TIN TỨC

Nhà văn Anh Đức như tôi đã biết

Người đăng : phunghieu
Ngày đăng:
mail facebook google pos stwis
1286 lượt xem

Nhà văn Anh Đức bị đột quỵ cách đây hơn mười năm, bị hôn mê sâu đến 20 ngày. Nhờ các bác sĩ tận tình cứu chữa, nên sau đó tỉnh lại. Và sống đến hơn 10 năm là cũng nhờ các bệnh viện, nhất là nhờ chị Loan, người vợ hiền đã có một mối tình tuyệt đẹp với anh…

Ngày xưa… Đó là những ngày ở Hà Nội sau năm 1954. Anh Đức lúc đó trẻ, đẹp trai, từ miền Nam tập kết ra. Hồi đó, anh đã là loại quý hiếm vì 17 tuổi, anh đã được Giải thưởng Cửu Long – một giải văn học của Nam Bộ kháng chiến. Ra Bắc, anh tiếp tục sáng tác và sau những truyện ngắn đầu tay về miền Bắc, anh thành công ở truyện Một truyện chép ở bệnh viện – một đề tài miền Nam gần gũi với anh hơn. Một truyện chép ở bệnh viện thành phim Chị Tư Hậu với nữ diễn viên Trà Giang, đạo diễn Phạm Kỳ Nam được giải Bạc ở Liên hoan phim Matxcơva 1963. Nhưng lúc phim đang quay thì Anh Đức đi B (1962). Đồng chí Lê Đức Thọ gửi anh đi máy bay quân sự đến Quảng Bình rồi từ đó lội bộ vào Nam Bộ. Anh bị sốt rét ác tính, phải điều trị ở Bệnh viện R của BS. Đoàn Thúy Ba. Mấy năm sau, người yêu anh – một nữ sinh Trưng Vương xinh đẹp cũng được đồng chí Lê Đức Thọ giải quyết cho vào Nam theo anh. Họ cưới nhau và sinh con trai đầu lòng ở R, ở chiến khu. Ông Mười Cúc (đồng chí Nguyễn Văn Linh) quý mến đôi vợ chồng vào Nam chiến đấu, thỉnh thoảng ghé cho cháu bé hộp sữa…


Nhà văn Anh Đức (1935 – 2014)

Sau này, khi đồng chí Nguyễn Văn Linh đã là Tổng Bí thư, Anh Đức có những công việc văn hóa – văn nghệ cần gặp, ông Mười tiếp liền, có khi còn gọi các đồng chí lãnh đạo khác đến cùng nghe, cùng giải quyết. Sự tín nhiệm của Anh Đức đối với lãnh đạo là tuyệt đối. Khi có người “gièm” anh, ông Tư Ánh (Trần Bạch Đằng) bảo: Tao sống với Anh Đức đã mấy chục năm, tao còn lạ gì nó, thôi đi!… Một nhà văn xuất thân “dân ruộng” ở Bình Hòa, An Giang đi làm báo, làm văn lúc còn thiếu niên ở Nam Bộ, tập kết ra Bắc rồi về lại miền Nam viết văn chiến đấu, chia sẻ với đồng bào, đồng chí mình, nhà văn ấy là vàng ròng của Cách mạng.

Tiểu thuyết Hòn Đất của anh là tiểu thuyết quy mô đầu tiên về cuộc chiến đấu chống đế quốc Mỹ của nhân dân miền Nam. Ở Kiên Giang, vùng Hòn Đất có mấy hòn như thế, căn cứ địa của huyện. Tụi địch huy động hàng vạn quân đến quét. Du kích, nhân dân bám trụ kiên cường, đánh địch, diệt ác ôn, quyết không cho chúng chiếm… Trong cuộc chiến đó đã xuất hiện những nhân vật được tác giả dựng lên với tất cả tình cảm, sự hiểu biết của mình: chị Sứ, bà Cà Xợi, anh Nghiệp nông dân cày ruộng và cả những tên ác ôn như thằng Xăm… Chị Sứ (tên thật là Ràng) giờ nằm ở một nấm mồ bất tử do nhân dân xây nên và tên Hòn Đất (vốn chỉ một hòn núi đất đá) đã được đặt tên cho một huyện. Nhà văn đã làm bất tử những chiến công vĩ đại của thời đại.

