành hoa lá. Vô số những quả chín mùa yêu hạt vàng siêng nhặt đã đậu xuống hai vai Vũ Thiên Kiều. Nào riêng gì những rong chơi mới nên cơ nghiệp mà chính yếu là sự làm lụng, chắt chiu, thương buốt đến tận cùng mỗi cánh hoa rơi. Thơ Kiều tình ẩn đằng sau chữ, nghĩa mở mang từ những đóng khép câu từ. Có những câu đọc thấy tưng tức mà đọc đi đọc lại thấy thực là mới chữ mới nghĩa cũng là một cách đóng góp của nàng thơ. Ở những chỗ như vậy chớ có lườm nguýt so sánh làm gì. Đời người đời văn chương vốn dài dằng dặc sá gì câu chữ gập ghềnh đôi lúc đánh đố nhau cũng là mến yêu nhau vậy.

Đừng tưởng Vũ Thiên Kiều không dám viết những khúc thơ dằng dặc miên man. Để đưa ra những thông điệp có ích cho đời sống dưới con mắt thơ, Vũ Thiên Kiều đã dám tự mình làm nhà triết học một cách khúc chiết ngọn ngành lắm: Kiến không có cánh để bay. Dường như nó hiểu mỗi cuộc du hành thì xác suất của sự an toàn trở về tổ là rất thấp. Thế nên, nó miệt mài tìm những con đường ngoằn nghèo thậm chí là có địa hình hiểm trở để mỗi lần ra đi lại nguyên vẹn ngày trở lại... Nếu lúc xuất hành ra đi gian khổ một thì nẻo về còn khó khăn vất vả gấp trăm lần. Kiến phải gồng mình lên để kéo hạt gạo đi theo hướng giật lùi, kéo chán thì đẩy, đẩy chán lại ngoạm ngang eo hạt gạo mà tiến. Đây thật sự là một cuộc chiến thử thách tính kiên trì của Kiến. Vừa thồ vừa quan sát chọn lối đi an toàn cho tính mạng và tài sản vừa nhặt được. Cứ thế cứ thế Kiến đi. Có ai đồng hành cùng với Kiến? Có ai nhìn thấy nó lúc hoàn thành sứ mệnh khi đặt chiến lợi phẩm nằm gọn trong tổ. Rồi như không biết mệt mỏi, cũng không kể lể báo cáo thành tích, nó lại âm thầm hối hả với chuyến tiếp theo. Một câu hỏi chợt nảy ra: Kiến có ngủ không nhỉ? Chỉ thấy nó rất cần mẫn lao động, cần mẫn lao động một cách đáng nể. Và sự nỗ lực của những bàn chân, bàn tay bé xíu như không thể bé hơn được nữa đã viết lên câu ca dao để đời mà ai cũng thuộc lòng: “Kiến tha lâu đầy tổ” (Con đường của Kiến).

Đó chính là một du ca - du hành chữ nghĩa thảo thơm đầy đặn lắm thay.

Đó cũng là những định luận ngàn đời không bao giờ ngưng nghỉ.

Đó cũng là một trở về trong một ra đi.

Như một trở về trong một ra đi, thơ và nàng thơ Vũ Thiên Kiều đã không là của riêng ai đơn nhất nhưng cũng thật riêng của chính Kiều. Một trở về trong một ra đi, du ca ấy như thời gian thơm thảo trong những hạt vàng siêng nhặt tháng năm.

