TIN TỨC

Nhà văn Ma làng | Phạm Ngọc Tiến

Người đăng : vctphcm
Ngày đăng: 2023-07-12 14:56:00
mail facebook google pos stwis
1203 lượt xem

“Ma làng” là tên cuốn tiểu thuyết của nhà văn Trịnh Thanh Phong. Trong các tác phẩm về nông thôn, đây là một tác phẩm có tính đột phá và thể hiện sâu sắc những biến chuyển quy luật của hiện thực làng quê Việt Nam.

Nhà văn Trịnh Thanh Phong với tiểu thuyết “Ma làng”

Trong đó, tác giả đề cập rất rõ những mối quan hệ hữu cơ của cộng đồng làng xã với sự biến chất thê thảm của một bộ phận đặc biệt là nhóm quyền lực. “Ma làng” được viết rất mạnh tay về những vấn đề nông thôn miền núi trước thời kỳ khoán 10 bằng một thứ giọng đặc biệt sắc sảo, đầy trào lộng có sức công phá mạnh. Cái hay của “Ma làng” là thể hiện được những nhân vật vô cùng ấn tượng về tính cách, khắc họa thành công chân dung của người dân miền núi trước và sau Đổi mới với những lề thói, tập tục xưa cũ cùng sự tiếp nhận cái mới một cách thực dụng và hồn nhiên tạo nên một bức tranh nông thôn rất đời, rất thực, đầy sinh sắc. Tôi đọc cuốn tiểu thuyết này một cách vô tình khi tìm thấy nó trong một hiệu sách nhỏ vào năm đầu thế kỷ 21. Đọc và chợt nhận ra sự thiệt thòi không nhỏ của những nhà văn tỉnh lẻ. Lẽ ra “Ma làng” phải có một vị trí trang trọng trong mặt bằng tiểu thuyết Việt. Nhưng không, ít người biết đến nó cho dù Trịnh Thanh Phong là một tên tuổi của văn nghệ xứ Tuyên. Khi “Ma làng” ra đời, Trịnh Thanh Phong đã có một bề dày sáng tác và đang đương nhiệm Tổng biên tập báo Tân Trào – diễn đàn của Hội Văn học nghệ thuật Tuyên Quang do chính anh là Chủ tịch.

“Ma làng” tạo cho tôi những ám ảnh khôn nguôi, với những hình dung rất rõ về tuyến nhân vật cả thiện lẫn ác, cả tốt lẫn xấu. Một dự định lóe trong đầu tôi. Tại sao lại không chuyển “Ma làng” thành phim truyện? Tôi mang ý định này bày tỏ với nhà văn Trung Trung Đỉnh, nhà văn đàn anh này gật gù hưởng ứng, “Trịnh Thanh Phong là bạn anh đấy, tay này được lắm, mấy lần đã định bảo chú nên chuyển thể”.

Kẹt cho tôi là trùng thời điểm đó, tôi và nhà văn Khuất Quang Thụy đang làm kịch bản “Đất và người” cũng từ một tác phẩm nổi tiếng về nông thôn “Mảnh đất lắm người nhiều ma” của nhà văn Nguyễn Khắc Trường nên đành phải tạm dừng “Ma làng” lại cho thời điểm khác.

Sức hút của “Ma làng” mạnh đến mức buộc tôi phải mò lên Tuyên Quang gặp tác giả ngay dù chưa thể biết trước thời gian triển khai kịch bản. Sự gặp gỡ này cũng là do vai trò trung gian của nhà văn Trung Trung Đỉnh, người luôn tự hào có bạn bè văn chương ở đủ sáu mấy tỉnh thành. Anh Đỉnh giới thiệu tôi với Trịnh Thanh Phong một cách không thể long trọng hơn. Cánh nhà văn có cách làm quen nhau rất đơn giản nhưng lại hợp tình hợp lý và nếu trùng gu nhau thì chẳng cần mất nhiều thời gian qua lại. Đó là khi đã đọc đã thích nhau qua tác phẩm và lúc gặp nhau chỉ mươi lượt cụng ly, nâng chén là đã tâm đầu ý hợp như thể biết nhau từ củ tỷ âm ty trước đó.