Hòn Đất vang dội vì nó đem đến cho nhân dân Nam – Bắc niềm tin vào nhân dân, niềm tin vào sức mạnh Việt Nam, để mười năm sau ta toàn thắng. Sau Hòn Đất là những truyện ngắn, bút ký viết đều đều trong một chiếc chòi nhỏ chiến khu, bên cạnh những trọng trách lãnh đạo văn nghệ chiến trường. Sức thu hút của tác phẩm Anh Đức, con người Anh Đức thật là lớn… Hàng loạt các nhà văn đặt tên hiệu mình có chữ Anh như Lê Anh Xuân, Anh Động…, noi gương nhà văn “anh cả” ở trong rừng chiến đấu và sáng tác. Hồi đó, cụ Nguyễn Tuân ở Hà Nội đội chiếc mũ sắt phòng không, bám trụ 51 Trần Hưng Đạo – nơi đóng trụ sở Hội Văn nghệ để viết Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi. Tấm lòng của nhà văn già, nhà văn mà Tkachev – dịch giả lỗi lạc người Nga nói là “viết xong thì thành cổ điển”, đối với  Hà Nội, đối với kháng chiến giải phóng miền Nam, thật tuyệt vời. Và cụ đã chọn làm sóng phát thanh Tiếng nói Việt Nam để thư từ văn chương cùng Anh Đức, một nhà văn có thể nói là đại diện cho văn học miền Nam đang chiến đấu. Hai nhà văn ở hai đầu đất nước, qua những bức thư Cà Mau ấy đã làm công chúng thấy dậy lên trong lòng mình biết bao tình cảm Nam – Bắc cao đẹp, thấy tin yêu, thấy tràn sức để ra chiến tuyến…


Những tác phẩm của cố nhà văn Anh Đức.

Sau bao nhiêu năm viết, ngòi bút và tấm lòng nhà văn vẫn luôn đau đáu hướng về những vấn đề lớn của đất nước. Trình độ viết văn được nâng lên qua học tập, nghĩ suy. Anh tiếp cận với văn chương thế giới, tiếp cận với những danh gia vừa là đàn anh vừa là bạn thân như Chế Lan Viên, Nguyễn Đình Thi, Huy Cận… để học ở họ cái bề dày văn hóa dân tộc và nhân loại, để mà “hạ bút” viết hàm súc, sâu lắng, tài hoa, ký thác ở trang văn những tâm sự về người, về đời…

Anh Đức là một ngòi bút lớn của thời chúng ta. Anh được Giải thưởng Hồ Chí Minh và nhiều giải thưởng khác, ai cũng thấy xứng đáng, không một lời nói ra, nói vào…

Thoạt mới gặp, người ta thấy Anh Đức hơi “khô”, thấy anh nghiêm cẩn như một ông linh mục. Nhưng gần lâu thì đó là một người thắm thiết tình cảm và rất đáng tin cậy, suốt đời làm việc, cống hiến hết mình, không đòi hỏi gì cho mình, trong veo, kiên định. Anh trong hoàn cảnh khó khăn nào cũng luôn tin ở nhân dân, ở Đảng, ở sự nghiệp mà mình dốc lòng từ thuở thiếu niên. Trước những vấn đề thời cuộc, vấn đề văn nghệ, anh luôn đem tấm lòng son đỏ đó mà nhìn nhận rất chính xác, sáng suốt!

Một nhà văn – chiến sĩ, một nhà văn tiêu biểu của thời đại chống Mỹ đã ra đi. Thật tiếc thương và không gì có thể bù đắp.

Về phần riêng mình, tôi với anh vừa là anh em vừa là bạn thân vong niên luôn sát cánh bên nhau, luôn bàn bạc cùng nhau mà không bao giờ trái ý. Anh, cùng với Chế Lan Viên, Bảo Định Giang, Huy Cận, Nguyễn Đình Thi, Tố Hữu và nhiều người khác đã lập nên Trung tâm Nghiên cứu Quốc học và tạp chí Hồn Việt để làm chỗ dựa cho anh em chiến đấu, góp phần vào sự nghiệp chung. Kỷ niệm của tôi về anh có rất nhiều, nhưng cốt lõi của nó là tình thương yêu sâu nặng của gần 40 năm giữa chúng tôi… Vĩnh biệt anh, lòng tôi thấy trống vắng bao nhiêu… Viết về anh những dòng hời hợt này, mong rằng sẽ có dịp viết về anh sâu hơn, kỹ hơn nữa.

