- Chân dung & Phỏng vấn
- Nhà văn không ngoan nói về văn chương tòng trọng và cỗ máy đạo văn
Nhà văn không ngoan nói về văn chương tòng trọng và cỗ máy đạo văn
PHAN ANH/ Văn nghệ
Nhà văn Đỗ Tiến Thụy viết bằng một thứ ngôn ngữ không chiều lòng ai: không ve vuốt độc giả, không phô trương thông điệp, không mị dân ký ức. Trong những câu chuyện của anh, cái chết không bao giờ kết thúc, và làng quê không bao giờ yên ả. Trò chuyện với Văn Nghệ, anh chia sẻ về “văn chương tòng trọng”, về sự kháng cự trước những định chế văn hóa, về ChatGPT cỗ máy đạo văn, về nỗi cô đơn của người viết, và về lý do vì sao “chỉ nhà văn, với trái tim đa cảm, mới có thể khiến một câu văn sống được lâu hơn thời đại của nó”, và cả lý do vì sao một nhà văn “không ngoan” vẫn kiên trì sống với văn chương.
Tôi đã đi ra khỏi làng, nhưng làng không chịu đi ra khỏi tôi
- Cảm ơn anh đã dành thời gian cho Văn Nghệ. Tác phẩm của anh có sự kết hợp độc đáo giữa chất liệu dân gian, tín ngưỡng bản địa và cấu trúc hiện đại. Phải chăng anh đang cố gắng tái thiết một “ký ức tập thể” đã đứt đoạn, hay đơn thuần đó chỉ là “cảnh quan tinh thần” của riêng anh?
- Tôi không có ý định quảng bá hay tái thiết văn hóa truyền thống. Tôi sử dụng chất liệu dân gian chỉ để làm phông nền, làm sinh quyển, làm khung sườn cho câu chuyện tôi muốn kể.
Nhà văn Đỗ Tiến Thụy: Tôi đã đi ra khỏi làng. Nhưng làng không chịu đi ra khỏi tôi. Ảnh: Trần Đại Thắng.
"Một cánh diều muốn bay lên phải có một sợi dây nối từ mặt đất. Nếu nhà văn là một cánh diều thì mặt đất ấy là quê hương".
"Một nền văn học mà tất cả nhà văn đều chiều chuộng độc giả bằng cách viết làm sao cho “dễ đọc” thì mãi mãi chỉ là một nền văn học phong trào".
"Chỉ nhà văn, với trái tim đa cảm cùng tâm hồn nghệ sĩ mới có thể tạo ra những tác phẩm bằng ngôn ngữ văn chương đa nghĩa, dạt dào tươi mới và thấm đẫm tình người".
"Từ tấm bé tôi đã rất ghét những giáo điều cũ kĩ và dị ứng với căn tính tiểu nông dị mọ".
"Tôi luôn nhắc mình chớ ảo tưởng... cứ viết cho hết mình rồi gửi cho… thời gian".
- Từ “Vết thương thành thị” đến “Màu rừng ruộng”, anh thường gắn mình với nông thôn - nhưng không phải nông thôn kiểu “mỹ lệ hoài cổ” mà đầy dằng xé, trượt khỏi trung tâm. Vì sao anh lại chọn nông thôn làm “trường lực ký ức” cho mình?