Có Trung Trung Đỉnh “cầm cái” ngay buổi rượu đầu tiên, tôi đã trình bày với Trịnh Thanh Phong rành rẽ cái kịch bản được hình thành trong trí tưởng. Tác giả “Ma làng” có vẻ phấn khích về điều này. Một giao kèo miệng được ký kết bằng một lần cụng ly đầy tràn, thừa thãi sự tin tưởng. Nhưng cũng phải ba bốn năm sau, khi dư âm “Đất và người” lắng xuống thì giao kèo làm “Ma làng” mới được mang ra thực hiện. Lúc này, xứ Tuyên đã quen thân với tôi, với Trịnh Thanh Phong trở thành người bạn văn chương vong niên rất đỗi chân thành. Hiếm năm nào tôi không lên Tuyên vài lượt. Khi là dự một hội thảo, lần làm giám khảo cuộc thi truyện ngắn hay là diễn giả về phim truyện cho một lớp sáng tác địa phương nhưng chủ yếu những cuộc gặp gỡ vẫn là sự bù khú bạn bè.

Trịnh Thanh Phong vốn là một người lính chiến đấu ở chiến trường Lào những năm bảy mươi thế kỷ trước. Cánh nhà văn phàm đã qua lính quả thật có dễ gần gụi nhau hơn. Mà cũng chẳng lạ khi lớp nhà văn từ tôi hất ngược lên chả mấy người không khoác áo lính. Như những người lính khác trở về sau chiến tranh, sáng tác của Trịnh Thanh Phong tập trung cho hồi ức chiến trận mà nổi bật là tiểu thuyết “Đất Cánh đồng Chum”. Nhưng nếu thế thì cũng như những nhà văn tầm tầm khác, sáng tác đó chỉ như trang sức của một đời sống hiện đại bởi tôi nghĩ, chỉ có những cây bút thật sự đau đáu vận mệnh đất nước mới xộc thẳng vào những vấn đề nóng bỏng của cuộc sống. Trịnh Thanh Phong là như vậy. Những truyện ngắn về một làng Ngò hoán danh được anh cho ra đời mà đỉnh cao phải là tiểu thuyết “Ma làng”.

Chân dung nhà văn Trịnh Thanh Phong qua nét vẽ của họa sĩ Đỗ Hoàng Tường

Biết Trịnh Thanh Phong qua tác phẩm, ngoài cuộc đời tôi càng thấy anh đúng là một lão nông tri điền. Hiểu biết tường tận của anh về người nông dân miền núi được thể hiện thật tài tình trong những trang sách hôi hổi hơi thở cuộc sống. Nhân vật của “Ma làng” nhập vào tôi từ lúc nào. Điều này nói thêm, chả cứ tôi, những ai yêu thích “Ma làng” đều có chung một cảm giác như vậy. Điều này đã được minh chứng bằng cảm nhận của những thành viên đoàn làm phim sau này.

Năm 2006, tôi lên dự đám cưới con của Trịnh Thanh Phong. Tại đây nhà văn giới thiệu với tôi một nhà thơ là doanh nhân – Ngô Đăng Khoa. Anh này giống tôi, đặc biệt yêu thích “Ma làng”. Khoa đề nghị tôi, nếu được nên quay “Ma làng” ở Hà Giang – nơi anh lập nghiệp nên có nhiều điều kiện để giúp việc làm phim tốt hơn. Ngay sau đám cưới, tôi mang “Ma làng” cho đạo diễn Nguyễn Hữu Phần đọc và đề nghị anh làm đạo diễn. Hơn cả tôi mong đợi, Nguyễn Hữu Phần bập rất nhanh vào “Ma làng” và đưa ra quyết định cũng rất nhanh. Nói thêm, Nguyễn Hữu Phần chính là đồng đạo diễn của phim “Đất và người” do tôi là đồng biên kịch với nhà văn Khuất Quang Thụy.

Ngay lập tức một ê-kíp làm phim do đạo diễn lựa chọn gồm họa sĩ, quay phim cùng tôi đi Tuyên Quang, Hà Giang. Trịnh Thanh Phong nhiệt tình cùng anh em đoàn phim đi thực địa. Không có phim nào mà kịch bản chưa có nổi một dòng mà các thành viên đoàn phim đã hứng khởi quyết tâm cao như thế. Họ đã đọc “Ma làng” và cũng như tôi, bị cuốn hút vào những vấn đề gay cấn rất đặc trưng của người nông dân trong thời điểm giao thời Đổi mới. Thế nhưng, Tuyên Quang có vẻ không mặn mà với một bộ phim nặng tính phê phán hiện thực như vậy, còn địa thế Hà Giang lại không phù hợp với bối cảnh bộ phim ở một thời kỳ bao cấp khốn khó.

