TIN TỨC
  • Lý luận - Phê bình
  • Tiểu thuyết “Hoa cho tình yêu” của nhà văn Hoàng Phương Nhâm là bản Thánh ca về nỗi đau đất nước thời hậu chiến

Tiểu thuyết “Hoa cho tình yêu” của nhà văn Hoàng Phương Nhâm là bản Thánh ca về nỗi đau đất nước thời hậu chiến

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2024-11-09 14:30:13
mail facebook google pos stwis
950 lượt xem

LỜI TỰA

NHỊ NGUYÊN

Cuốn tiểu thuyết về tình yêu thời hiện tại với tất cả những éo le phức tạp, những hỉ nộ ái ố thường gặp nhưng nguồn gốc thành phần xuất thân của những nhân vật hiện hữu trong cuộc tình lại khiến người đọc quan tâm đến những điều ẩn sâu trong đó. Đó là những vấn đề của hậu chiến, là khát vọng của những linh hồn lính chiến của cả hai phía đã ngã xuống trong cuộc chiến tranh, là sự hòa hợp dân tộc. Những di chứng mà bất kì một cuộc chiến tranh nào cũng để lại sau khi nó kết thúc bằng những phân định thắng thua.

Hiếu Tuệ, cô sinh viên Y khoa trong một lần từ trường trở về nhà để kịp làm lễ sinh nhật mẹ- Bà Quyên Ái-  đã bất ngờ gặp một tai nạn. Cô thấy mình bị rơi xuống một vùng đất lạ: “Hiểu Tuệ ngơ ngác đứng giữa hoang hoải nắng. Cả vùng đất rộng hút tầm mắt chỉ một màu vàng cháy rụi của cây cỏ, mặt đất bị cày xới nham nhở, những hố lớn hố nhỏ đè lên nhau. Không gian khét lẹt mùi hóa chất, mùi thịt nướng quá lửa, mùi thối rữa như mùi động vật đang kỳ phân hủy. Hiểu Tuệ hoảng sợ, cô không hiểu làm sao lại đến nơi đây. Cô nhón chân hối hả mong chạy khỏi vùng đất khủng khiếp này để tìm đường về nhà. Những mảnh gang sắc nhọn ẩn khuất trên mặt đất cứa vào bàn chân trần của cô. Nơi cô chạy qua đều để lại một dấu chân đỏ máu. Gần như kiệt sức, Hiểu Tuệ hét gọi…” Cô không biết đây là vùng đất chết- Nhưng như một run rủi của số phận, chính trong lúc vô cùng hoảng sợ này cô bất ngờ được Nhậm Thành cứu giúp. “Đứng trước cô là một người trai trẻ chững chạc trong bộ quân phục rằn ri. Dáng người anh cao to nổi bật trong ráng chiều chạng vạng. Hiểu Tuệ thấy bộ quân phục anh mặc giống như trong bức hình của ông ngoại chụp khi ông là lính Việt Nam cộng hòa vừa ở mặt trận về trong bức ảnh cưới với bà ngoại. Mà thời đó đã lâu lắm rồi, sao giờ người này lại vẫn mặc bộ đồ y chang vậy?!” Hiểu Tuệ lại càng không biết Nhậm Thành vốn là một sỹ quan Cộng hoà, bạn thân của Vĩnh Lộc ông nội cô. Ông nội cô là con của một chủ trại ngựa đua. Cả hai đều đã tử trận trong cuộc chiến trước đây và Nhậm Thành đang trên đường đi tìm Vĩnh Lộc (Người đang cùng bị mắc kẹt trong một vách đá bên bờ vực ở vùng núi sâu hoang vắng cùng một người lính Bắc Việt: Giang Tử Quang). Nhậm Thành không để ý đến thái độ đó của Hiểu Tuệ. Anh nắm tay cô chạy nhanh ra khỏi vùng đất chết đó đưa cô đến một nơi có phong cảnh kì thú đẹp như cảnh nơi tiên giới: Vườn Đà La. Và từ đây Hiểu Tuệ tỉnh lại thấy mình trong bệnh viện có ánh mắt trìu mến của An Đông- người bác sỹ trẻ. Có thể đó cũng lại là một sắp đặt đầy thử thách của số phận. An Đông là cháu nội của ông Giang Tử Quang và bà Kim Thư- Hai cán bộ cách mạng, hai bác sỹ giỏi của ngành Y tế miền Bắc. Giang Tử Quang ra mặt trận và hy sinh. Bà Kim Thư sau khi thống nhất đất nước chuyển công tác vào Sài Gòn với ý đồ sẽ được gần nơi chồng hi sinh, có thể thuận lợi cho việc đi tìm kiếm hài cốt của chồng và em chồng. Bà có thời gian tham mưu cho lãnh đạo thành phố. Bà là một người tài giỏi, mẫn cán nhưng cũng không ngừng nuôi trong lòng mối hận thù với “Phía bên kia”, những người đã sát hại chồng bà. Bi kịch bắt đầu. Khi biết An Đông yêu Hiếu Tuệ- Một cô gái có nguồn gốc thuộc phe đối kháng trước, bà đã tìm mọi cách để ngăn cản… Cuộc tình của Hiểu Tuệ và An Đông bị đặt trước muôn vàn thử thách, những thử thách của đời thường, cạm bẫy cùng những quan niệm, những định kiến và của những quá khứ buồn trước đây. Nhưng cuối cùng, như một sự an bài cần thiết cho mọi cuộc tình, cho mọi đổ vỡ, bằng sự chân thành, bằng tình yêu đích thực… cuối cùng sau bao giông bão, thử thách, con thuyền tình yêu của Hiếu Tuệ và An Đông đã cập bến Hạnh Phúc. Một cái kết có hậu.

