TIN TỨC

Phát triển

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2025-08-17 15:43:03
mail facebook google pos stwis
561 lượt xem

LÊ THANH HUỆ

Nội dung quyết định hình thức. Xét cả quá trình văn học lâu dài, các hình thức tác phẩm kế tiếp nhau xuất hiện, tác động vào nền văn học, góp phần tạo ra phát triển văn chương. Bài viết chỉ đề cập đến chủ đề này của cuốn sách. 

Bìa sách ĐỒNG BẰNG ÂM VANG VÀ NHỮNG NỐT TRẦM – Mã số ISBN: 978-604-497-253-4.

Sách chia làm 2 phần. Phần I. Văn học và phê bình văn học có 5 bài, gói gọn trong 51 trang, chiếm 23% số trang nhưng dung lượng và kiến thức mới đưa vào đây được cô đặc, giản hóa phù hợp với độc giả không chuyên về lý luận phê bình có được một số kiến thức đại cương vừa đủ để đọc phần còn lại của cuốn sách.

Bảo Bình phân biệt người viết phê bình văn học khác với nghề giáo bình giảng văn học hay người viết cảm tưởng (cảm nhận và liên tưởng): "nhà phê bình văn học là người nghệ sỹ chân chính nhất.... họ (cần phải có) trí tuệ và mạnh mẽ khi sử dụng ngòi bút của mình trên con đường đi tìm chân lý, đi tìm cái đẹp. Nhà phê bình (văn học) là người có năng lực thẩm định văn chương, phân tích lý tính, nghị luận..., có hiểu biết sâu sắc, am tường văn hóa, trực giác mãnh liệt... đó là những yếu tố không thể thiếu ở nhà phê bình" - trang 10.

Định nghĩa phê bình tác giả văn học ngắn gọn: "phác họa nên chân dung, sự nghiệp, phong cách, vị trí (trong nền văn học và do đó nếu không có vị trí, vê lâu dài, sẽ không gọi là tác giả văn học) của nhà văn" - trang 13.

Phân tích tác phẩm "dựa trên cơ sở lý luận, (nên) có đối chiếu, so sánh với những tác phẩm, tác giả cùng thời; rồi từ đó nhận diện khái quát một vấn đề, bày tỏ một quan điểm hết sức rõ ràng, điều chưa ai làm được" - trang 17. Từ đó cho thấy nếu phê bình văn học không phát hiện cái mới so với thời đại, hoặc khơi gợi vấn đề mới trong hiện tại với tác phẩm cũ, thì bài viết không đạt chuẩn mực phê bình văn học xét theo tiêu chí phát triển và cũng không ích lợi cho người sáng tác cũng như văn hóa đọc.

Nghiên cứu sự phát triển thể loại văn học theo dòng thời gian, dùng cách biểu đạt hình ảnh và có chiều thời gian do tác giả chỉ ra quy luật vận động: "Vận động ở đây là sự biến đổi. Là sự đa dạng hóa, phong phú thêm về thể loại; là sự tiến hóa (phát triển) cao hơn” - trang 22. “Về bản chất, thể loại đã vận động song hành (trong) cùng lịch sử văn học” - trang 23;  góp phần tạo ra sự phát triển ngày càng cao hơn. Đó là sự tác động biện chứng của mối liên hệ giữa hình thức và bản chất. Cách thức thể hiện quy luật này là “sự tương tác: với đời sống, giữa các thể loại (với nhau) với bên ngoài, và với ý thức sáng tạo, (thúc đẩy do ý muốn) cách tân chủ thể” - trang 24. Lý do sinh ra thể loại mới “Với văn học, nhu cầu làm mới cho nghệ thuật là nhu cầu bất tận, và thế là thể loại mới ra đời” - trang 26.