- Ngày học ở Trường Viết văn Nguyễn Du, một giáo sư đầu ngành trong một giờ giảng môn Cơ sở văn hóa đã như lên đồng nói rằng Việt Nam là một cái làng to, và Hà Nội là trung tâm nhà quê của cái làng ấy. Đọc các nhà văn Việt Nam, dù sống ở đâu, viết về đề tài gì thì vẫn thấy một thằng nhà quê và một cái làng trong tác phẩm. Cả lớp lặng đi. Nhiều bạn tỏ thái độ bất bình cho rằng thầy có ý đề cao văn học nhà quê mà kì thị văn chương đô thị. Tôi khi ấy cũng hoang mang. Nhưng rồi ngẫm lại thấy thầy nói đúng quá. Việt Nam là một nước nông nghiệp gắn với nền văn minh lúa nước ngàn đời, đang chật vật loay hoay tìm đường trở thành nước công nghiệp. Vậy thì văn học không phản ánh cái hiện thực tam nông thì phản ánh cái gì? Vấn đề là viết với tinh thần nào, tự tôn hay tự ti, tự hào hay tự trào, đả phá hay xây dựng…
Tôi là một gã trai đã tìm cách thoát ra khỏi không gian nhà quê tù túng ngột ngạt. Tôi đã đi ra khỏi làng. Nhưng làng không chịu đi ra khỏi tôi. Dù ở bất cứ đâu, làm bất cứ công việc gì thì cái làng Bùi vẫn là một khối kí ức buồn thương nặng trĩu. Nó khiến tôi phải day trở khôn nguôi và cầm bút viết về nó. Oái oăm hơn, là muốn quay về với nó. Cái này hình như là bản năng “hồi tổ”. Có phải vì thế mà nhiều người Việt sinh sống ở hải ngoại cuối đời cứ đau đáu nỗi trở về. Như nhà thơ Du Tử Lê chả hạn. Ông khao khát “hồi tổ” trong một tâm thế tuyệt vọng: Khi tôi chết hay đem tôi ra biển/ Sóng ngược dòng sẽ đẩy xác tôi đi/ Bên kia biển là quê hương tôi đó/ Rặng tre xưa muôn tuổi vẫn xanh rì…
Tôi “hồi tổ” khi chưa tới 40 tuổi sau hơn hai mươi năm chênh chao nơi đất khách quê người, chịu nhiều thương tổn. Và tôi đã thấm thía. Quê hương không chỉ là nơi chữa lành, mà còn là nơi cung cấp chất liệu, cảm xúc cho tôi trên mỗi trang viết. Thuở chăn trâu cắt cỏ tôi là đứa mê diều. Một cánh diều muốn bay lên phải có một sợi dây nối từ mặt đất. Nếu nhà văn là một cánh diều thì mặt đất ấy là quê hương. Với riêng tôi, những tác phẩm được cho là thành công đều bám chặt vào ngôi làng Bùi bé nhỏ.
- Ngay từ nhan đề, “Con chim Joong bay từ A đến Z” đã gợi cảm giác về một hành trình toàn vẹn, từ khởi sinh đến tận cùng. Nhưng hành trình ấy lại mang theo sự hoài nghi, nghiêng ngả, trượt khỏi trục thẳng của lý tính. Anh có nghĩ đây là một tiểu thuyết về “sự thất bại” của trật tự văn minh trước những gì bản năng và hoang dã không chịu thuần hóa?
- Đặt tên Con chim joong bay từ từ A đến Z là tôi muốn mời gọi độc giả tham gia vào một cuộc phiêu lưu cùng con chim joong để khám phá những câu chuyện. Hành trình của mỗi cuốn sách luôn khó đoán định. Đứng trước một lộ trình thăm thẳm với núi cao vực sâu, hứa hẹn có kì hoa dị thảo nhưng cũng tiềm ẩn rủi ro bất trắc từ rắn rết hùm beo…, nhiều người đã ngại ngần tặc lưỡi, chắc chẳng có gì đâu, đi làm gì. Có người đã lưỡng lự phân vân rồi quyết định… đi cáp treo cho nhanh tiện an toàn. Chỉ ít người có máu thám hiểm chống gậy lội bộ từ A đến Z.
- Có những chương trong tiểu thuyết như thể không thuộc về hiện thực - hoặc ít nhất là thứ hiện thực ta quen gọi tên. Ranh giới giữa sự sống, cái chết, giấc mơ, tái sinh… như bị xóa nhòa. Vậy với anh, đâu là điều anh muốn truy vấn sâu nhất trong nền tảng nhân sinh của cuốn sách?
- Tôi chỉ là người mời gọi đồng hành. Cũng cung đường ấy, người cưỡi cáp treo lượn êm ả trên cao sẽ chỉ thấy tán rừng lấp loáng, nhưng khách bộ hành sẽ thấy những tầng góc sâu xa. Nền tảng nhân sinh của cuốn sách ư? Tôi dành câu trả lời cho độc giả. Tác giả tự giải thích tác phẩm của mình… chuế lắm.
- Nhân vật của anh luôn phải vật lộn với những tiếng nói bên trong: những vết chàm của chiến tranh, những xung đột đạo lý, những mâu thuẫn sinh tồn. Vậy trong tiểu thuyết của anh, ai là người thực sự phát ngôn - nhân vật, người kể chuyện, hay cái “bóng văn hóa” vô hình?
- Hội họa phương Đông có thủ pháp “Vẽ mây nẩy trăng”, thi pháp phương Tây có câu “Show, don’t tell”, cả hai đều mang tính quy tắc: tác giả không nên phát ngôn trực tiếp trong tác phẩm. Tôi cố gắng tuân thủ quy tắc ấy nên chú trọng vào cốt truyện, nhân vật, chi tiết và miêu tả để các hình tượng tự phát ngôn.