 Và để thực hiện cuốn sách cho phù hợp nội dung, nhà văn đã dùng nhiều thủ pháp, đa phong cách và đa thể loại. Từ hiện thực tới siêu thực, tới hiện thực huyền ảo. Từ cổ điển kết hợp liêu trai. Từ chi tiết đến ước lệ. Tất cả được sử dụng đan xuyên một cách khéo léo và tinh tế. Những nhân vật của đời thực như Bà Kim Thư, bà Quyên Ái. Âu Dương Văn: chủ tịch tập đoàn AUDUONG Đài Loan. Âu Dương Vệ Trân: Con gái Âu Dương Văn, Phương Minh: Bạn Hiểu Tuệ. -Khải Ninh: Chồng Phương Minh…. Đươc đặt cạnh những người đã mất như Giang Tử Quang, Nhậm Thành, Vĩnh Lộc, Uyển Vy… Khung cảnh đời thực như Thành phố, bệnh viện cho đến vườn tược, những khuôn viên rực rỡ sắc màu cùng dòng sông đêm huyền ảo mà ở đó những con người thật đang sống cuộc đời thật với yêu thương tràn đầy cùng bao toan tính đời thường được đặt bên ngôi làng Chó Lạc, ấp Giáng Hương, Làng Chiến Binh của người chết hay bãi đất trống hoang vu trong ánh chiều ma quái. Những ngôi làng của những linh hồn người lính của cả hai phía trước đây đối địch nhau thì bây giờ vì lí do nào đó di cốt của họ họ chưa được đưa về, vẫn gửi thân nơi rừng hoang núi lạnh. Và họ tụ lại với nhau thành làng, tự an ủi nhau, truyền cho nhau niềm vui. Ở đây thù hận không còn tồn tại. Cũng có lúc những linh hồn lính trẻ nhớ lại trận đánh mà họ đã “Nhắm vào nhau” bằng một chút ưu tư mẫn cảm nhưng rồi lại ôm vai nhau, kể cho nhau nghe về kỉ niệm tươi đẹp ngày chưa nhập ngũ, những yêu thương gửi lại quê nhà…Tất cả những điều đó đã tạo nên một không gian truyện đầy hấp dẫn với cái nhìn vừa thiết thực, vừa nhân bản. Hận thù, chia rẽ, những vết thương hay sự đổ vỡ của con người gây ra cho nhau cuối cùng rồi cũng phủ bụi thời gian chỉ TÌNH YÊU, TÌNH YÊU đích thực và chân thành cùng với lòng vị tha, thông cảm và chia sẻ còn tồn tại. Và đó sẽ là phương thuốc cứu cánh duy nhất có thể hàn gắn và đem lại cho con người sự an nhiên, sự tĩnh tâm để những điều tốt đẹp nảy sinh.