Bàn về tâm lý học, lĩnh vực luôn ẩn vào tác phẩm văn chương; Bảo Bình lướt qua Phân tâm học của S.Freud: “cấu trúc tâm lý con người tương ứng với vô thức, tiền ý thức và ý thức”.Tương ứng với cấu trúc nhân cách: “Cái ấy: gồm bản năng vô thức, không tính tới các quy tắc và quy định xã hội” – phần con. “Cái tôi: hoạt động, (bị) điều chỉnh và kiểm soát bởi thực tiễn” – có ý thức - trang 30 “Cái siêu tôi: bao gồm ý thức và đạo đức” - trang 31; do giáo dục và ý thức cá nhân xã hội tạo nên được văn học tận dụng cho mục đích ẩn: hiểu sâu hơn về bản chất con người.

Về thủ pháp viết truyện ngắn, Bảo Bình đã làm rõ hơn, sâu hơn về 3 loại tình huống nhỏ đan xen cần được đặc biệt chú ý: “Tình huống: tâm lý / hành động / nhận thức… ít khi tách rời… luôn bổ sung, tương trợ lẫn nhau” - trang 48.  

Để kết lại phần 1, Bảo Bình dẫn ra thể loại thơ mới “Thơ 1-2-3”; “được khai sinh bởi nhà thơ, nhà báo Phan Hoàng” - trang 54 là minh chứng sống động của hình thức vận động trong phát triển của nội dung. Tác giả chỉ ra đặc điểm thể loại thơ 1-2-3: “câu 1 và câu 6 là một mắt xích vô hình, bện chặt. Đó không chỉ là sự hô ứng, mà còn là sự liên kết tứ đầy tính logic và ám gợi (mở). Câu mở và câu kết của bài thơ như ổ khóa và chiếc chìa khóa của nhau vậy, (tạo ra hiệu ứng) sẽ dừng lại nơi tâm hồn hoặc tư duy (và có thể là cả hai của) người đọc một tình cảm, một vấn đề nào đấy cần được quan tâm, chia sẽ và khai mở” - trang 55. Đó là hình thức mới trong nội dung cũ viết về mọi chủ đề mà các tác giả đã viết mòn cả bút được nhà thơ Phan Hoàng tìm ra hình thức thể hiện mới. Và ở đây, Bảo Bình đã nhìn nhận thể loại này như một đột phá của thi ca. Hiện tại, một số nhà thơ sử dụng niêm luật thơ 1-2-3 trong sáng tác của mình.


Nhà thơ Phan Hoàng.

Có thể nói, ở phần lý luận văn học, tác giả đã mạnh dạn đưa ra những tư duy riêng biệt về phê bình bên cạnh những lý thuyết đã định hình từ những ngày đầu của phê bình văn học Việt Nam, như “ Phê bình và Cảo luận của Thiếu Sơn”, “ Sự cần thiết của điểm huyệt trong truyện ngắn”, “Sự vận động của thể loại văn học”..v..v..Tác giả định nghĩa vai trò tiên phong của nhà phê bình văn học. Sự tác động tích cực tạo môi trường phát triển, cũng như tạo động lực sáng tác nói chung mà nhà phê bình có thể góp sức mang lại cho văn đàn.

Không tìm thấy từ “phê bình văn học” trong từ điển Việt Nam. Chỉ có mục từ “PHÊ BÌNH – động từ. Đem cái hay hoặc cái dỡ ra mà xét và tìm nguyên nhân, để do đó phát huy cái hay, sửa chữa cái dở: Gạo càng giã càng trắng, người càng phê bình, càng hay (Hồ Chí Minh)- Trang 965; Từ điển Tiếng Việt - Văn Tân chủ biên, Nhà xuất bản khoa học xã hội, in lần thứ 3 có chỉnh lý bổ sung, năm 1991. Cũng từ điển này, trang 1326 có mục từ “VĂN HỌC – danh từ. Nghệ thuật dùng ngữ ngôn và hình tượng để biểu hiện tình cảm, tư tưởng, đời sống”. Ghép hai từ lại chúng ta có cụm từ PHÊ BÌNH VĂN HỌC; và theo nghĩa trên, cuốn sách này không làm nhiệm vụ phê bình văn học; Cuốn sách không viện dẫn kiến thức lý luận phê bình văn học, lý luận sáng tác văn học.