***

Nhà văn Anh Đức tên thật là Bùi Đức Ái, sinh ngày 5.5.1935 tại xã Bình Hòa, huyện Châu Thành, tỉnh An Giang. Khi mới bắt đầu sự nghiệp văn học, ông viết với bút danh Bùi Đức Ái (tên thật của ông). Nhưng sau một thời gian hoạt động, ông bắt đầu lấy bút danh mới là Anh Đức.

Ông từng đoạt giải Nhất truyện ngắn báo Văn Nghệ (1958), giải thưởng Nguyễn Đình Chiểu (1965) và được Nhà nước trao tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật (2000) do những đóng góp với văn học Việt Nam trong giai đoạn chiến tranh. Nhắc đến nhà văn Anh Đức, nhiều thế hệ người đọc sẽ nhớ đến tác phẩm như Hòn Đất (viết năm 1966) cùng với Giấc mơ ông lão vườn chim, Bức thư Cà Mau đã được đưa vào sách giáo khoa để giảng dạy. Ngoài ra, khi nhắc đến ông, nhiều khán giả sẽ nhớ ngay đến bộ phim Chị Tư Hậu được chuyển thể từ truyện Một chuyện chép ở bệnh viện được nhà văn Anh Đức viết vào năm 1958. Không chỉ sáng tác, nhà văn Anh Đức còn gắn liền cuộc đời mình trong công tác quản lý với các chức vụ: Tổng Biên tập báo Văn nghệ Giải phóng, Tổng Biên tập tạp chí Văn và là Ủy viên Ban Chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam và Hội Nhà văn TP.HCM nhiều khóa liền.

 Mai Quốc Liên/Vanvn

 