 Dù thời tiết thế nào, khung cảnh nào thì cái đẹp vĩnh cửu như HOA CHO TÌNH YÊU vẫn nở.

Hà Nội tháng 5 Năm 2024


Nhà văn Hoàng Phương Nhâm

 

Tiểu thuyết “Hoa cho tình yêu”  là bản Thánh ca về nỗi đau đất nước thời hậu chiến

VĂN CHINH

Cuộc tìm kiếm nào cũng đáng quý, bởi vì khi còn tìm là còn niềm tin và hy vọng - hai động lực làm nên sức hấp dẫn của kiếp nhân sinh. Mùa hè năm 2024 cư dân mạng xôn xao về sư Thích Minh Tuệ tu 13 hạnh đầu đà, là xôn xao về một cuộc tìm kiếm vĩ đại vậy. Cho nên tiểu thuyết xưa nay nhiều cuốn viết về những chuyến đi tìm. Gần gũi và ngắn hạn như An Đông tìm hoa hồng đẹp tặng người yêu Hiểu Tuệ, như Vĩnh Lộc tìm kiếm hoa đẹp tặng người chiến hữu tử sĩ Nhậm Thành- oái oăm thay, mẹ Hiểu Tuệ - bà Quyên Ái, lại là con gái bà chủ quán hoa Tư Hồng, những năm 1970 là vợ của Vĩnh Lộc. Vậy là trước hàng hoa ấy, đã có ba thế hệ yêu nhau, họ đều giống nhau ở chỗ nhờ chủ quán chọn giúp mình một bông hồng đẹp để tặng người yêu. Một minh triết hàm chứa ẩn dụ về sự NHƯ NHAU giữa các thế hệ người trước tình yêu và cái đẹp dù họ khác nhau niềm tin, vùng miền, chiến tuyến.

Nhưng tìm kiếm hài cốt, linh hồn của người thân và đồng đội chưa rõ danh tính mới thật đáng quý, nhất là ở những người từng đối diện nhau qua họng súng. “Đi tìm đồng đội” là một chuyên mục của đài phát thanh, truyền hình Việt Nam suốt mấy chục năm qua - đồng đội là danh từ chung, nhưng với số đông, nó có nghĩa là quân Giải phóng bao gồm bộ đội miền Bắc theo dọc Trường Sơn mà vào. Chỉ đến tiểu thuyết HOA CHO TÌNH YÊU này, qua nhân vật Nhậm Thành và Vĩnh Lộc, qua các “làng tử sĩ” - nơi quần cư của những linh hồn mà hình hài còn bị mắc kẹt đâu đó trên sa trường, nó có thêm hàm nghĩa mới. Những trang viết về cuộc gặp gỡ giữa hai động đội cũ Nhậm Thành và Vĩnh Lộc lại cũng là cuộc gặp mới giữa Nhậm Thành với Giang Tử Quang là bác sĩ bộ đội giải phóng  - vì Vĩnh Lộc và Giang Tử Quang bị mắc kẹt ở vách đá hoang vu sau nửa thế kỷ trong oải mục họ là hàng xóm của nhau, họ đã thành bạn bè. Đây là những trang văn xuôi mới mẻ, thấm thía tình người lại cũng đầy ẩn dụ.

Người H’Mông có câu, khi đã lấy chồng, sống là người nhà chồng, chết làm ma nhà chồng. Ở “HOA CHO TÌNH YÊU”, câu nói sắt son chung thủy này đã thành nghĩa: “là người Việt, sống trên đất Việt, chết làm ma đất Việt”. Thường nghe câu, trước cái chết, mọi người đều bình đẳng. Đi tiếp định đề ấy, ta nhận ra: Có lẽ, khi qua sông Nại Hà, con người rũ bỏ mọi thành kiến, tội nợ, oan nghiệt để nhập trại di cư trung chuyển trước khi đầu thai đến kiếp khác, ở một không gian khác. Con người theo thời gian nối gót nhau đi đến cuối cuộc đời, khi bị cái chết khựng lại thì theo lực quán tính, linh hồn bị văng về phía trước cùng căn nghiệp vẫn còn dang dở nên tiếp tục hóa giải chăng? 

