- Truyện
- Máu đỏ da vàng – truyện ngắn của Lại Văn Long
Máu đỏ da vàng – truyện ngắn của Lại Văn Long
“Máu đỏ da vàng” – truyện ngắn của Lại Văn Long không chỉ là bi kịch của một người đàn bà trong vòng xoáy hậu chiến, mà còn là bản hòa ca của lòng nhân và tinh thần hòa giải dân tộc. Từ câu chuyện của Vân Anh – người vợ sĩ quan VNCH, người tình của cán bộ công an, người mẹ vượt biên – tác giả dẫn người đọc đi qua những khúc quanh lịch sử để cuối cùng dừng lại ở thông điệp giản dị mà thấm thía: “Ý thức hệ có thể thay đổi theo thời gian, nhưng máu đỏ da vàng vẫn là vĩnh cửu”.
Một truyện ngắn xúc động, mang tầm vóc của tiểu thuyết, được viết bằng sự thấu hiểu và lòng vị tha hiếm thấy trong văn học hôm nay. Truyện đã được dịch ra tiếng Anh và in trong tập "The Colors of April" (Sắc màu tháng Tư, gồm 28 tác giả), phát hành tại Mỹ tháng 3/2025, nhân dịp kỷ niệm 50 năm kết thúc chiến tranh. Nay Văn chương TP. Hồ Chí Minh xin được trân trọng giới thiệu tới quý độc giả.
Trung tá Trịnh Tùng đi cải tạo, gia đình ông ở Sài Gòn chịu nhiều biến cố.
Vợ và 3 con phải rời khu gia binh sư đoàn Dù, kéo nhau về ở nhờ nhà ngoại bên quận tư. Nhà ngoại chật chội, thấy con cháu kéo về, ông bà ngoại buồn hiu, còn vợ chồng dì út khó chịu ra mặt.
Vân Anh - vợ Tùng nắm tay mẹ van xin:
- Thôi thì mẹ cho con che tạm cái bếp trước nhà nấu ăn riêng. Con sẽ ráng kiếm tiền nuôi lũ nhỏ…
Bà ngoại gật đầu miễn cưỡng...
Tiền bán đồ đạc nhà cũ còn một ít, Vân Anh theo Hiền – vợ ông thẩm phán đang trong trại cải tạo, đi buôn. Ngày nào họ cũng ra khỏi nhà lúc ba, bốn giờ sáng và trở về trên những chuyến xe muộn hai mươi, hai mốt giờ mới đến bến xe Chợ Lớn.
Đây là thời kỳ “ngăn sông cấm chợ”. Đem vài bịch xà bông, dăm đôi dép nhựa, năm bảy túi bột ngọt nho nhỏ đã bị quy là “gian thương”. Xách chục ký gạo, cặp vịt, mớ trứng hay cá khô từ dưới quê lên thành phố cũng là “phạm pháp”.
Chuyến hàng xuống sáng nay hai chị em lời được mấy chục đồng. Lúc từ Gò Công – Tiền Giang lên lại Sài Gòn, họ đánh bạo dồn hết vốn liếng mua 3kg tôm khô với 5kg mực khô. Họ chia tôm khô ra từng gói nhỏ nhét vào áo ngực, quần lót. Còn mực khô con lớn hơn bàn tay thì bó quanh hai đùi, độn trước bụng. Trạm đầu êm xuôi. Đến trạm thứ hai Vân Anh bị nghi ngờ, lôi xuống xe, dẫn ra phía sau trạm. Cô nghĩ sẽ gặp ông cán bộ đạo mạo, nói toàn chính trị giọng Bắc. Nhưng “Hai Mạnh” - sếp của lực lượng liên ngành mặc sơ mi bó sát, để ria mép tỉa tót, nụ cười ngạo mạn, giọng Nam Bộ giễu cợt:
- Tôm khô với khô mực trong người em bốc mùi thơm ngát. Em định cho anh khám thứ gì nào?
Vân Anh bớt run, vờ nũng nịu:
- Anh đẹp trai lại có quyền hành thiếu gì người mê. Em cho anh khám rồi mai mốt gặp người đẹp hơn, anh phụ em thì sao?
Anh Hai nghe vậy nhẹ nhàng ôm Vân Anh hôn lên tóc. Cô vờ rúm người lại, rên khe khẽ:
- Hôm khác đi anh, hôm nay em dơ lắm!
Anh Hai nhìn con mồi say đắm...
*
Hai Mạnh chở Vân Anh trên Honda 67 về hướng cầu Sài Gòn, vào xa lộ Đại Hàn rồi tăng tốc. Vân Anh thót tim, hai tay cô ôm chặt eo anh ta. Đến lúc xe chậm lại, Vân Anh mở mắt đã thấy Mạnh rẽ vào một đường đất nhỏ, rồi dừng trong sân rộng của một ngôi nhà hai tầng. Mạnh xuống xe mở cửa sắt, đẩy xe vào. Vân Anh kẹp cái bóp trong nách đưa tay sửa lại mái tóc. Mạnh đóng cửa lại rồi vồ lấy Vân Anh hôn ngấu nghiến…
Phòng tắm ốp gạch men trắng tinh làm Vân Anh thích. Đã vậy còn có đủ các loại dầu gội, xà bông thơm hảo hạng và bông tắm mềm mại cô vẫn dùng trước năm 1975. Nhưng miệng cống thoát nước nhỏ trên nền gạch men làm Vân Anh chú ý với những sợi tóc dài còn vương lại. Một ý nghĩ kiêu kỳ, ích kỷ chợt lóe lên trong đầu. Vân Anh tắm xong, quàng khăn quay trở lại giường lay lay Mạnh đang thiu thiu ngủ:
- Anh ở nhà này với ai?
