TIN TỨC

Những dấu chân thơ nhiều dư vị xao xuyến

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2023-07-27 20:50:14
mail facebook google pos stwis
1770 lượt xem

LÊ THIẾU NHƠN

Sau hai ấn phẩm, tập thơ “Bầu trời dưới đáy sông” in năm 2017 và tập thơ “Muôn nỗi gần xa” in năm 2022, nhà thơ Trần Kim Dung trở thành hội viên Hội Nhà văn TP.HCM. Đó là chỉ dấu cho một tấm lòng thiết tha với thi ca, chân thành và tin cậy. Bây giờ, tập thơ thứ ba của nhà thơ Trần Kim Dung được ra mắt, để cùng chị rong ruổi tìm kiếm tri âm thanh thản và tận tụy. 

Nhà thơ Trần Kim Dung có nhiều năm làm hiệu trưởng Trường trung học cơ sở An Đà, Hải Phòng. Nghỉ hưu, nhà thơ Trần Kim Dung rời thành phố hoa phượng đỏ, chuyển vào sinh sống tại đô thị nhộn nhịp nhất phương Nam, và tiếp tục theo đuổi đam mê sáng tác văn chương mà chị ấp ôm từ thời thanh xuân. Chị lặng lẽ chạm tay những chữ nghĩa mơ màng và bồi hồi lắng nghe tiếng vọng những vần điệu bâng khuâng.

Cầm tập thơ “Những dấu chân thơ” và lần mở từng trang, chắc chắn độc giả dễ dàng nhận diện hành trình thao thức của nhà thơ Trần Kim Dung. Không chủ đích gieo ý tứ vào suy tưởng, mà chị tìm thấy chất thơ ngẫu nhiên tức cảnh sinh tình. Nhà thơ Trần Kim Dung may mắn có điều kiện thăm viếng nhiều nơi, và càng may mắn hơn khi chị có thi ca cùng nhịp bước. Những câu phiêu lãng vụt đến, những câu xôn xao bay theo, khiến chị trở thành một lữ khách hạnh phúc trên các nẻo đường nhớ thương.

Nhà thơ Trần Kim Dung luôn luôn gói ghém sự trìu mến để ghé qua từng vùng đất. Chị xem mỗi chốn xa lạ mình có dịp ghé lại, không phải một địa chỉ du lịch với dăm phút giây ngắm nghía khuây khỏa vui thú, mà giống như một miền thương yêu đích thực. Vì vậy, chị được “về” để lắng đọng cùng vạn vật, dẫu là ngọn cỏ bơ vơ ven đê hay dẫu là quán nhỏ cô quạnh cuối phố. Những bài thơ “Về Phú Yên”, “Về Điện Biên”, “Về đảo ngọc”, “Về xứ Thanh”... rung động nhờ trái tim ân cần dắt dìu tác giả ngược xuôi dặm dài mưa nắng.

Lấy tâm thế “về” làm cảm hứng chủ đạo, nhà thơ Trần Kim Dung được hít thở trọn vẹn với từng không gian thân thuộc, thẳm sâu và bình dị: “Từ trong hoa cỏ xa gần/ Vẫn nghe như tiếng rì rầm người xưa”. Không có ai là người dưng lạnh lùng trong cuộc gặp gỡ hữu duyên, nên mỗi sắc thái tao ngộ đều lưu luyến khôn nguôi: “Vừa mới đến Bến Đục/ Gạo đã thắp lửa mừng”.

Đã bỏ lại sau lưng những thăng trầm và những bôn ba, nhà thơ Trần Kim Dung dùng ánh mắt độ lượng và ấm áp để soi rọi cõi dương gian nhọc nhằn mà sẻ chia, mà nương tựa. Chị phát hiện vẻ đẹp hoa ban Tây Bắc đắm đuối “Cả núi rừng bung lụa trắng lên mây” và chị phát hiện giữa điệp trùng hiểm trở vùng cao có nét riêng quyến rũ “Đèo Pha Đin bay lên trong mây trắng/ Dốc quanh co đến tận cổng trời”.

Thơ Trần Kim Dung không cầu kỳ cũng không bóng bẩy. Chị nhẹ nhàng ghi lại những xao xuyến của mình, thành những lời tỉ tê bất ngờ. Ví dụ, “Tiếng tằm ăn rỗi như chiều đổ mưa” là một câu thơ chẳng cần bám víu vào văn bản cố định nào, cũng chẳng cần hỗ trợ bởi câu chuyện lâm ly nào. Một câu thơ không chút kỹ thuật, mà dư âm cứ bồng bềnh, cứ ngân nga. Một câu thơ độc lập, tự tại và ôn tồn, chứng minh phẩm chất thi sĩ của người viết.

