TIN TỨC

“Bà già đi bụi”- một truyện ngắn lạ của Nguyễn Ngọc Tư

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2022-04-23 06:55:30
mail facebook google pos stwis
2523 lượt xem

CHỢT NHỚ VÀ KHÓ QUÊN

TÔ HOÀNG

“Ngồi ở ngoài hiên có thể ngửi được mùi biển cả. Hoa cúc dại mọc liếm lên thềm. Ngôi nhà của tụi mình không cần rộng, chỉ cần kê vừa một cái giường và gian bếp. Ở đó có ông già hơi lãng đãng, đôi khi lấy điện thoại di động khuấy cà phê, hay ngồi nhìn mây khi tivi hết chương trình thế giới động vật. Ở đó có bà già hí húi cọ nồi, lâu lâu với tay ra sau tự đấm lưng. Radio mở rọt rẹt chương trình ca nhạc cải lương cuối chiều,miệng bà cằn nhằn tối qua không ngủ được vì ông già ngáy dữ quá. Đêm nay tôi sẽ thủ cục muối hột, cứ há họng ra ngáy là tôi thả vô miệng cho mặn thấy mồ tổ. Mặt ông già tê mê, khoái chí nói bà cằn nhằn cũng có duyên, y như hồi xưa vậy, thiệt chẳng bõ công tôi bỏ xứ theo bà”. Nhận ra ngay thứ văn chương người trong cảnh, cảnh trong người tinh tế,  hóm hỉnh, nồng ấm của Nguyễn Ngọc Tư.

Nhưng vấn đề cũng không chỉ ở đó. Điều khiến ta sửng sốt phải tự xem lại,văn chương xứ mình từ xửa xưa tới nay hình như cũng chưa bao giờ, chưa ai phác dựng được bức tranh về một tổ ấm hạnh phúc của những người mãn chiều  xế bóng như vậy?

Thực hiện một cú  montague của điện ảnh hiện đại, đặt người xem trước một điều không ngờ, tiếp ngay sau đoạn văn trên, tác giả cung cấp thông tin: “Bức tranh đó hai mươi năm trước ngoại và bồ cùng tô vẽ, mỗi khi hò hẹn”.

Ngoại và bồ của ngoại? Ngoại có bồ?

“Bà già đi bụi” không cần kể lể ông ngoại đã mất, bà vợ người tình của bà bây giờ cũng đã khuất núi; tác giả cũng không non tay sa vào một câu chuyện lâm ly, sướt mướt rằng anh rằng em là hình bóng lý tưởng để những năm tháng cuối đời sự run rủi nào đưa họ tới bên nhau, thì những gì muốn dành cho nhau đã là chuyện ngoài tầm tay với. Truyện kể cho ta nghe những điều còn quan trọng, cần thiết hơn. Rằng, dù ở tuổi đó từng ấy năm trước và ở tuổi này từng ấy năm sau, bà ngoại và ông bồ của bà vẫn trêu đùa từng nét ăn nét ở khi đã về già của nhau; vẫn nhớ nhung nhau khi chiều sập xuống, nắng hửng lên; vẫn chưa hề biết mệt, biết chán đường xá xa xôi, đò xe cách trở trong những lần “ đi bụi” để tìm tới nhau mong được sống bên nhau. Và còn điều này, cả hai đều yêu thích vẻ đẹp và sự khoáng hoạt của thiên nhiên, tâm hồn còn trẻ trung chán vì cả hai đều thích xê dịch: “Đây đèo Gió, bồ bảo chúng ta sẽ đến đây mượn một căn nhà sàn của người Nùng, tụi mình làm nương tỉa bắp. Chừng bẻ đợt bắp đầu tiên mình đốt lửa nướng ăn một bữa no nê, rồi gói ghém hành lý ra đi. Mình trồng nhãn, mít ở những nơi mình đến mà không chờ hái trái. Mình đi sâu vào đồng bãi ghi lại những câu hát hồi xưa, nếm thử những món ăn quê xứ người. Cũng có thể mình nhận chăn vịt chạy đồng. Ta bà đây đó, làm lụng cho vui, cho cơ thể vận động thôi, vì sẽ sống bằng đồng tiền dành dụm từ bây giờ”. Ta bà đây đó, chứ không phải Anh và Em đây đó...