Do đó, nhiều học giả định nghĩa phê bình văn học với nghĩa rất rộng. Gần đây, hiện tượng trí thông minh nhân tạo AI (Artificial intelligence) bình giảng thơ được một số nhà văn, nhà thơ thích thú do tính duy lý của các bình giảng và cũng được xem như là phê bình văn học.

Đa số cho rằng: khác với người viết phê bình văn học nghiệp dư ở chỗ nhà lý luận phê bình văn học được đào tạo bài bản và sau đó tự học lên…

Nếu đối chiếu với Hoài Thanh, nhà phê bình nổi tiếng nhất 2 thế kỷ ở nước ta, đã có những đóng góp về mặt phê bình, lý luận để khẳng định Thơ mới trong văn học Việt Nam thế kỉ XX; ông chẳng có học hàm học vị giáo sư, tiến sỹ văn chương… có thể nói rằng: nếu tạo ra kết quả hướng dẫn nền văn học phát triển và thẩm định giá trị các tác phẩm trường tồn thì bất cứ họ là ai đều được độc giả tôn vinh là nhà lý luận  phê bình văn học thực thụ; các ý kiến, lập luận sẽ được độc giả lưu tâm.

***

Phần II. Tác giả - Tác phẩm có 22 bài, gói gọn trong 167 trang, chiếm 73%.

Tác giả lập luận độc giả quyết định về đánh giá giá trị tác phẩm từ đó: “sự định vị tác giả trong tiến trình văn học… không bao giờ bất biến, vĩnh cữu; bởi nó liên quan đến sự thay đổi các cách đọc hiểu của từng thời đại, thậm chí từng cá nhân” - trang 37. Từ nguyên lý này, các bài viết về phê bình tác phẩm được Bảo Bình tập trung phân tích 2 khía cạnh:  Đóng góp của tác phẩm, tác giả ở góc độ định vị tác giả trong nền văn học với góc nhìn mới của hôm nay, nhưng không phải là bất biến nếu xét từ khi tác phẩm ra đời và mãi mãi về sau khi nó còn sống đời sống văn học sử.

 Đánh giá sự nghiệp thơ của nhà thơ Hoài Vũ: “Tình cảm mà ông đặt vào (thơ) là một sự vô cùng của cái đẹp, là sự vĩnh hằng của lý tưởng trong sự lồng ghép các hiện tượng xã hội mang tính lịch sử. Bằng bút pháp trữ tình xen lẫn tự sự, nhà thơ xuyên thẫm (thẩm thấu) trái tim thuần khuyết yêu thương vào hiện thực chiến tranh tàn khốc, làm bật dậy những khát khao cháy bỏng của con người. Khát khao hạnh phúc của dân tộc” ” - trang 64.

 Nhà thơ Hoài Vũ xuất hiện với 3 bài viết trong tập sách này, đủ để thấy sức ảnh hưởng cũng như sự trân trọng mà tác giả dành cho nhà thơ. Từ “ Thì thầm với dòng sông”, “ Gái thời chiến” và rồi “ Hoa trong tuyết”: “Dịch giả Hoài Vũ có sự chọn lọc hợp lý, tinh tường để rồi chuyển ngữ một cách sinh động, sắc nét và cuốn hút đến lạ lùng. Không khó để thấy rằng những câu chuyện được dịch thuật ở đây gần với chúng ta về văn hóa, về lịch sử…” Hy vọng khi tái bản, Bảo Bình sẽ làm rõ hơn về chân dung văn học của nhà thơ Hoài Vũ, nét khác biệt của nhà thơ; làm nên sự định vị tác giả trong tiến trình văn học Việt Nam như là đại diện lớn nhất của tác giả thơ lãng mạn cách mạng trong bối cảnh chiến trường khốc liệt Long An và vùng ven Sài Gòn ở vào những năm tháng chiến tranh chống Mỹ khốc liệt nhất.