Với sáng tác, ChatGPT đích thực là “một cỗ máy đạo văn”
- Anh viết khá thầm lặng, nhưng những gì anh viết đều có độ ngân dài, không dễ đọc, không dễ cất gọn. Anh nghĩ nhà văn có trách nhiệm gì trong thời đại truyền thông quá tải này? Anh nghĩ điều gì là thách thức lớn nhất cho nhà văn Việt Nam hiện nay - sự kiểm duyệt, sự quên lãng, hay chính độc giả?
- Một nền văn học mà toàn các tác phẩm dễ đọc thì… đáng buồn đấy. Độc giả có nhiều tầng bậc. Một nềnvăn học mà tất cả nhà văn đều chiều chuộng độc giả bằng cách viết làm sao cho “dễ đọc” thì mãi mãi chỉ là một nền văn học phong trào. Nói thế không phải tôi coi thường văn học đại chúng. Bản thân tôi khi ấu thơ cũng khoái đọc hò vè, truyện tranh cổ tích. Thời thanh niên cũng từng say mê đọc truyện kiếm hiệp, tiểu thuyết diễm tĩnh chữ to. Dần dần, cảm thấy không thỏa mãn với những gì đã đọc tôi mới mon men đến văn chương bác học hàn lâm. Tôi đã rất chật vật với những tác phẩm kinh điển. Có cuốn tôi đã phải đọc đi đọc lại cả chục lần, mệt mỏi nhưng khoái thú vì mỗi lần đọc lại tìm thấy một tầng nghĩa mới.
Trách nhiệm của nhà văn ư? Là thời nào cũng phải viết cho hay. Nhưng thế nào mới là hay? Đây là câu hỏi rất khó trả lời. “Văn chương có hai loại, loại đáng thờ và loại không đáng thờ; loại không đáng thờ là loại chỉ chăm chú ở văn chương; loại đáng thờ là loại chuyên chú ở con người.” Câu của cụ Nguyễn Văn Siêu, tôi cập nhật lần đầu khi tham gia Hội nghị những người viết văn trẻ toàn quốc lần thứ 6 năm 2001. Khi đó tôi đã lăn tăn nghĩ có cái gì đó không ổn. Vì tôi đã mặc định văn chương là phải hay. Có hay người ta mới đọc, rồi thẩm thấu nội dung sau. Chứ chỉ chăm chú vào nội dung thì chỉ cần nghe ông bà cha mẹ giảng luân lí và đọc sách đạo đức giáo khoa là đủ.
“Văn chương tự cổ vô bằng cớ”. Một tác phẩm có thể hay với người này nhưng lại là dở với người khác. Thế nên mỗi nhà văn sẽ nhắm tới một lớp độc giả. Tác giả nào độc giả nấy, tạo nên một nền văn học đa dạng, đa tầng.
Thời đại 4.0, nhiều người cho rằng mạng xã hội đang lấn át văn chương. Tôi lại không nghĩ thế. Tôi đã tham gia vào các nền tảng mạng xã hội và nhận thấy, trong việc “phân chia thị phần văn hóa”, mỗi loại hình có khách hàng riêng, “nước sông không phạm vào nước giếng”, không những không tranh phần nhau mà còn có khả năng cộng sinh cùng phát triển. Nghe và xem một cách bình tĩnh, tôi thấy hầu hết các tài khoản hot trên Facebook, Zalo, Youtube… đều sử dụng kịch bản và ngôn ngữ văn học để xây dựng viedeo clip, short-lived, MTV… Ở chiều ngược lại, nhiều nhà văn đã thành công khi sử dụng mạng xã hội để mở rộng tương tác với độc giả, quảng bá tác phẩm giúp tăng lượng phát hành.