Chuyến đi không đạt kết quả nhưng lại dẫn đến một quyết định sáng suốt là chuyển bối cảnh về Lương Sơn, Hòa Bình. Nói sáng suốt vì có một lý do hy hữu. Nhà thơ Ngô Đăng Khoa, người sốt sắng giúp đoàn phim “Ma làng” chẳng biết làm ăn thế nào mà dính dáng đến pháp luật bị khởi tố, bắt giam. Thật may mắn nếu quay ở Hà Giang thì đoàn phim sẽ bị ảnh hưởng không nhỏ. Sau này nhà thơ mất, tôi cùng Trịnh Thanh Phong đã lên Hà Giang viếng anh với vòng hoa có dòng chữ đầy sự biết ơn: “Đoàn phim “Ma làng” kính viếng”.

“Ma làng” được khởi động ngay sau chuyến đi thực địa bối cảnh. Tôi và Nguyễn Hữu Phần cùng chấp bút kịch bản rất nhanh, phim được hoàn thành suôn sẻ, được khán giả đón nhận nồng nhiệt. Sau khi phim phát sóng, Trịnh Thanh Phong và đạo diễn Nguyễn Hữu Phần được gắn thêm biệt danh “ma làng” vào tên gọi. Một tên gọi kèm tôi nghĩ là rất xứng đáng.

Nhà văn “ma làng’’ Trịnh Thanh Phong còn tiếp tục với phần hai của cuốn tiểu thuyết. Tôi vốn chỉ thích những gì mới mẻ, khai phá nên không tham gia vào bộ phim “Làng ma 10 năm sau” của đạo diễn Nguyễn Hữu Phần chuyển từ phần kéo dài tiểu thuyết “Ma làng”.

Trịnh Thanh Phong viết không nhiều, nhưng những tác phẩm của anh đều đặc sắc, chất lượng. Trong đó “Ma làng” là đỉnh cao của anh, một trong những cuốn tiểu thuyết xuất sắc của văn học đề tài nông thôn miền núi. Là hội viên của nhiều hội trong đó phải kể đến Hội Văn nghệ Dân gian Việt Nam, Hội Văn học Nghệ thuật các dân tộc thiểu số Việt Nam, “ma làng” này từng khiến tôi lầm tưởng anh là người dân tộc thiểu số. Nhưng không, nhà văn “ma làng” Trịnh Thanh Phong sinh năm 1949. Quê quán, xã Lâm Xuyên, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang. Dân tộc Kinh, chính hiệu!