 “Nguyễn Minh Châu là cây bút sử thi có thiên hướng trữ tình lãng mạn…. Nhà văn đã phản ánh hiện thực đời sống / thân phận con người trong những hoàn cảnh khắc nghiệt, đặc biệt và bi kịch bằng cái nhìn sâu sắc, bằng cảm xúc xót xa và bằng tâm trạng đau đớn … (nhưng khác với các tác giả đương thời là tâm trạng) bất lực”. - trang 70 và trang 71. Nếu không có phát hiện đó, dĩ nhiên Nhà văn Nguyễn Minh Châu, tác giả duy nhất không sinh ra và lớn lên cũng như không có tác phẩm viết về đồng bằng sông Cửu Long sẽ không có sự hiện diện trong tập sách này do không có sự định vị vững chắc trong văn học sử của địa phương. Đọc chậm “ Đồng bằng, âm vang và những nốt trầm”, ta sẽ nhận ra Bảo Bình không phải chỉ nói về các tác giả đồng bằng, mà cả những tác phẩm viết về đồng bằng, dù tác giả đó có sinh ra và sống ở bất kỳ đâu trên đất nước này.

“Thơ Trang Thế Hy – cuộc giao tiếp hữu hiệu giữa nội tâm và ngoại giới – lồng trong những sắc từ âm ngữ dư ba của một hệ tư tưởng minh triết và nghiêm khắc về nghề văn và người cầm bút” - trang 78, theo tôi nhận định này có nét độc đáo, cẩn ngôn và chuẩn xác mà tác giả dành cho nhà thơ Trang Thế Hy.

Hay, “Đồng bằng Nam bộ với các dân tộc Kinh, Hoa, Khmer, Chăm… làm nên một đời sống văn hóa đa sắc màu, độc đáo. Đời sống lao động sản xuất cần cù, chăm chỉ, chịu thương, chịu khó. Đời sống tinh thần phóng khoáng, bộc trực, hy sinh. Tất cả, quyện vào nhau, làm nên một đồng bằng trù phú, cuốn hút và say đắm” - trang 107. Đó là nền để 18 tác giả sinh ra và lớn lên ở đồng bằng sông Cửu Long tạo ra sự nghiệp văn chương được tác giả Bảo Bình chăm chút nâng niu nên tìm được nét mới định hình trong nền văn học nước nhà, đưa vào tập sách. Cách mà tác giả đánh giá về tác phẩm của các nhà văn khiến tôi trân trọng, Bảo Bình công phu tìm ra những điểm mạnh, cái hay mà tác phẩm mang lại, đồng thời rất khéo léo, nhẹ nhàng và thuyết phục khi chỉ ra những mặt còn hạn chế. Trong văn chương, cần lắm thay những ngòi bút tâm huyết thế này.

Phần tác giả tác phẩm Cần Thơ phải kể đến các tên tuổi như: Lê Chí, Phù Sa Lộc, Trúc Linh Lan...cùng một số cây bút trẻ như: Phan Duy, Huỳnh Ngọc Huy Tùng. Cũng nhờ có “ Âm vang và những nốt trầm” mà bạn đọc được biết nhiều hơn đến các tác giả cũng như một số tác phẩm hay, mang đậm giá trị nhân sinh, đạo nghĩa. Cũng như giúp bạn đọc hiểu sâu hơn về đất và người nơi vùng châu thổ nghĩa tình. Ở đây, tôi chỉ trích ra những nghiên cứu có hàm lượng mới, mang tính học thuật cũng như giá trị văn học mà tác giả đã dày công mang lại, để thấy rằng “ Trong văn chương, trường phái triết học tâm đắc thường sẽ ảnh hưởng sâu sắc ngòi bút tác giả. Và sự thấu suốt về lý luận, thể loại cũng sẽ tác động không nhỏ đến thủ pháp nghệ thuật. Cùng với đó là tâm hồn, thái độ, tư duy, trình độ… khiến mỗi nhà văn, nhà thơ sẽ làm nên sự khác biệt cho mình. Một tư tưởng, một phong cách, một giọng điệu… không trùng lắp và nhầm lẫn được” trang 221.