Có nhà văn lo lắng tới đây phần mềm chatGPT có thể “cướp cơm”. Tôi đã cập nhật phần mềm này và thử đùa bằng lệnh “Hãy viết một diễn văn khai mạc hội nghị… năm 2025 của…”, gần như ngay lập tức nó cho ra một văn bản “chuẩn không cần chỉnh”. Tôi lại lệnh: “Hãy viết một truyện ngắn về chiến tranh”, chỉ phút sau nó cho ra một văn bản gọn gàng. Nhưng đọc thì phì cười, bởi nó là một tập hợp chữ được nhặt nhạnh từ các tác phẩm về chiến tranh của nhiều tác giả đã được số hóa và đăng tải trên Internet. Tôi đã thử nhiều lệnh nữa với các yêu cầu khác nhau, và phải thừa nhận rằng, trí tuệ nhân tạo rất hữu dụng trong việc soạn thảo những văn bản mang tính khuôn mẫu với dữ liệu có sẵn. Còn với sáng tác, nó đích thực là “một cỗ máy đạo văn”, mà là đạo văn ở mức xoàng theo kiểu lắp ghép mô hình nên luôn mắc những lỗi ngớ ngẩn ngô nghê. Theo các nhà công nghệ, phần mềm này liên tục tiếp nhận phản hồi và chỉnh sửa, nâng cấp để “sáng tác” hay hơn. Tôi không tin nên hàng ngày vẫn lệnh cho nó làm thơ viết truyện. Dù có tiến bộ, nhưng những “sáng tác” của nó ý tứ đều rập khuôn, cốt truyện đều thô giản, khung cảnh hẹp bẹt. Điểm yếu trầm trọng nhất của nó là ngôn ngữ luôn ở dạng… “đơn bào”, vô cảm. Vì nó chỉ là một cỗ máy, có bộ óc nhân tạo AI nhưng thiếu trái tim. Mà “trí tuệ của bộ óc mù quáng, trí tuệ của trái tim sáng suốt”. Có muôn đời phấn đấu thì “thằng” chatGPT cũng không thể cạnh tranh được với nhà văn. Chỉ nhà văn, với trái tim đa cảm cùng tâm hồn nghệ sĩ mới có thể tạo ra những tác phẩm bằng ngôn ngữ văn chương đa nghĩa, dạt dào tươi mới và thấm đẫm tình người.
Luôn nhắc mình chớ ảo tưởng, văn chương phải đi bộ qua thời gian mới là văn chương chương “tòng trọng”
- Có nhà phê bình gọi văn chương của anh là “sự kháng cự mềm” trước các cấu trúc văn hóa hóa thạch. Anh có đồng ý không?
- “Kháng cự mềm”? Cũng có thể. “Người sao văn vậy” mà. Ngay từ thời tiểu học tôi đã bị xếp vào loại học sinh cá biệt, hay cãi lại thầy cô. Ở làng tôi bị coi là đứa trẻ vô lễ, hay trêu chọc, chế giễu người lớn tuổi. Tôi thường bày trò đùa nghịch ở cả những nơi tôn nghiêm nên có lần bị bố tặng cho một trận mưa roi mây quắn đít và bà nội phải sửa lễ tạ lỗi với “ngài” ở ngôi đền thiêng trong làng. Từ tấm bé tôi đã rất ghét những giáo điều cũ kĩ và dị ứng với căn tính tiểu nông dị mọ. Có lẽ vì thế mà trong hầu hết tác phẩm của tôi tính phản biện trội hơn tính ngợi ca. Nông thôn không tươi đẹp thanh bình như nhiều người mong đợi mà tăm tối đìu hiu; thành phố không phồn hoa mĩ lệ mà xô bồ nhếch nhác; chiến tranh không có âm hưởng anh hùng ca cùng nhịp khải hoàn vang vọng mà nhiều mất mát hi sinh… Xét ở khía cạnh nào đó, tôi là một nhà văn… không ngoan.
- Trong các tiểu thuyết của anh, cái chết không bao giờ là hết. Nó có thể trở lại, ám ảnh, biến hóa. Với anh, viết về cái chết là để chạm tới điều gì - sự kết thúc hay sự bắt đầu của một nhận thức mới?
- Ngoài đời, cái chết do già yếu, tai nạn giao thông hay đánh lộn… là những cái chết sinh học vẫn xảy ra hàng ngày. Nhưng trong văn chương, cái chết là chi tiết văn học, là hệ/hậu quả của nhân tình thế thái, có vai trò tạo ra những “cú nổ thẩm mĩ”. Đây là thách thức đối với mỗi nhà văn. Một cái chết gây được nỗi ám ảnh với độc giả, khiến họ phải day dứt, ngẫm ngợi, cải tổ nhận thức… như Romeo và Juliet của Sakespeare hay Chí Phèo, lão Hạc của Nam Cao là điều cực khó. Bởi thế khi sử dụng cái chết tôi phải luôn đặt câu hỏi cái chết này có gây được hiệu quả thẩm mĩ không. Tôi thường viết ra rồi ủ đấy, một thời gian gian sau đọc lại, nếu thấy cái chết nào “lãng nhách” là tôi bỏ, bỏ cả đoạn, thậm chí cả truyện. Tôi chỉ giữ lại những cái chết thẩm mĩ. Tất nhiên, tác giả luôn chủ quan nghĩ cái chết ấy sẽ tạo ra một vụ nổ của bom hạt nhân, nhưng với độc giả có thể chỉ là tiếng tiếng xịt của một… quả bóng bay.
- Anh có tin vào khái niệm “di sản văn chương”? Nếu có, anh muốn mình để lại điều gì trong văn học Việt Nam?