Nhưng rũ bỏ là một quá trình. Không kỳ hạn, như sông Nại Hà dài rộng ra sao không ai đo được. Như với bà Kim Thư, khi đã già, đã sống rất lâu trong phú quý giàu sang nhưng vẫn không thể quên mối thù những kẻ đã bắn chết chồng bà. Chúng cắt ngang tuổi thanh xuân chất chứa khao khát tình yêu thương, ân ái, để chỉ còn đời mẹ góa con côi dài thăm thẳm. Càng thương nhớ chồng, càng sống lâu trong niềm sắt son chung thủy thì mối hận thù càng như nêm khắc trong lòng của bà. Bà không thể chấp nhận cháu nội bà, bác sĩ An Đông yêu cháu nội kẻ thù, bác sĩ Hiểu Tuệ. Bà không biết có một cõi khác, nơi linh hồn của những cựu thù Vĩnh Lộc, bác sĩ Giang Tử Quang - chồng bà đã dần trở nên thân thiện sau khi cùng tắm nước Nại Hà, lại sống bên nhau suốt nửa thế kỷ ở cõi tuyệt không tiếng súng. 

Tuy hận thù oan trái nhưng cũng kỳ diệu thay, cuộc đời! Trong khuôn viên biệt thự của bà Kim Thư là hoa viên gồm nhiều cây ăn trái cùng kỳ hoa dị thảo. Hoa trong tiểu thuyết này chẳng những làm dịu lại lòng thù hận đối với người sống, hoa còn làm lồng ấp nuôi thần thái Hiểu Tuệ trong thời gian cô bị ngất. Đó là những trang văn đẹp: “Cô thấy mình bị bất ngờ rơi xuống một vùng đất lạ- Hiểu Tuệ ngơ ngác đứng giữa hoang hoải nắng. Cả vùng đất rộng hút tầm mắt chỉ một màu vàng cháy rụi của cây cỏ, mặt đất bị cày xới nham nhở, những hố lớn hố nhỏ đè lên nhau. Không gian khét lẹt mùi hóa chất, mùi thịt nướng quá lửa, mùi thối rữa như mùi động vật đang kỳ phân hủy. Hiểu Tuệ hoảng sợ, cô không hiểu làm sao [... ] khi thấy Nhậm Thành, một người lính Việt Nam cộng hòa như vừa ở mặt trận về. [... ] Anh nắm tay cô chạy nhanh ra khỏi vùng đất chết đó đưa cô đến  một nơi có phong cảnh kì thú đẹp như cảnh nơi tiên giới: Vườn Đà La.” Nhậm Thành bằng tuổi ông nội cô, nhưng ông chết khi còn được gọi là “anh” - nhà thơ Thổ Nhĩ Kỳ Nazim Hikmet, viết về “Em bé Hirosima:” “Bây giờ em vẫn bẩy tuổi thơ/ Những em chết không còn lớn nữa.”  Vâng, hoa trong khuôn viên biệt thự Hoa Tường Vi làm dịu hận thù của bà Kim Thư, hoa ở Vườn Đà La nơi tiếp dẫn những linh hồn trước khi siêu thoát đã thức tỉnh thần thái coi như từ cõi chết của Hiểu Tuệ. Ở đây, hoa vừa là thực thể đời sống, vừa là ngôn ngữ nghệ thuật khiến cả người sống lẫn linh hồn người chết đều nghe hiểu mà không cần phiên dịch. Cái đẹp là ngôn ngữ chung của nhiều loại chúng sinh, nhiều cảnh giới.

Hoa ở hoa viên trong biệt thự Hoa Tường Vi cùng với các cảnh giới Nhậm Thành tìm ra Vĩnh Lộc và Giang Tử Quang, “cuộc sống” đầy phúc âm tại các “làng tử sĩ” rồi ra đã hóa giải hận thù ở bà Kim Thư, sẽ gắn bó hạnh phúc giữa hai cháu nội cựu thù như một tất yếu đời sống. Và đầy sức thuyết phục.