Do bài viết chỉ là cởi ngựa xem hoa nên tôi không thể đề cập chi tiết hết 18 bài viết còn lại. Có lẽ, tìm đọc là cách duy nhất để bạn hiểu rõ hơn về tác phẩm cũng như một số tác giả nơi vùng sông nước hữu tình này.

Nhà văn Bảo Bình sinh năm Nhâm tý, tên thật Lê Thị Thanh Tuyền. Nguyên là Trưởng khoa Sư phạm, trường Cao đẳng Cộng đồng Hậu Giang. Hội viên Hội Nhà văn Cần Thơ, sống và viết tại Cần Thơ. Khi còn là sinh viên, Bảo Bình đã sáng tác và có thơ đăng báo. Khi trở thành giảng viên, Bảo Bình là cộng tác viên thường xuyên của tạp chí ngành, tạp chí văn nghệ Tỉnh. Có nhiều thơ, văn đăng ở các báo và tạp chí. Trong quá trình làm giáo dục, tình yêu văn chương được Bảo Bình thể hiện trên bục giảng, và giờ đây “chọn nghỉ hưu trước tuổi để có nhiều thời gian hơn cho gia đình và viết lách”, Bảo Bình đã tiếp tục hành trình đam mê văn học bằng ngòi bút sắc bén của mình trên cả lĩnh vực sáng tác lẫn phê bình. Thơ văn của Bảo Bình đã không còn xa lạ với bạn đọc, một số bài thơ đã chạm vào cảm xúc của các nhạc sĩ và cất lên thành lời nhạc sâu lắng, như “ Trầm tích”, “ Lời ru bướm vàng”,“ Tiếng đàn từ ngôi nhà sau vách đá”... Một số tác phẩm của Bảo Bình đã được đưa vào chương trình giáo dục địa phương lớp 12, như “ Mùa điên điển”, “ Nghiêng thời gian”, “ Mẹ, ba và con”...minh chứng cho năng lực sáng tạo và cảm thấu văn chương nơi tâm hồn tinh nhạy này.

Bàn thêm về đặt tên tập sách, dưới dạng duy tình, muốn đền ơn Nam bộ, nơi sinh thành nên tác giả đã chọn đặt tựa đề 8 chữ, khá dài; tuy nhiên đã phần nào khái quát được nội dung mà quyển sách muốn đề cập.

 Hiện nay, phê bình văn học nhiều nhưng mãng lý luận văn học ít được quan tâm, việc có một tác giả viết về mãng này ở Tây Đô cho thấy văn học khu vực đang phát triển trong hệ sinh thái văn chương đa vùng miền và đa văn hóa Việt Nam...

Sài Gòn mùa hè năm 2025

LTH.

Ghi chú:  Những chữ viết xiên là trích nguyên văn từ ngữ của cuốn sách thơ.