- Tin chứ. Kiệt tác của những văn hào thi hào đã trở thành di sản không chỉ của mỗi quốc gia, mà của toàn nhân loại. Nhưng số tác phẩm được xếp vào hạng này không nhiều.
Năm 2008 tôi có theo dõi một cuộc giao lưu giữa các nhà văn Việt Nam với đoàn học giả Trung Quốc. Khi một nhà văn chủ nhà lấy câu chuyện làm quà, nói độc giả Việt Nam rất hâm mộ Mạc Ngôn (khi ấy đang đình đám với hai tiểu thuyết Báu vật của đời và Đàn hương hình được dịch in ở Việt Nam). Tưởng khách mừng, ai ngờ họ ơ hờ. Ở nước chúng tôi Mạc Ngôn được xếp vào hàng tác giả mới. Ông ấy nổi tiếng ở đâu cứ nổi tiếng, còn chúng tôi chỉ đọc ông ấy sau 50 năm nữa. Thấy các nhà văn chủ nhà ngơ ngác, các học giả Trung Quốc giải thích: Ở nước chúng tôi có nhiều loại văn chương. Nhưng chúng tôi chỉ đề cao văn chương “tòng trọng.” Hỏi văn chương “tòng trọng” là gì. Khách đáp: là loại văn chương có sức sống trăm năm. Cứ như chia sẻ của họ thì Trung Quốc chỉ có Hồng Lâu mộng của Tào Tuyết Cần, Thủy hử của Thi Nại Am, Tam quốc diễn nghĩa của La Quán Trung, Tây du ký của Ngô Thừa Ân là được xếp vào hàng văn chương “tòng trọng”. Còn những Lỗ Tấn, Mao Thuẫn, Giả Bình Ao, Ba Kim, Diêm Liên Khoa…, hãy đợi đấy.
Giới học giả Trung Quốc có cực đoan quá không? Không đâu. Họ có lí đấy. Mỗi tác phẩm ra đời sẽ chịu nhiều chi phối. Có tác phẩm vừa xuất hiện đã được tung hô bơm thổi lên tận mây xanh rồi dần biến mất vô tăm tích. Ngược lại, có tác phẩm khi ra đời bị đánh đập tơi bời dập vùi không thương tiếc, nhưng rồi vẫn sống sừng sững qua thời gian. Chỉ có những tác phẩm không bị “phân hủy” qua thời gian mới được xếp vào hàng văn chương “tòng trọng”. Nếu theo tiêu chí ấy thì ở Việt Nam những tác phẩm nào được xếp? Hịch tướng sĩ của Trần Hưng Đạo, Đại cáo Bình Ngô của Nguyễn Trãi, Truyện Kiều của Nguyễn Du, thơ Hồ Xuân Hương? Thế có ít quá không? Không đâu. Văn học thế giới đã có hàng triệu triệu tác phẩm được in ra, nhưng cũng chỉ còn vài trăm trước tác “sống sót” qua trăm năm thôi. Thế nên tôi luôn nhắc mình chớ ảo tưởng. Là nhà văn thì cứ viết cho hết mình rồi gửi cho… thời gian. Nếu chúng sống khỏe qua chục năm đã là hạnh phúc. Còn không, chúng non bấy mà chết yểu thì cũng đáng đời, không việc gì phải thương tiếc.
- Sau tất cả, anh nghĩ vì sao mình vẫn tiếp tục viết? Và điều gì khiến anh cảm thấy văn chương “thật sự sống”?
- Vì sao tôi vẫn viết? Có nhiều nguyên nhân: Có ẩn ức cá nhân, có sự bức xúc công dân trước những điều chướng tai gai mắt, và có cả khoái thú sáng tạo. Với tôi văn chương là cuộc sống. Nhờ văn chương tôi có một đời sống tinh thần không nghèo nàn, những mối quan hệ xã hội thú vị, một môi trường làm việc trong lành và một công việc vừa sức.
- Xin cảm ơn anh đã dành thời gian chia sẻ!
Nhà văn Đỗ Tiến Thụy sinh ngày 12/10/1970. Quê ở Tốt Động - Hà Nội. Anh tốt nghiệp Khoa sáng tác - Lý luận phê bình văn học, ĐH Văn hóa Hà Nội.
Hiện anh đang công tác tại Tạp chí Văn Nghệ Quân Đội.
Tác phẩm đã xuất bản: Gió đồng se sắt (NXB Thanh Niên); Màu rừng ruộng (NXB Trẻ), Vết thương thành thị (NXB Trẻ), và Con chim joong bay từ A đến Z (NXB Trẻ)...