Tôi vừa nói đến phúc âm. Nó là kết tinh giữa ký ức tôi hòa phối với âm hưởng tiểu thuyết này. Có ký ức ấy là vì tôi từng đọc “Người hát thánh ca” - một trong những truyện ngắn khoảng những năm 1980 đã làm nên tên tuổi Hoàng Phương Nhâm. Khi đặt tên truyện, bà chừng như muốn nhận mình chỉ là người hát đồng ca trong nhà thờ và chỉ tụng ca thánh Chúa. Thế rồi, quả nhiên, chúng ta có nhà văn Hoàng Phương Nhâm khiêm nhường. Vậy mà không ngờ, đến tuổi bẩy mươi ngoài, nữ sĩ bỗng vút lên lĩnh xướng bằng giọng đơn ca độc đáo về hậu chiến và hòa hợp dân tộc. Và, khi đã có tư tưởng nghệ thuật hay, văn chương cũng trở nên khoáng hoạt về thi pháp, có hiện thực phối trộn tự nhiên với hiện thực tâm linh đồng hiện, có chương như là thơ văn xuôi không vần, lại có chỗ như bi kịch cổ điển. Đa thanh sắc nhưng nhuần nhuyễn, ấy là thế năng của bút lực dồi dào vào độ chín.  Tiểu thuyết HOA CHO TÌNH YÊU đặt ra những vấn đề lớn lao, nóng bỏng mà êm ái như nghe hát thánh ca mặc dù vẫn có khúc căm hận, có khúc xót xa, có khúc đau đớn muốn gào thét, có khúc lại bùi ngùi do nỗi đau âm u kìm nén quá lâu trong tâm hồn chuyển hóa mà thành. Tiểu thuyết như là bản thánh ca về nỗi đau đất nước, được hát lên trong quá trình hóa giải, như một phương thuốc chữa lành, nó tích cực hơn thời gian. 

Nó xứng đáng để tôi trân trọng đề tựa.