Bài viết liên quan

Xem thêm
Thế giới nữ tính đằm thắm và điệu nhạc tình yêu trong thơ Võ Thị Như Mai
“Nhớ anh nhiều bao nhiêu / Như thế nào là nhiều…” – những câu thơ giản dị mà đằm thắm ấy chính là nhịp điệu riêng của Võ Thị Như Mai.
Xem thêm
Bùi Minh Vũ - Buông neo hồn thơ vào biển đảo
Sau 2 tập thơ Lão ngư Kỳ Tân (2014), Biển và quê hương (2020) Bùi Minh Vũ cho ra mắt tập thơ Buông neo của (NXB Hội Nhà văn, 2024) gồm 113 bài thơ viết về đề tài biển đảo. Cảm hứng chung của tập thơ là tình cảm mến yêu, cảm phục, trăn trở và gắn bó tâm hồn với với biển đảo, với Trường Sa, Hoàng Sa, với những người lính đảo và người dân bám biển. Những tập thơ trước, Bùi Minh Vũ viết từ cảm xúc của một công dân yêu nước hướng về biển đảo với sự ngưỡng vọng. Ở tập thơ này, sau những chuyến vượt sóng ra Trường Sa, thăm đảo chìm đảo nổi, nhà thơ đã “Buông neo” hồn thơ vào biển đảo của Tổ quốc. Bài đầu của tập thơ đã thể hiện điều đó: Sóng ngọt như hoa trái lững lờ thè chiếc lưỡi/Bình minh trườn qua con chữ/Bài thơ quyết liệt buông neo/Như cột mốc đứng thẳng (Buông neo).
Xem thêm
“Chữ gọi mùa trăng” – Những thao thức của người đàn bà yêu chữ
Tại buổi ra mắt tập thơ Chữ gọi mùa trăng (23/9/2025), nhà thơ Hương Thu không có mặt, nhưng sau đó đã gửi đến một bài viết nhiều cảm xúc.
Xem thêm
Nỗi buồn đẹp qua ca khúc “Bài Thánh ca buồn”
Bài Thánh ca buồn nhưng không buồn theo lẽ thường, nỗi buồn ấy đẹp và chẳng hề mong manh, rất có thể khi nghe câu này, nhiều người không đồng cảm. Vâng, đó cũng là lẽ bình thường vì tiếp nhận văn học lý giải chuyện cảm nhận tác phẩm văn học hoặc nghệ thuật còn phụ thuộc nhiều yếu tố, trong đó có yếu tố sở thích. Và, tôi yêu thích Bài Thánh ca buồn, cả lời thơ (ca từ) cùng nhạc điệu.
Xem thêm
Viết cho “Khúc nhen chiều”– vệt khói dĩ vãng đậm màu thực tại
Khúc nhen chiều không chỉ là tập thơ đẫm màu khói sương mà còn là cuộc “truy vấn” không ngừng của Vũ Xuân Hương với chính mình và đời sống.
Xem thêm
Nguyễn Thị Thúy Hạnh - Hành trình chữ đến thế giới thơ
Hành trình thơ của Nguyễn Thị Thúy Hạnh trước hết khẳng định một tinh thần hiện sinh rõ nét. Ở đó, con người – đặc biệt là người nữ – luôn hiện diện trong trạng thái bất an, tổn thương, đồng thời mang khát vọng vượt thoát và kiếm tìm hạnh phúc. Chữ trở thành nơi lưu trú của nỗi cô đơn, đồng thời là phương tiện giúp nhân vật trữ tình phục sinh và tiếp tục hiện hữu trong một thế giới nhiều biến động, đổ vỡ.
Xem thêm
Lòng Mẹ - Mạch nguồn của “Chữ gọi mùa trăng”
Bằng trái tim giàu cảm thông, nhà thơ Phan Thanh Tâm – tác giả của 7 tập truyện ngắn và thơ thiếu nhi – đã tìm thấy ở Chữ gọi mùa trăng hình tượng người Mẹ vừa đời thường, vừa thiêng liêng.
Xem thêm