Bài viết liên quan

Xem thêm
Việc nước chưa xong đầu đã bạc
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng từ trần để lại cho mỗi người Việt Nam và cộng đồng quốc tế những cảm xúc khác nhau; trong tôi, đó là sự kính trọng và thương tiếc.
Xem thêm
Có một mái đầu tóc bạc - bài hát đầy yêu thương tự hào…
”Có một mái đầu bạc “, bài hát đầy yêu thương tự hào với nhà lãnh đạo được nhân dân vô cùng yêu quý: Đồng chí Nguyễn Phú Trọng.
Xem thêm
Có một ngôi sao sáng, một ngọn lửa đỏ rực không bao giờ tắt
Bài do tác giả gửi cho Văn chương TP Hồ Chí Minh
Xem thêm
Sáng mãi ánh Sao Khuê - Chùm thơ nhiều tác giả
Chùm thơ của Nguyễn Minh Tâm, Nguyên Hùng, Hồ Bá Thâm
Xem thêm
Nhà văn Phạm Ngọc Tiến, với tôi là xà ngang, cột dọc
Nhà văn Phạm Ngọc Tiến đã khá lâu không gặp. Dù công việc tôi đều theo tư cách đàn em, luôn hỏi anh. Nhớ ngày xưa, khi rất khó khăn, cần tiền đúng như mong “Bác Hồ hiện diện”, anh đã mời và bố trí tôi viết kịch bản phim truyện để có cần câu cơm mưu sinh khi làm ông bố. Cuộc mưu sinh đó cũng đã rất xa rồi. Hậu duệ của cuộc mưu sinh chắc chắn hoàn toàn không biết. Bạn ấy đã là chủ gia đình riêng nhỏ. Phạm Ngọc Tiến đã biết sợ không dám nhận thách đấu bia rượu thuồng luồng như ngày trước.
Xem thêm
Nhà thơ Văn Công Hùng với nhà thơ Hoàng Cát
Bài viết của nhà thơ Văn Công Hùng cùng bài thơ ký họa chân dung Hoàng Cát thay vài nén nhang viếng vọng từ xa.
Xem thêm
Một nhà quản lý thép với trái tim ấm nồng Trần Quỳnh Hoa
 Tập truyện ký “Bông Mai Xanh kiêu hãnh” là một tác phẩm mới, khá cuốn hút của nhà văn Kiều Bích Hậu, xoay quanh nhân vật chính – Cử nhân Khánh Hương.
Xem thêm
Nhà báo, nhà văn, nhà văn hóa – tư tưởng Phan Khôi
Nhắc đến tiến trình vận động và phát triển của văn hóa, tư tưởng và báo chí Việt Nam những năm đầu thế kỷ XX không ai có thể phủ nhận những đóng góp cũng như vai trò to lớn của một nhà báo, nhà văn và nhà văn hóa – tư tưởng xuất sắc Phan Khôi (1887-1959).
Xem thêm
Tác giả Phùng Hiệu: Nhà văn đi làm báo sẽ dễ hơn nhà báo đi viết văn
Với kinh nghiệm nhiều năm trong nghề, nhà báo Phùng Hiệu đã chia sẻ những chiến lược và phương pháp độc đáo giúp duy trì sự cân bằng giữa công việc viết báo và sáng tác sách.
Xem thêm
Nơi sâu thẳm trái tim vị tướng
Bài viết của Trung tướng, PGS-TS NGUYỄN ĐỨC HẢI, Nguyên Viện trưởng Viện chiến lược quốc phòng, Bộ Quốc phòng
Xem thêm
Đan Thanh - nghệ sĩ kết nối thi ca và hội họa
Với hiểu biết khiêm tốn của một nhà giáo hâm mộ văn học nghệ thuật, tôi được biết thầy giáo - nhà văn Nguyễn Thanh. Thầy Nguyễn Thanh tên thật là Nguyễn Tấn Thành sinh ra tại xã Tân Quới, quận Bình Minh, Cần Thơ (nay thuộc Vĩnh Long). Khi làm văn nghệ, thầy Nguyễn Thanh còn dùng những bút danh khác để viết cho nhiều thể loại bài khác nhau : Thanh Huyền, Ngũ Lang, Đan Thanh, Phương Đình, Tương Như, Diễm Thi, Minh Khuê, Minh Văn, Lan Đình, Chàng Văn… Thầy tốt nghiệp Đại học Sư phạm - Cử nhân Văn khoa và đã qua 3 năm chưong trình Cao học Văn chương và Ngoại ngữ tại Đại học Văn khoa Sài Gòn (1975).
Xem thêm
Giao hưởng Điện Biên – thành tựu mới của nhà thơ Hữu Thỉnh
Chiến thắng Điện Biên là một chiến thắng vĩ đại của chúng ta “Lừng lẫy Điện Biên chấn động địa cầu” (Tố Hữu). Chiến thắng đó làm rạng danh nước Việt trên thế giới. “Nước Việt Nam từ máu lửa/ Rũ bùn đứng dậy sáng lòa” (Nguyễn Đình Thi). Ngày 7 tháng 5 năm 1954, lá cờ Quyết chiến Quyết thằng bay trên nóc hầm tướng Đờ cát, ngày 12 tháng 5 Bác Hồ đã có bài thơ dài đăng trên báo Nhân Dân : “Quân ta toàn thắng ở Điện Biên Phủ”. Rồi sau đó Tố Hữu mới có bài thơ nổi tiếng “Hoan hô chiến sĩ Điện Biên”. Điện Biên còn được các nhà thơ, nhà văn Việt Nam nhắc đến nhiều trong các bài thơ, truyện ngắn, tiểu thuyết. Điện Biên cũng được nhắc đến trong các cuốn sách của đại tướng Võ Nguyên Giáp và các tướng lĩnh, nhà báo của ta và phương Tây.
Xem thêm
“Chia lửa” với chiến dịch Điện Biên Phủ
Bài đăng Tạp chí Văn nghệ TP. Hồ Chí Minh số 122, thứ năm 2-5-2024
Xem thêm
Nhà thơ lê Đình Hòa chỉ thấy hoa phượng trắng
Bài viết của Lê Thiếu Nhơn về nhà thơ khiếm thị Lê Đình Hòa ở Phú Yên
Xem thêm
Lãng tử trong đời, chí thú trong văn
Bài viết về nhà văn Nguyễn Hoàng Thu trên báo Văn nghệ, Hội Nhà văn Việt Nam
Xem thêm