Cảm nhận ra, biểu hiện dược những trăn trở, những khát khao, những nghĩ suy còn sống động, tươi tắn, còn phập phồng nhận và cho-tức những gì “chưa chịu già “ở những con người đang “lão hóa”, đang chịu sự đào thải tự nhiên - đó mới chính là thái độ đồng cảm, biết trân trọng lớp người tuổi tác ở ngòi bút Nguyễn Ngọc Tư. Từ đây, chúng ta sẽ hiểu vì sao nhà văn như ấp ủ, như nâng niu, chằm bẵm trên bàn tay mình cuộc tình cuối đời của “Bà già đi bụi” .

Đọc “Bà già đi bụi” những ai quen thẩm định văn học theo kiểu chẻ sợi tóc làm tư hoặc những người quen cao giọng lấy luân lý đạo đức ra để hù dọa thiên hạ có thể sẽ nhíu mày, lắc đầu: “Già mà không trót đời!”. “Con cháu đầy đống đầy đàn còn bày trò nhăng nhố!”...v..v… Tôi tin rằng Nguyễn Ngọc Tư không cần đóng cọc, vây rào trước cung cách xem xét, nhìn nhận như vậy.  

“Bà già đi bụi” đã thực hiện được ước muốn của bà bao nhiêu lần cả thảy rồi? Thương bà ngoại quá đi thôi, hình như số lần bà ngoại đi trọn một chuyến xe, chuyến tầu như dự định (để gặp “bồ” cho dù chỉ là dăm ba ngày) rất thưa thớt, rất ít ỏi nếu so với những lần khăn gói ra đi mà không thành. Lý do của những lần bà ngoại quay về còn đáng thương hơn. Khi thì phải lộn về vì Gái Lớn đêm hôm trước đau bụng; khi thì do thằng cháu ngoại chơi dao đứt tay, có khi đơn giản chỉ vì trên đường đi bà ngoại chợt nhớ ra chưa ngắt điện thoại… Ông người tình của bà ngoại cũng nhiều lần “thất hứa” vì những lý do tương tự. Cả hai đều bị dằng dịt, bị trói chân trói cẳng vì tình thương, nỗi lo toan từng ngày từng giờ, tháng nọ qua tháng kia cho con, cho cháu. Ông an ủi bà: “Chờ tụi nhỏ lớn” sẽ về sống với nhau. Bà ngoại tỉnh táo hơn: “Hồi ấy cả ngoại và bồ đều ngây thơ. Cái khái niệm lớn của những đứa con thật ra không dừng lại ở tuổi mười tám, hay ở cái ngày tụi nó dựng vợ gả chồng. Con cái mãi mãi không lớn”.

Thế đấy, thì ra cản trở lớn nhất cho những chuyến “đi bụi” của bà ngoại, cho ước mơ được sống những ngày cuối cùng cuộc đời mình “ theo ý mình” chỉ vì bà ngoại của chúng ta mang một phẩm chất chung của những người vợ, những bà mẹ Việt Nam - phẩm chất “cá chuối đắm đuối vì con”.

Hiểu ra điều này bạn đọc chúng ta không chỉ ‘tha thứ” chuyện “đi bụi" của bà ngoại; mà còn thấy bà ngoại sao đáng thương, đáng trọng thế; bà ngoại đã vì chồng, vì con hy sinh gần hết cuộc đời; nay còn chút niềm vui, nỗi an ủi cuối cùng bà ngoại cũng đành gạt sang một bên- gạt sang bên một cách tự giác, tự nguyện. Chúng ta cũng đã từng ngợi ca những nữ dũng sỹ diệt Mỹ, những nữ anh hùng phá bom, những bà mẹ anh hùng. Nhưng liệu đã ai chỉ ra sự hy sinh thầm lặng, vẻ đẹp cao thượng của một người vợ, người mẹ hết sức bình thường, dung dị, trong những lựa chọn và từ bỏ rất tự nhiên, rất người như Nguyễn Ngọc Tư trong truyện “Bà già đi bụi”?