Theo Phạm Ngọc Tiến/ Vanvn

Bài viết liên quan

Xem thêm
Nguyễn Thanh Quang - Giọng thơ trầm lắng từ miền sông nước An Giang
Trong bản đồ văn học đương đại Việt Nam, mỗi vùng đất đều mang trong mình một mạch nguồn riêng, âm thầm mà bền bỉ, lặng lẽ mà dai dẳng như chính nhịp sống của con người nơi đó. Và trong không gian thi ca rộng lớn ấy, An Giang như một miền phù sa bồi đắp bởi nhánh sông Hậu, bởi dãy Thất Sơn thâm u, bởi những cánh đồng lúa bát ngát, bởi mênh mang sóng biển và bởi những phận người chất phác, luôn có một sắc thái thi ca rất riêng. Đó là vẻ đẹp của sự hiền hòa xen chút sắc bén, của nỗi lặng thầm pha chút đa đoan, của những suy tư tưởng như bình dị mà lại chứa cả thẳm sâu nhân thế.
Xem thêm
Thơ Thảo Vi và cội nguồn ánh sáng yêu thương
Giọng thơ trầm bổng, khoan nhặt. Thi ảnh chân phương mà thật gợi cảm và tinh tế. Có lúc ta cảm nhận được những man mác ngậm ngùi, nỗi hối tiếc đan xen niềm hoài vọng, mơ tưởng. Thơ Thảo Vi có sự hòa phối các biện pháp nghệ thuật với dụng ý làm nổi bật nội dung, tư tưởng cốt lõi. Đó là tâm thức cội nguồn, chạm đến đỉnh điểm của tình cảm thương yêu, thấu hiểu với cõi lòng của đấng sinh thành. Thơ Thảo Vi là tiếng gọi đầy trìu mến, sâu lắng dư âm từ những thi hứng đậm cảm xúc trữ tình.
Xem thêm
Những chấn thương nội tâm trong “Mã độc báo thù”
“Mã độc báo thù” là tiểu thuyết mới nhất của nhà văn Nguyễn Văn Học, vừa được NXB Công an nhân dân phát hành. Đây là một trong vài tiểu thuyết đầu tiên viết về đề tài tội phạm công nghệ cao ở Việt Nam. Tuy nhiên, nhà văn không chỉ nói về tội phạm, mà còn xoáy sâu về những tổn thương của con người trong thời đại số.
Xem thêm
Huệ Triệu, một nhà giáo, nhà thơ
Cả hai tư cách, nhà giáo và thi nhân, Huệ Triệu là một gương mặt sáng giá.
Xem thêm
Chúng ta có thực sự tự do trong chính tác phẩm của mình?
Văn học, cũng như các lĩnh vực khác, theo tôi đều có những dòng chảy nối tiếp âm thầm, tạo nên nhiều sự giao thoa, đan cài giữa cũ và mới, quen thuộc và khác lạ
Xem thêm
Biểu tượng nước trong thơ Vũ Mai Phong
“Nước” trong văn hóa phương Đông là thủy – khởi nguyên của sự sống, mang phẩm chất mềm mại – bền bỉ – linh hoạt biến hóa của triết lý nhu thắng cương. Trong thi ca Việt Nam, “nước” gắn với dòng chảy thời gian tâm thức dân tộc, văn hóa lịch sử và tâm linh
Xem thêm
“Hư Thực” của Phùng Văn Khai: Tiếng nói Hậu Hiện Đại và Dấu Ấn Văn Chương Đương Đại Việt Nam
Văn học luôn là tấm gương phản chiếu xã hội, là nơi ghi lại những biến chuyển của thời đại và tâm hồn con người. Trong lịch sử văn học Việt Nam, mỗi thời kỳ đều có những tác phẩm tiêu biểu, vừa mang dấu ấn thời đại, vừa để lại những giá trị trường tồn cho đời sau. Tuy nhiên, khi thế giới bước vào kỷ nguyên toàn cầu hóa và đa dạng văn hóa, các giá trị truyền thống gặp nhiều thử thách. Đặc biệt, với sự bùng nổ thông tin và biến động xã hội, con người ngày nay không còn sống trong một thế giới đơn giản, rạch ròi mà là một thế giới đa chiều, hỗn loạn và khó đoán định.
Xem thêm
Thế giới kỳ vĩ của thơ
Thế giới của thơ, với thi sỹ là bến đậu của tâm hồn, là cánh đồng gieo trồng cảm xúc và chữ nghĩa, là bầu trời để cất cánh ước mơ và thả hồn phiêu lãng; với đọc giả là nhịp cầu kết nối con tim, là dòng sông soi rọi, tắm táp tâm hồn để được nâng đỡ và bay cao.
Xem thêm
Văn học dịch và những tác động đến đời sống văn học Việt Nam những năm đầu thế kỉ XXI