“Lời ru bão giông” – Từ cảm nhận đến vần thơ tri âm
Tập thơ Lời ru bão giông của Trần Hóa mở ra 59 câu chuyện đời đầy mất mát nhưng vẫn chan chứa ánh sáng nhân văn, niềm tin và tình yêu thương.
Xem thêm
Đến với bài thơ hay: “Chiều Ải Bắc tìm em”
Anh vẫn như nghe trong đá núi/ Âm vang rầm rập bước quân hành/ Anh vẫn như nhận ra nụ cười em/ Trong sắc hoa đào xứ sở…
Xem thêm
“Hai vệt nắng chiều” và cuộc ra ngoài tử biệt sinh ly
Với “Hai vệt nắng chiều”, Xuân Trường như đang cố níu giữ những mảng hồi quang và ông đã như thoát khỏi mình, thoát khỏi những rào cản thế tục để trải hết lòng mình, đặng làm tròn chức phận của một thi sĩ
Xem thêm
Trần Nguyệt Ánh với tập thơ Vọng núi
Theo dõi tình hình văn học mấy năm gần đây, thấy trong các nhà thơ trẻ Đăk Lăk, Trần Nguyệt Ánh có niềm đam mê, sự nỗ lực sáng tạo và tình yêu tha thiết với thơ. Chị viết đều tay, có nhiều tác phẩm thơ hay. Hành trình sáng tạo của Nguyệt Ánh cũng là hành trình tìm kiếm, khám phá, đào sâu vào bản ngã để khẳng định cái “tôi” đa tình, đa đoan và định hình một cá tính sáng tạo. Nhân Ngày Sách Việt Nam, 21/ 4/ 2022, tại Đường Sách thành phố Buôn Ma Thuột, nhà thơ Trần Nguyệt Ánh đã giới thiệu với bạn đọc hai tập thơ mới xuất bản: Miền gió say (NXB Hội Nhà văn, 2021) và Vọng núi (NXB Hội Nhà văn, 2022). Vọng núi là tập thơ thứ ba của Nguyệt Ánh, gồm 132 bài thơ 1 - 2 - 3, thể hiện nỗ lực đổi mới, trải nghiệm và sáng tạo của nhà thơ cả về nội dung cảm hứng cũng như tư duy nghệ thuật.
Xem thêm
Trúc Linh lan, nhà thơ của những thân phận đàn bà đa truân miền sông nước
Thơ ca - một thế giới thi ảnh đầy ma lực - bên cạnh sự truyền cảm sâu xa, thơ chính là sợi dây thần vô hình đầy linh động, kéo con người đứng lên từ bờ vực của vô vọng, khổ đau. Cái lạ kỳ của kẻ ăn thơ uống chữ là dù ở những khúc quanh nào của cuộc đời, họ cũng có thể tìm được một hướng đi. Dù trời có đổ lửa thì họ vẫn từ tốn tìm được cho mình một bóng râm. Và nhà thơ, không cần khua chiên gõ trống, họ lặng lẽ xới đất trồng hoa cho khu vườn nghệ thuật đầy giá trị nhân sinh của mình.
Xem thêm
Những ký tự dắt tay nhau đi về phía hoàng hôn
Sáng 23/9/2025, Nhóm “Bạn văn & Miền chữ” sẽ tổ chức ra mắt cuốn sách Chữ gọi mùa trăng của nhà thơ Triệu Kim Loan – hội viên Hội Nhà văn TP.HCM.
Xem thêm
Nguyễn Kim Thanh với hương đồng gió nội miền Tây
Trong mỗi chúng ta ai chẳng có một quê hương để thương để nhớ. Với nhà văn Nguyễn Kim Thanh thì đó là cả một vùng ký ức với bao kỷ niệm vui buồn nhung nhớ. Đó là cảnh sắc quê nhà với hai mùa mưa nắng, là tiếng bà ru cháu, mẹ ru con, là lời ca điệu lý vang vọng bên những dòng kinh. Đó là bến nước, dòng sông, là những giề lục bình trôi với bông tim tím, hay bông điển điển vàng, bông súng mùa nước nổi, là