Nguyễn Ngọc Tư thuật chuyện “Bà già đi bụi” của mình theo cung cách tự sự - trữ tình. Nếu vậy, ai là người chiếm vị trí chủ thể để kể câu chuyện này? Không tìm ra và đây cũng là điều khá cứng tay trong bút pháp của nhà văn. Lại cũng có thể coi “Bà già đi bụi “là thứ thơ bằng văn xuôi, bởi lẽ cái đẹp, tính nhân văn, sự hàm xúc của chữ nghĩa toát qua từng câu từng dòng; bởi truyện tưởng như một nguồn mạch miên man của ý tưởng nhưng thực ra lại mang một cấu trúc rất chặt chẽ, rất logic.

Một ngàn bẩy trăm chữ và thêm vài chữ nữa, mà chứa đựng, mà chở tải được quá nhiều điều cần nói, muốn nói. Mà khiến chúng ta rưng rưng nửa khóc nửa cười; nửa xót xa nửa tự hào…

Và đoạn kết truyện lại thêm một cú montague nữa: “Bạn đường hỏi dì đi chừng nào về. Ngoại bảo chưa biết nữa, đi bụi mà, tới đâu hay tới đó. Nhưng chắc chắn có ghé biển. Bồ đã chờ sẵn. Hải lưu chắc đưa tro của bồ đi khắp góc biển chân trời...”

Hãy tin đi bạn ơi, lần này bà ngoại của chúng ta nhất định sẽ thực hiện được ước mơ “đi bụi” của mình.