Nói đến văn học dịch những thập niên đầu thế kỉ 21, có lẽ, trước hết, phải nhắc tới việc rất nhiều tác phẩm thuộc hàng “tinh hoa”, “kinh điển”, hay các tác phẩm đạt được các giải thưởng văn chương danh giá (Nobel, Pulitzer, Man Booker...) đã được chú trọng chuyển ngữ trong giai đoạn này.
Xem thêm
Vài nhận thức về trường ca “Lò mổ” của Nguyễn Quang Thiều
Tôi hỏi nhiều nhà thơ và văn, rằng họ thấy trường ca “Lò mổ” của Nguyễn Quang Thiều như thế nào và đặng họ có thể khai sáng chút gì cho tôi nhưng không ai có câu trả lời khiến tôi thỏa mãn, đa phần đều nói “Ái chà, Lò mổ của Nguyễn Quang Thiều hả, bọn tớ cũng chỉ nghe dư luận ồn ào trên mạng thôi chứ có sách đọc đâu!”.
Xem thêm
Nguyễn Duy – Vịn thi ca vượt thác thời gian...
Bài đăng Văn nghệ Công an số ra ngày 13/11/2025
Xem thêm
Thơ có nghĩa là “thương” - Tiếng thơ Đặng Nguyệt Anh
Một bài viết thấm đẫm nhân tình của Tuấn Trần – người trẻ viết về Đặng Nguyệt Anh, “ngoại” của thơ và của lòng nhân hậu. Từ câu chữ đến cảm xúc, bài viết là một lời tri ân chân thành dành cho thế hệ cầm bút đã “đem trái tim yêu thương gánh ghì số phận chung”, để hôm nay, thơ của họ vẫn còn làm dịu đi những cơn bão đời người.
Xem thêm
Chất liệu dân gian trong ca khúc Việt Nam hiện đại
Bài viết này xin phép được tiếp tục trình bày một xu hướng vận động chủ đạo của âm nhạc dân gian truyền thống Việt Nam sau 1975: dân tộc hóa ca khúc Việt Nam.
Xem thêm
Đọc thơ Thiên Di
Dường như là một giấc mơ chậm rãi, dịu dàng, vẫn đọng lại dư âm của cô đơn, khao khát và hy vọng. Tác giả sử dụng nhịp điệu từ những chi tiết nhỏ – mưa rả rích, ánh mắt, cánh hoa – để cảm xúc lan tỏa, khiến độc giả không cần lạm dụng từ ngữ hoa mỹ vẫn cảm nhận được sự mềm mại, tinh tế và ám ảnh.
Xem thêm
Nguyễn Khuyến “thâm nho” giữa đời thường
Nguyễn Khuyến (Nguyễn Thắng, 1835-1909) hiệu Quế Sơn, tự Miễn Chi. Người đời gọi ông là Tam Nguyên Yên Đổ, do lấy địa danh là xã (làng) Yên Đổ (huyện Bình Lục, Hà Nam trước đây) ghép với việc ông thi đỗ đầu (giải nguyên) cả ba kỳ thi hương, hội và đình. Nhưng việc này thì chính Nguyễn Khuyến cũng chẳng tự hào cho lắm, ông viết: “Học chẳng có rằng hay chi cả/ Cưỡi đầu người kể đã ba phen”.
Xem thêm
Triệu Kim Loan - Khúc độc thoại xanh của hồng gai
Bài viết sâu sắc dưới đây của nhà văn Kao Sơn dành cho buổi ra mắt sách Chữ gọi mùa trăng - Tập thơ thứ 7 đánh dấu chặng đường chín muồi của nhà thơ Triệu Kim Loan
Xem thêm
Quan niệm của Xuân Diệu về thơ từ những câu chuyện đời thường
Sinh thời, theo thống kê của Mã Giáng Lân, thi sĩ Xuân Diệu đã có hơn 500 buổi bình thơ trước công chúng. Đây là hoạt động nghệ thuật mà hiếm có nhà thơ, nhà văn nào ở Việt Nam và cả trên thế giới có thể sánh được. Không chỉ trong nước, chính “ông Hoàng thơ tình” Xuân Diệu đã có công quảng bá thi ca Việt Nam ra thế giới, giúp độc giả nước ngoài biết đến Nguyễn Du, Nguyễn Trãi, Tú Xương, Hồ Xuân Hương…
Xem thêm
Hành trình nước - Bước chuyển mình của kẻ sĩ chu du
Với Hành trình nước, Vũ Mai Phong cho phép người đọc thám hiểm một cõi tâm hồn mình, để chiêm nghiệm, để cảm nhận sự chuyển hóa kỳ diệu của nước - từ giọt sương nhỏ bé hóa thành đại dương bao la, từ tâm hồn cá nhân hòa vào tính thiêng của Tổ quốc.
Xem thêm
Gió Phương Nam 4 - Những lời thơ chân thực
Trang thơ “Gió Phương Nam 4” dễ dàng gợi lại những bước chân đồng đội năm xưa – bước chân thời chiến, bước chân thời bình, mang theo niềm vui, nỗi nhớ và cả những nỗi buồn sâu lắng.
Xem thêm