Nhìn thật bao quát, nhà thơ Trần Kim Dung có thói quen thể hiện những suy tư bằng thơ lục bát. Những câu sáu chậm rãi và những câu tám giải bày, vốn thuận lợi cho tác giả muốn truy vấn những bồi hồi trong muôn trùng kỷ niệm. Nhà thơ Trần Kim Dung thong dong sử dụng lục bát để níu giữ những khoảnh khắc thoáng gặp đã gắn bó như cố nhân, khi xa vắng “Vườn chùa xanh thắm bóng cây/ Giọt chuông rơi xuống nở đầy sen thơm”, khi ngậm ngùi “Hỏi đò đứng đó đợi ai/ Cho ta làm bạn đường dài quá giang” và cả khi nôn nao “Hoàng hôn tím nữa đi nào/ Cho ta quên lối, lạc vào chốn xưa”.

Đọc thơ Trần Kim Dung, không khó để mường tượng tương đối rõ ràng một người phụ nữ đa đoan và đôn hậu. Chị giăng mắc cố hương gần gũi với mình: “Cổng làng tóc nhuộm gió sương/ Hai vai gánh nặng con đường bão giông”, và chị xót xa với cuộc mưu sinh nhọc nhằn của đứa trẻ nghèo một lần chứng kiến ở Biển Hồ, Campuchia: “Mò sâu tận đáy bùn lầy/ Mong sao vớt được một ngày trong mơ”.

Tập thơ “Những dấu chân thơ” mang phong vị của trải nghiệm nâng niu và an ủi. Những dấu chân của nhà thơ Trần Kim Dung không nhàn rỗi với từng danh thắng mà bận bịu với từng con người, dẫu chỉ lướt qua nhau giữa mùa trôi bất tận. Công trình kỳ vĩ hay thiên nhiên lộng lẫy được chị đề cập cụ thể, cũng chỉ là cơn cớ để chị sốt ruột nghĩ về mỗi số phận nhỏ bé trong thế giới hội nhập thênh thang ưu phiền.

Những dấu chân của chị đã đi đến thơ, nhờ thơ bịn rịn xoa dịu “Áo chàm thấp thoáng nương xanh/ Để ai tìm mãi dáng hình trong mơ/ Rừng nghiêng thác cuộn gió mưa/ Ngỡ đâu tiếng triệu năm xưa vọng về” và nhờ thơ thầm thì khấn nguyện “Đón năm mới miền Trung mưa rả rích/ Bỗng nhớ phương Nam chan chứa nắng vàng/ Ước gì đem được chút trời xanh mây trắng/ Để sông Hoài náo nức chuyến đò ngang”.