Bài viết liên quan

Xem thêm
Một bút pháp mới lạ qua truyện ngắn Khai khẩu
Nguồn: Báo Văn nghệ Hội Nhà văn Việt Nam
Xem thêm
GS Mai Quốc Liên – Người đất Quảng cương trực
Tôi gặp GS-TS Mai Quốc Liên tại nhiều sự kiện của Hội Nhà văn Việt Nam và Hội đồng Lý luận, Phê bình văn học nghệ thuật Trung ương. Trong các cuộc họp, mỗi khi đăng đàn, ông sang sảng chất giọng Quảng đậm đà, khảng khái, thẳng thắn, thậm chí có lúc tranh luận khá gay gắt, chẳng cần rào trước đón sau, mà cũng chẳng ngại va chạm, có thể hơi làm “nghịch nhĩ” ai đó, nhưng tư duy logic, liên tưởng, liên kết các vấn đề mạch lạc. 
Xem thêm
Để thơ không “thất lạc nhau” nữa
Nguồn: Tuần báo Văn nghệ số 9/2024
Xem thêm
Nhà thơ Nguyễn Quang Thiều: 350.000 tỉ đồng chấn hưng văn hóa vẫn là con số rất ít
Chiều 29.02 phát biểu tại buổi gặp mặt giữa Chủ tịch nước Võ Văn Thưởng cùng lãnh đạo Đảng, Nhà nước với trí thức, nhà khoa học, văn nghệ xuân Giáp Thìn 2024, Chủ tịch Hội Nhà văn Nguyễn Quang Thiều đã dành thời gian nói về vấn đề xây dựng văn hóa.
Xem thêm
Quyển sách là chữ nghĩa...
Quyển sách là chữ nghĩa. Mà chữ nghĩa của một quyển sách phải kết hợp vừa từ trí tuệ vừa từ trái tim.
Xem thêm
Nhà thơ Từ Quốc Hoài để lại “Khu vườn kí ức”
Từ Quốc Hoài, đến với thơ ca khá sớm. Ông là nhà thơ cùng thời với những tên tuổi quen thuộc: Trần Vũ Mai, Thanh Quế, Thanh Thảo, Phạm Tiến Duật, Hữu Thỉnh… cũng từng vào chiến trường khói lửa. Nhưng với con đường thơ ca, ông bước chậm, thận trọng, dè dặt. Cho tới tuổi hơn 80 ông chỉ cho ra mắt độc giả sáu tập thơ. Tập thơ thứ 5, “Sóng và khoảng lặng” (2010) đoạt giải thưởng văn học của Hội Nhà văn Việt Nam. Kỹ tính, khó tính (trong thơ và có lẽ cả trong cuộc sống), trăn trở, tìm tòi nên thơ Từ Quốc Hoài không lẫn, tự do, phóng khoáng, lần dò khám phá chiều sâu nội tâm.
Xem thêm
Im lặng- ngôn ngữ đặc biệt của văn chương
Nhà văn đoạt giải Nobel Văn chương 2023 – Jon Fosse vừa có một buổi gặp gỡ và đọc diễn từ của mình tại Oslo
Xem thêm
Quyền lực thơ ca và quyền uy thi sĩ
Bài đăng báo Văn nghệ của nhà văn Bích Ngân; Thơ và ảnh của nhà thơ Nguyên Hùng...
Xem thêm
Nhớ Nguyễn Đình Thi: “Một chút trắng hồng dào dạt vàng”
Bài viết của nhà báo Nguyễn Thế Khoa nhân 99 năm ngày sinh nhà văn hóa lớn Nguyễn Đình Thi ,20/12/1924-20/12/2023
Xem thêm
Nguyễn Du bàn về sáng tác văn chương
Bài viết rất bổ ích của nhà thơ Vương Trọng
Xem thêm
Thử nêu cách chữa “chứng lười đọc sách” – Tác giả: Nhà văn Nguyễn Khắc Phê
“Dạy con từ thuở còn thơ”; “Uốn cây phải uốn khi non”… là những điều ai cũng biết, nhưng đã có những thời đoạn do bận rộn mưu sinh và vô số sự xô đẩy, lôi kéo khác nữa, nên rất nhiều người và gia đình đã quên hoặc sao nhãng bài học giản dị và chí lý đã có tự cổ xưa. Có phải những biểu hiện tha hóa trong xã hội hiện nay chủ yếu bắt nguồn từ đó? Thiết nghĩ, cuộc vận động sáng tác văn học hướng đến lớp trẻ và thiếu nhi do Hội Nhà văn Việt Nam phát động đầu năm 2022 là một hoạt động thiết thực của văn giới nhằm góp phần chấn hưng đạo đức xã hội nói chung và góp phần bồi đắp tâm hồn cho lớp trẻ nói riêng.
Xem thêm
Làm mới cải lương – con dao hai lưỡi
Gần đây, cải lương được đưa lên mạng với một số hình thức mới: kết hợp rap, trang phục ma mị… Nhiều người cho rằng cải lương cần phải được “làm mới” để phù hợp với thời đại, với lớp trẻ. Nhưng làm mới cách nào để không bị mất chất, để người xem vẫn còn “nhìn ra” cải lương là câu hỏi không dễ giải đáp.
Xem thêm
“Vua phóng sự” Vũ Trọng Phụng làm gì khi cuốn sách về gái điếm bị đá vào xó tường?
Nguyễn Vỹ lặng lẽ đưa mũi giày đá luôn quyển “Lục Xì” vào trong xó tường. Quyển sách vừa xuất bản, hãy còn mới tinh, nằm xơ xác bên chân tủ.
Xem thêm
Văn học dân gian Đồng Nai trong bối cảnh văn học dân gian Nam Bộ từ 1945 đến nay
Công tác sưu tầm và in ấn các tuyển tập văn học dân gian Việt Nam nói chung đã được các nhà Nho thực hiện từ cuối thế kỷ XVIII với các sưu tập bằng chữ Nôm, chữ Hán. Sang đến cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX, cùng với sự phổ biến của chữ quốc ngữ thì các sưu tập văn học dân gian được phát hành phổ biến nhiều hơn nữa. Tuy nhiên trong giai đoạn này phần lớn vẫn là các sưu tập miền Bắc hay ở một số tỉnh thành miền Trung, ở Nam Bộ việc sưu tầm và phổ biến văn học dân gian dưới dạng các tuyển tập in ấn vẫn còn chưa được coi trọng đúng mức, do vậy không gian nghiên cứu văn học dân gian vùng miền cũng đồng thời bị bỏ ngỏ.
Xem thêm
Nhà thơ thì chơi với ai?
Nguồn: Website Hội Nhà văn Việt Nam
Xem thêm
Bộ phim Đất rừng phương Nam: Một số điều “lấn cấn” về nội dung và nghệ thuật cùng với phản hồi của cục điện ảnh
“Đất rừng phương Nam” của đạo diễn Nguyễn Quang Dũng là một bộ phim đang gây ra nhiều dư luận sôi nổi. Bộ phim nhận được nhiều lời khen ngợi, nhưng cũng có không ít tiếng chê. Dĩ nhiên với tư cách là một sản phẩm nghệ thuật, những thành công của phim rất đáng ghi nhận, song khi xem xong bộ phim, đọng lại cũng là không ít điều “lấn cấn” trong lòng một khán giả như tôi.
Xem thêm