Hà Nội ngày rằm quý Hạ Giáp Thìn

Bài viết liên quan

Xem thêm
Tượng đài một anh hùng
Trường ca Tiếng chim rừng và đất lửa Tây Ninh (NXB Quân đội nhân dân, 2025) của tác giả Châu La Việt đã kiến tạo thành công nhiều biểu tượng về cuộc kháng chiến chống Mỹ một cách hệ thống, đa dạng về cấu trúc, sâu sắc về ý nghĩa, giàu có về tín hiệu thẩm mỹ.
Xem thêm
Cô gái Quảng Trị với nồng cay tiêu Cùa
Đọc 14 bài bút ký của nữ nhà báo Đào Khoa Thư, trong tập bút ký “Mùa bình thường” in chung với nhà báo Đào Tâm Thanh, do Nxb Thuận Hóa ấn hành tháng 7 năm 2025, tôi thật sự khâm phục cách viết khoáng hoạt của cô gái trẻ. Không gian được đề cập là mảnh đất quê nhà thân thương và những đất nước mà cô đặt chân đến để học tập, công tác, giao lưu, trải nghiệm. Lời văn tươi mới tràn đầy cảm xúc, lối viết chân thực, cởi mở, ngắn gọn cho ta thấy bao điều mới mẻ. Đọc lần lượt từng bài bút ký, thật thích thú với bao điều hấp dẫn qua từng câu chuyện kể về cuộc sống đời thường và các sự kiện diễn ra rất bổ ích.
Xem thêm
Đọc thơ Phương Viên – Ba khúc tình, rụng và gặp gỡ
Bằng giọng văn tinh tế, giàu cảm xúc và với kiến văn sâu rộng, tác giả đã khẳng định: thơ Phương Viên là nơi “chữ rụng mà hồn nở hoa”, một giọng thơ biết lặng đi để người đọc còn nghe tiếng của yêu thương và hồi sinh. Văn chương TP. Hồ Chí Minh xin giới thiệu bài viết này tới bạn đọc.
Xem thêm
Hạt bụi lênh đênh – Từ đất Ý hóa kiếp thân thương dưới trời nam
Rơi ra từ căn phòng bài trí trang trọng của một tòa lâu đài cổ kính. “HẠT BỤI” kia đã chọn kiếp “LÊNH ĐÊNH” để rồi một ngày lưu dấu hồn trần nơi “quê người đất khách”. Hẳn là trong sự lựa chọn “nghịch thường” đó, hàm chứa một điều lớn lao địa cửu thiên trường nơi thân mệnh mong manh cánh chuồn. HẠT BỤI LÊNH ĐÊNH – ngay từ nhan đề… đã cho thấy sắc tính Á Đông thông dụng. Điều đặc biệt ở đây. Nó được viết bởi ELENA PUCILLO TRƯƠNG một nhà văn, một nhà Khoa học/ học giả Ngữ Văn của Tây Phương – Ý.
Xem thêm
Hoài niệm quê hương trong thơ Nguyễn Quang Thuyên
Nguyễn Quang Thuyên vốn là “dân xây dựng” - Giám đốc Vinaconex 3 Phú Thọ , quê Tam Nông, Phú Thọ. Ai từng gặp anh thời điểm hiện tại sẽ có thiện cảm bởi nụ cười có duyên, thân thiện. Ấy là Nguyễn Quang Thuyên của hôm nay, hay chí ít cũng là cảm nhận của tôi, rằng nhiều năm trước, gặp anh sẽ ngỡ anh khó tính, có sự bụi bặm phong trần của nghề nghiệp, có vẻ lạnh lùng và cảm giác khó gần. Anh là “dân ngoại đạo” nhưng đã 10 tập thơ được xuất bản. Tập thơ “Đưa em về quê nội”, NXB Hội Nhà văn 2024 của anh vừa đạt giải A của Hội Liên hiệp văn học nghệ thuật Phú Thọ (Giải thưởng hàng năm, năm 2024).
Xem thêm
Khoảng trống trong thơ đương đại
Sang giai đoạn thơ hiện đại, đặc biệt từ thời kỳ Đổi Mới (1986) đến nay, dưới ảnh hưởng của thơ tự do, thơ thị giác, thơ hậu hiện đại,… khoảng trống được vận dụng đa dạng hơn: là dấu hiệu cấu trúc, chiến lược gợi mở ý nghĩa, cũng là phương tiện giải cấu trúc câu chữ. Việc nhận diện, phân loại và giải thích cơ chế thẩm mỹ của khoảng trống vì vậy cần được đặt trong dòng chảy lịch sử rộng hơn – từ các quy phạm cổ điển đến những cách tân hiện đại – nhằm làm rõ lý do và cơ chế khiến “sự im lặng” trở thành tiếng nói quan trọng trong thơ.
Xem thêm
Triệu Kim Loan – nỗi mình bộc bạch cùng trăng
Một bài viết chân thành, giàu rung cảm của Ngô Minh Oanh về tập thơ Chữ gọi mùa trăng của Triệu Kim Loan.
Xem thêm
Phan Nhật Tiến - Thời cầm bút nói về thời cầm súng