Sài Gòn, 5/2023

Bài viết liên quan

Xem thêm
“Hư Thực” của Phùng Văn Khai: Tiếng nói Hậu Hiện Đại và Dấu Ấn Văn Chương Đương Đại Việt Nam
Văn học luôn là tấm gương phản chiếu xã hội, là nơi ghi lại những biến chuyển của thời đại và tâm hồn con người. Trong lịch sử văn học Việt Nam, mỗi thời kỳ đều có những tác phẩm tiêu biểu, vừa mang dấu ấn thời đại, vừa để lại những giá trị trường tồn cho đời sau. Tuy nhiên, khi thế giới bước vào kỷ nguyên toàn cầu hóa và đa dạng văn hóa, các giá trị truyền thống gặp nhiều thử thách. Đặc biệt, với sự bùng nổ thông tin và biến động xã hội, con người ngày nay không còn sống trong một thế giới đơn giản, rạch ròi mà là một thế giới đa chiều, hỗn loạn và khó đoán định.
Xem thêm
Thế giới kỳ vĩ của thơ
Thế giới của thơ, với thi sỹ là bến đậu của tâm hồn, là cánh đồng gieo trồng cảm xúc và chữ nghĩa, là bầu trời để cất cánh ước mơ và thả hồn phiêu lãng; với đọc giả là nhịp cầu kết nối con tim, là dòng sông soi rọi, tắm táp tâm hồn để được nâng đỡ và bay cao.
Xem thêm
Văn học dịch và những tác động đến đời sống văn học Việt Nam những năm đầu thế kỉ XXI
Nói đến văn học dịch những thập niên đầu thế kỉ 21, có lẽ, trước hết, phải nhắc tới việc rất nhiều tác phẩm thuộc hàng “tinh hoa”, “kinh điển”, hay các tác phẩm đạt được các giải thưởng văn chương danh giá (Nobel, Pulitzer, Man Booker...) đã được chú trọng chuyển ngữ trong giai đoạn này.
Xem thêm
Vài nhận thức về trường ca “Lò mổ” của Nguyễn Quang Thiều
Tôi hỏi nhiều nhà thơ và văn, rằng họ thấy trường ca “Lò mổ” của Nguyễn Quang Thiều như thế nào và đặng họ có thể khai sáng chút gì cho tôi nhưng không ai có câu trả lời khiến tôi thỏa mãn, đa phần đều nói “Ái chà, Lò mổ của Nguyễn Quang Thiều hả, bọn tớ cũng chỉ nghe dư luận ồn ào trên mạng thôi chứ có sách đọc đâu!”.
Xem thêm
Nguyễn Duy – Vịn thi ca vượt thác thời gian...
Bài đăng Văn nghệ Công an số ra ngày 13/11/2025
Xem thêm
Thơ có nghĩa là “thương” - Tiếng thơ Đặng Nguyệt Anh
Một bài viết thấm đẫm nhân tình của Tuấn Trần – người trẻ viết về Đặng Nguyệt Anh, “ngoại” của thơ và của lòng nhân hậu. Từ câu chữ đến cảm xúc, bài viết là một lời tri ân chân thành dành cho thế hệ cầm bút đã “đem trái tim yêu thương gánh ghì số phận chung”, để hôm nay, thơ của họ vẫn còn làm dịu đi những cơn bão đời người.
Xem thêm
Chất liệu dân gian trong ca khúc Việt Nam hiện đại
Bài viết này xin phép được tiếp tục trình bày một xu hướng vận động chủ đạo của âm nhạc dân gian truyền thống Việt Nam sau 1975: dân tộc hóa ca khúc Việt Nam.
Xem thêm
Đọc thơ Thiên Di
Dường như là một giấc mơ chậm rãi, dịu dàng, vẫn đọng lại dư âm của cô đơn, khao khát và hy vọng. Tác giả sử dụng nhịp điệu từ những chi tiết nhỏ – mưa rả rích, ánh mắt, cánh hoa – để cảm xúc lan tỏa, khiến độc giả không cần lạm dụng từ ngữ hoa mỹ vẫn cảm nhận được sự mềm mại, tinh tế và ám ảnh.
Xem thêm
Nguyễn Khuyến “thâm nho” giữa đời thường
Nguyễn Khuyến (Nguyễn Thắng, 1835-1909) hiệu Quế Sơn, tự Miễn Chi. Người đời gọi ông là Tam Nguyên Yên Đổ, do lấy địa danh là xã (làng) Yên Đổ (huyện Bình Lục, Hà Nam trước đây) ghép với việc ông thi đỗ đầu (giải nguyên) cả ba kỳ thi hương, hội và đình. Nhưng việc này thì chính Nguyễn Khuyến cũng chẳng tự hào cho lắm, ông viết: “Học chẳng có rằng hay chi cả/ Cưỡi đầu người kể đã ba phen”.
Xem thêm
Triệu Kim Loan - Khúc độc thoại xanh của hồng gai
Bài viết sâu sắc dưới đây của nhà văn Kao Sơn dành cho buổi ra mắt sách Chữ gọi mùa trăng - Tập thơ thứ 7 đánh dấu chặng đường chín muồi của nhà thơ Triệu Kim Loan
Xem thêm
Quan niệm của Xuân Diệu về thơ từ những câu chuyện đời thường