con cá lòng tong, con cá linh, cá rô, con tôm càng quẫy đạp. Đó là những phận người lưu lạc, bất hạnh trong chiến tranh hay trong cuộc mưu sinh nhưng không bao giờ lùi bước bi kịch cuộc đời. Họ vẫn luôn lạc quan yêu đời, vựợt lên mọi gian nan thử thách khi cuộc sống trở nên “không thể chịu được nữa”. Tập truyện ngắn và tản văn “Mùa cá lòng tong” của chị là bức tranh sống động của miệt quê Nam Bộ mang vẻ đẹp hương đồng gió nội như một hành trang theo mỗi bước chân chị đã qua.
Xem thêm
Chân dung Nguyễn Bính qua giai thoại văn học
Để đánh giá chân tài nhà thơ phải dựa vào trước tác của họ. Tuy vậy, nhiều khi căn cứ vào các cảnh huống sinh hoạt thường ngày, dựa vào những câu chuyện hoạt động văn nghệ đời thường của văn nghệ sĩ, mà người ta hay gọi là giai thoại, cũng giúp ta hiểu thêm cuộc đời và sáng tác của họ hơn. Hầu hết tác giả văn học Việt Nam đều có những giai thoại đáng nhớ, trong đó không thể không kể đến “thi sĩ chân quê” Nguyễn Bính.
Xem thêm
“Khoảng trời xanh ký ức” – khúc lắng đọng, yêu thương
Sau buổi ra mắt ấm áp tập thơ “Khoảng trời xanh ký ức” (30/5/2025), bài viết của TS. Hoàng Thị Thu Thủy tiếp tục khắc họa nét đẹp dung dị và giàu cảm xúc trong thơ Nguyễn Thị Phương Nam – một “nhật ký tâm hồn” chạm đến trái tim người đọc.
Xem thêm
Một cách nghĩ khác về tình yêu
Nhà văn Đỗ Viết Nghiệm với tham luận “Một cách nghĩ khác về tình yêu” mang đến nhiều gợi mở sâu sắc về cách nhìn và sức sáng tạo của tác phẩm.
Xem thêm
Nhà văn Mai Văn Tạo – Viết từ tấm lòng sâu nặng để tri ân nguồn cội
Vùng đất miền Tây Nam Bộ đã luôn ghi khắc văn nghiệp của các nhà văn kỳ cựu, đưa tên tuổi họ trở thành những nguồn sáng rạng rỡ với những trang viết đậm hồn đất và tình người của xứ sở nơi đây. Có thể kể đến nhà văn, nhà nghiên cứu, học giả Nguyễn Chánh Sắt, Nguyễn Hiến Lê, Nguyễn Văn Hầu…; các nhà văn Sơn Nam, Anh Đức, Trang Thế Hy, Nguyễn Quang Sáng, Lê Văn Thảo, Nguyễn Lập Em, Phạm Trung Khâu, Lê Đình Trường, Ngô Khắc Tài…; các nhà thơ Thanh Hải, Phạm Hữu Quang, Đinh Thị Thu Vân, Trịnh Bửu Hoài, Thu Nguyệt, Phạm Nguyên Thạch, Ngọc Phượng, Song Hảo…
Xem thêm
Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam đương đại - một số xu hướng chủ yếu
Giữa lúc tiểu thuyết và phim Mưa đỏ của Chu Lai làm dấy lên nhiều tranh cãi về ranh giới giữa lịch sử và hư cấu, bài viết của PGS-TS Nguyễn Văn Dân đem lại một cái nhìn hệ thống về tiểu thuyết lịch sử Việt Nam đương đại.
Xem thêm
Khơi dậy sức sáng tạo văn học nghệ thuật trong lực lượng sáng tác trẻ ở miền núi - Thực tiễn và kỳ vọng
Cần phải làm gì, làm như thế nào để khơi dậy sức sáng tạo của những người sáng tác trẻ; để tạo môi trường nuôi dưỡng họ trở thành lực lượng sáng tác chuyên nghiệp?
Xem thêm