Bài viết của Trần Hóa về tập thơ mới của Phan Nhật Tiến
Xem thêm
Nắng xanh pha hương giọt mật đầy
Văn Chương TP.HCM xin giới thiệu bài của Tuấn Trần.
Xem thêm
Cảm nhận tác phẩm “Mật ngữ đen trắng”
Bài viết của nhà thơ Huỳnh Tấn Bảo từ Bà Rịa - Vũng Tàu
Xem thêm
Nặng tình qua những miền quê
Bài viết tạo được chân dung “lữ khách thi ca” Vũ Trọng Thái
Xem thêm
Thế giới nữ tính đằm thắm và điệu nhạc tình yêu trong thơ Võ Thị Như Mai
“Nhớ anh nhiều bao nhiêu / Như thế nào là nhiều…” – những câu thơ giản dị mà đằm thắm ấy chính là nhịp điệu riêng của Võ Thị Như Mai.
Xem thêm
Bùi Minh Vũ - Buông neo hồn thơ vào biển đảo
Sau 2 tập thơ Lão ngư Kỳ Tân (2014), Biển và quê hương (2020) Bùi Minh Vũ cho ra mắt tập thơ Buông neo của (NXB Hội Nhà văn, 2024) gồm 113 bài thơ viết về đề tài biển đảo. Cảm hứng chung của tập thơ là tình cảm mến yêu, cảm phục, trăn trở và gắn bó tâm hồn với với biển đảo, với Trường Sa, Hoàng Sa, với những người lính đảo và người dân bám biển. Những tập thơ trước, Bùi Minh Vũ viết từ cảm xúc của một công dân yêu nước hướng về biển đảo với sự ngưỡng vọng. Ở tập thơ này, sau những chuyến vượt sóng ra Trường Sa, thăm đảo chìm đảo nổi, nhà thơ đã “Buông neo” hồn thơ vào biển đảo của Tổ quốc. Bài đầu của tập thơ đã thể hiện điều đó: Sóng ngọt như hoa trái lững lờ thè chiếc lưỡi/Bình minh trườn qua con chữ/Bài thơ quyết liệt buông neo/Như cột mốc đứng thẳng (Buông neo).
Xem thêm
“Chữ gọi mùa trăng” – Những thao thức của người đàn bà yêu chữ
Tại buổi ra mắt tập thơ Chữ gọi mùa trăng (23/9/2025), nhà thơ Hương Thu không có mặt, nhưng sau đó đã gửi đến một bài viết nhiều cảm xúc.
Xem thêm
Nỗi buồn đẹp qua ca khúc “Bài Thánh ca buồn”
Bài Thánh ca buồn nhưng không buồn theo lẽ thường, nỗi buồn ấy đẹp và chẳng hề mong manh, rất có thể khi nghe câu này, nhiều người không đồng cảm. Vâng, đó cũng là lẽ bình thường vì tiếp nhận văn học lý giải chuyện cảm nhận tác phẩm văn học hoặc nghệ thuật còn phụ thuộc nhiều yếu tố, trong đó có yếu tố sở thích. Và, tôi yêu thích Bài Thánh ca buồn, cả lời thơ (ca từ) cùng nhạc điệu.
Xem thêm
Viết cho “Khúc nhen chiều”– vệt khói dĩ vãng đậm màu thực tại
Khúc nhen chiều không chỉ là tập thơ đẫm màu khói sương mà còn là cuộc “truy vấn” không ngừng của Vũ Xuân Hương với chính mình và đời sống.
Xem thêm
Nguyễn Thị Thúy Hạnh - Hành trình chữ đến thế giới thơ
Hành trình thơ của Nguyễn Thị Thúy Hạnh trước hết khẳng định một tinh thần hiện sinh rõ nét. Ở đó, con người – đặc biệt là người nữ – luôn hiện diện trong trạng thái bất an, tổn thương, đồng thời mang khát vọng vượt thoát và kiếm tìm hạnh phúc. Chữ trở thành nơi lưu trú của nỗi cô đơn, đồng thời là phương tiện giúp nhân vật trữ tình phục sinh và tiếp tục hiện hữu trong một thế giới nhiều biến động, đổ vỡ.
Xem thêm
Lòng Mẹ - Mạch nguồn của “Chữ gọi mùa trăng”
Bằng trái tim giàu cảm thông, nhà thơ Phan Thanh Tâm – tác giả của 7 tập truyện ngắn và thơ thiếu nhi – đã tìm thấy ở Chữ gọi mùa trăng hình tượng người Mẹ vừa đời thường, vừa thiêng liêng.
Xem thêm
“Lời ru bão giông” – Từ cảm nhận đến vần thơ tri âm
Tập thơ Lời ru bão giông của Trần Hóa mở ra 59 câu chuyện đời đầy mất mát nhưng vẫn chan chứa ánh sáng nhân văn, niềm tin và tình yêu thương.
Xem thêm
Đến với bài thơ hay: “Chiều Ải Bắc tìm em”
Anh vẫn như nghe trong đá núi/ Âm vang rầm rập bước quân hành/ Anh vẫn như nhận ra nụ cười em/ Trong sắc hoa đào xứ sở…
Xem thêm