P.V.K

Bài viết liên quan

Xem thêm
Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm và “Cõi lặng”
Nhiều người nói rằng, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm rời chức vụ, quyền lực một cách thanh thản. Anh dứt áo, về quê mình, xứ Huế, xứ thơ, dù gia đình anh ở Hà Nội.
Xem thêm
Nhà văn Nguyên Hùng: Lịch sử nhìn qua giới giang hồ
Nhà văn Nguyên Hùng sinh ra ở Côn Đảo, từng sống khắp Nam kỳ lục tỉnh, thời kháng chiến chống Pháp ông làm báo ở Sài Gòn, ở chiến khu Đồng Tháp Mười và chiến khu Đ. Thời đất nước chia cắt hai miền, ông được tổ chức điều về Sài Gòn hoạt động báo chí công khai. Tất cả những hiểu biết thực tế phong phú, cộng với việc tìm hiểu tài liệu công phu, giúp ông viết nên Người Bình Xuyên, ra mắt năm 1985, cuốn truyện tư liệu dày dặn như một pho tiểu thuyết chương hồi cuốn hút khiến người đọc không thể dừng lại được…
Xem thêm
Người thầy xanh thẳm nỗi đời chất chứa yêu thương
Tôi đọc một mạch cuốn sách Người thầy (Nxb Quân đội nhân dân, 2023) của Thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh xong mà cứ bâng khuâng mãi. Người thầy xanh thẳm nỗi đời chất chứa yêu thương
Xem thêm
Nguyễn Quốc Trung đã về miền mây trắng
Bài viết của nhà thơ Lê Thành Nghị
Xem thêm
Ký ức một thời trận mạc của chiến sĩ Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân
Đó là Đại tá Hoàng Long Xuyên, sinh năm 1918, nguyên Đội trưởng đội du kích Hòa An - Cao Bằng, nguyên Giám đốc Công an Khu tự trị Việt Bắc kiêm Chỉ huy trưởng Công an nhân dân vũ trang (nay là Bộ đội biên phòng - BĐBP) Khu tự trị Việt Bắc.
Xem thêm
Nhà văn Lương Sỹ Cầm: Như dòng sông lặng lẽ trôi
Nhà văn Lương Sỹ Cầm sinh ngày 15.01.1929 tại Hà Tĩnh, hiện là hội viên cao tuổi nhất của Hội Nhà văn Việt Nam vừa qua đời vào lúc 13h ngày 28.8.2023 tại Hà Nội hưởng thọ 96 tuổi. Theo nhà thơ Nguyễn Quang Thiều: “Ông đã sống, đã sáng tạo gần một thế kỷ trên cõi đời này như không hề biết mệt mỏi. Mới cách đây 5 năm, khi ở tuổi 90, ông vẫn cho ra mắt tiểu thuyết Đèn kéo quân và được trao Giải thưởng Văn học Bộ Quốc phòng”. Tưởng nhớ nhà văn lão thành Lương Sỹ Cầm, Vanvn.vn trân trọng giới thiệu lại bài viết của nhà văn Nguyễn Thế Hùng về ông.
Xem thêm
Từ Kế Tường đánh thức thời hoa mộng
Từ Kế Tường, tên khai sinh là Võ Tấn Tước, quê gốc ở Bình Đại – Bến Tre, nhưng lên Sài Gòn học khá sớm. 19 tuổi tác giả đã là thư ký tòa soạn tờ Tuổi Ngọc, tờ báo dành cho thiếu nhi. Năm 1969, Huyền xưa, tiểu thuyết đầu tay của ông, được in nhiều kỳ trên báo, sau đó mới in sách, lần đầu khoảng 150.000 bản.
Xem thêm
Xuân Oanh - cánh chim Oanh của mùa Xuân Cách mạng! (Phần cuối)
Là một trong những hội viên thế hệ đầu tiên của Hội Nhạc sỹ Việt Nam,
Xem thêm
Phạm Vân Anh - Gót sen nở thắm biên thùy
Từng là sinh viên ngành “hot” (ngôn ngữ Anh) của trường “top” (Đại học Ngoại ngữ Hà Nội), ấy thế nhưng khi tốt nghiệp đại học, Phạm Vân Anh lại quay về quê hương Hải Phòng để làm việc tại Quỹ Bảo trợ Trẻ em thành phố và nhận dạy tình nguyện cho trẻ em lang thang cơ nhỡ tại các lớp học tình thương.
Xem thêm
Nhạc sĩ Xuân Oanh - nhà ngoại giao nhân dân trong kháng chiến chống Mỹ
Xuân Oanh (1923-2010) là tác giả của bài ca “Mười chín tháng Tám”
Xem thêm
Nhà thơ Vân Long và những người văn Thăng Long
Nhà thơ Vân Long làm việc ở báo Độc Lập, sau này anh về NXB Hội Nhà văn, phụ trách phần thơ.
Xem thêm
Xuân Oanh - cánh chim Oanh của mùa Xuân Cách mạng! (Phần 3)
Bạn bè, đồng nghiệp các thế hệ luôn dành cho Xuân Oanh danh xưng Nhà Ngoại giao Nhân dân
Xem thêm
Lê Minh Quốc - Trương Nam Hương, đôi bạn thơ và vùng hoài niệm
Bài viết của Ngô Đức Hành về đôi bạn Lê Minh Quốc - Trương Nam Hương
Xem thêm
Mối tình vì hòa bình
Nhạc sĩ Xuân Oanh (1923-2010) tên đầy đủ là Đỗ Xuân Oanh. Ông xuất thân trong một gia đình nghèo ở thị xã Quảng Yên, tỉnh Quảng Ninh. Ông từng làm việc cho báo Cứu quốc.
Xem thêm
Văn Cao: Từ “Buồn tàn thu” tới mùa thu Cách mạng
 Kỷ niệm 100 năm ngày sinh nhạc sĩ Văn Cao (1923-2023), một chương trình nghệ thuật đặc biệt Đàn chim Việt sẽ được tổ chức để tôn vinh tài năng của người nghệ sĩ lớn. Chương trình diễn ra lúc 20 giờ ngày 20.8 tại Nhà hát Lớn Hà Nội. Xin giới thiệu bài viết của nhạc sĩ Trần Lệ Chiến – Phó Tổng biên tập Tạp chí Âm nhạc – Hội nhạc sĩ Việt Nam về nhạc sĩ Văn Cao.
Xem thêm
Đỗ Xuân Oanh - một cuộc đời, một nhân cách
Phim tư liệu giới thiệu nhân kỷ niệm 78 năm Cách mạng Tháng Tám
Xem thêm