Sinh thời, theo thống kê của Mã Giáng Lân, thi sĩ Xuân Diệu đã có hơn 500 buổi bình thơ trước công chúng. Đây là hoạt động nghệ thuật mà hiếm có nhà thơ, nhà văn nào ở Việt Nam và cả trên thế giới có thể sánh được. Không chỉ trong nước, chính “ông Hoàng thơ tình” Xuân Diệu đã có công quảng bá thi ca Việt Nam ra thế giới, giúp độc giả nước ngoài biết đến Nguyễn Du, Nguyễn Trãi, Tú Xương, Hồ Xuân Hương…
Xem thêm
Hành trình nước - Bước chuyển mình của kẻ sĩ chu du
Với Hành trình nước, Vũ Mai Phong cho phép người đọc thám hiểm một cõi tâm hồn mình, để chiêm nghiệm, để cảm nhận sự chuyển hóa kỳ diệu của nước - từ giọt sương nhỏ bé hóa thành đại dương bao la, từ tâm hồn cá nhân hòa vào tính thiêng của Tổ quốc.
Xem thêm
Gió Phương Nam 4 - Những lời thơ chân thực
Trang thơ “Gió Phương Nam 4” dễ dàng gợi lại những bước chân đồng đội năm xưa – bước chân thời chiến, bước chân thời bình, mang theo niềm vui, nỗi nhớ và cả những nỗi buồn sâu lắng.
Xem thêm
“Bến nước kinh Cùng” - Bến đợi của ký ức và tình người…
“Giữa bao vội vã, còn mấy ai lắng lòng với những phận người quê mộc mạc?” - Chính từ trăn trở ấy, “Bến nước kinh Cùng” của nhà văn Nguyễn Lập Em được tìm đến như một lời nhắc nhở tha thiết, đưa ta trở về với đất và người Nam Bộ, nơi tình quê và tình người thấm đẫm trong từng trang viết.
Xem thêm
Người thơ xứ Quảng: “Ảo hương lãng đãng bên trời cũ”
Nhà thơ Xuân Trường - tên thật Nguyễn Trường - là một tâm hồn phiêu bạt. Ông sinh ngày 12/12/1949 (theo giấy khai sinh) nhưng thực tế là năm 1945 (tuổi Ất Dậu), tại xã Đại Phong, huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam.
Xem thêm
Nước sông Sa Lung chưng cất bầu rượu thơ
Nhà thơ Nguyễn Hữu Thắng lớn lên bên dòng sông Sa Lung xanh trong. Có phải dòng sông Sa Lung là dòng sông thơ ca của đất Rồng - Vĩnh Long?. Tuổi thơ anh vô tư ngụp lặn vẫy vùng bơi lội tắm mát trong dòng sông ấy, nên anh rất yêu thơ, tập tành sáng tác thơ và thành công thơ khá sớm.
Xem thêm
Cung ngà xưa – Tiếng vọng ký ức trong miền tiếp nhận hôm nay
Đặt trong bối cảnh văn hóa, “cung ngà” còn gợi đến truyền thống âm nhạc dân tộc, nơi tiếng đàn, tiếng sáo từng là phương tiện gắn kết cộng đồng. Người miền Trung – đặc biệt là Huế và xứ Quảng – vốn sống trong không gian khắc nghiệt, thường tìm đến âm nhạc như một nơi trú ngụ tinh thần. Vì vậy, bài thơ không chỉ là ký ức cá nhân, mà còn mang dấu vết của ký ức tập thể.
Xem thêm
“Công chúa Ngọc Anh – bể khổ kiếp nhân sinh”
Văn học lịch sử vốn được xem là mảng khó viết bởi vừa đảm bảo tính chính xác vừa phải tạo được tính hấp dẫn lôi cuốn. Người viết văn học lịch sử không thể xuyên tạc, tô vẽ hay làm méo mó đi nội dung câu chuyện. Chính vì khó viết nên văn học lịch sử luôn là đề tài thu hút nhiều người đọc, bởi đó là cơ hội để người đọc và người sáng tác chiêm nghiệm lại quá khứ, suy ngẫm về tương lai, trăn trở về những hưng thịnh của thời đại, là một dòng chảy làm tái sinh những giai thoại dựa trên sự kiện lịch sử. Người viết văn học lịch sử là người phục dựng lại những bí ẩn còn chìm sâu trong bức màn thời gian, làm sáng tỏ những giá trị nghệ thuật mang tính truyền thống hay tín ngưỡng.
Xem thêm
Nhẹ nhàng bài ca cuộc sống nơi “Những cơn mưa thu” của Thanh Tám
Thanh Tám, Hội viên Hội Văn học nghệ thuật Lai Châu là cây viết truyện ngắn khá quen thuộc với bạn đọc. Một số truyện ngắn của Thanh Tám đã được đăng tải trên các trang báo sang trọng Báo Văn nghệ, Trang báo điện tử Vanvn.vn của Hội Nhà văn Việt Nam. Một trong những truyện ngắn của em, tôi tin rằng nhiều người thiện cảm, đó là truyện ngắn Những cơn mưa thu. Một câu chuyện gọn gàng, xinh xắn, gợi trong lòng độc giả những ấm áp, yêu thương như giọng văn nhẹ nhàng, truyền cảm của tác giả vậy.
Xem thêm