Mạnh mở choàng mắt, lôi Vân Anh nằm xuống, thủ thỉ:
- Căn nhà này là nơi nghỉ cuối tuần của một ông nghị sĩ. Ông đang đi cải tạo, vợ con vượt biên hết rồi. Bạn anh là chủ tịch xã ở đây ưu tiên cấp cho anh…
Vân Anh xoắn ria Mạnh:
- Từ giờ chỗ này là của em với anh. Anh mà đưa bà nào về là em xử đó!
Mạnh xiết chặt Vân Anh:
- Có nàng tiên này thì anh còn cần đến ai nữa!
- Vợ con anh đâu?
- Đi kháng chiến hơn chục năm, đã kịp cưới hỏi gì đâu!
Vân Anh mừng rơn, nhưng vờ giận dỗi, hỏi:
- Vậy trong toilet toàn những sợi tóc dài là của ai?
Mạnh cười hềnh hệch:
- Của chủ cũ, những sợi tóc có trước hòa bình. Anh có ba, bốn căn nhà, lại bận túi bụi, thời gian đâu mà dọn dẹp!
Vân Anh nhổm dậy:
- Sao anh có nhiều nhà quá vậy?
- Bạn bè cấp cho anh!
Vân Anh thở dài:
- Chẳng bù cho mẹ con em, đi ở nhờ ở đậu bị mắng nhiếc suốt ngày!
- Vậy… anh tặng em một căn…
- Anh nói thật à?
- Anh lựa cho em một căn thật ngon lành, em mở tiệm buôn bán nuôi con đi học, nuôi chồng trong trại cải tạo. Khi nào ông ấy về, anh trả em cho ông ấy nhưng cũng không đòi lại nhà đâu!
Vân Anh ôm Mạnh vuốt ve:
- Anh là Việt Cộng mà sao… thương ngụy quá vậy?
Mạnh nhổm dậy nhìn Vân Anh trừng trừng:
- Em nói gì lạ vậy? Bọn anh chiến đấu gian khổ, hy sinh là để dân mình được tự do, độc lập, no ấm như Bác Hồ mong ước. Bây giờ hòa bình rồi, tất cả là người Việt Nam, làm gì còn Việt Cộng với quốc gia, cách mạng hay ngụy… Mặc đồ vào anh chở em đi nhận nhà luôn!
… Mạnh chở Vân Anh về Chợ Lớn, dừng xe trước căn nhà ba tầng lừng lững giữa ngã tư đông đúc, sầm uất. Mạnh hạ chống xe, tìm chìa khóa mở cửa sắt bên ngoài, cửa kiếng bên trong. Vân Anh bàng hoàng trước căn nhà rộng hơn 5m, dài gần 30m. Cô chạy lên lầu 1, lầu 2, sân thượng ngắm nghía rồi chạy xuống tầng trệt ôm choàng Mạnh khóc sướt mướt:
- Lúc chồng em huy hoàng nhất cũng không bao giờ dám mơ đến căn nhà thế này. Anh cho em thật à?
Mạnh vuốt tóc người tình rồi móc ra nắm tiền:
- Chủ đi vượt biên, đồ đạc vẫn để nguyên em cứ xài. Còn số tiền này em làm vốn buôn bán.
Vân Anh đẩy Mạnh về phía phòng ngủ, ngước đôi mắt long lanh, thì thào:
- Anh cho em nhiều quá, để em đền đáp phần nào!
Mạnh lắc đầu, đôi mắt buồn rượi, giọng trầm xuống:
- Anh từng là lính đặc công, sống chết gang tấc, còn nguyên vẹn đến hôm nay là may mắn hơn biết bao đồng đội. Đừng đổi chác, vay trả với anh. Chỉ cần em nói yêu anh… là đủ!
Vân Anh bẽn lẽn:
- Em xin lỗi anh…
*
Hơn ba năm biền biệt không tin tức, một ngày đẹp trời mẹ con Vân Anh bất ngờ nhận được thư của chồng, của cha.
Lá thư được gửi kèm với giấy phép thăm nuôi của trại. Vân Anh theo đó làm đơn xin thăm nuôi chồng, nhưng không dám ra chính quyền quận 5 xin xác nhận vì như thế sẽ lộ thân phận vợ “sĩ quan ngụy”, có thể bị thu lại nhà, bắt đi kinh tế mới và sẽ liên lụy, rắc rối cho Mạnh. Vân Anh tìm lại cuốn sổ gia đình từ trước năm 1975 với địa chỉ thường trú là khu gia binh Sư đoàn Dù ở Bà Quẹo. Sau khi nghe Vân Anh trình bày, xin giúp đỡ, chủ tịch xã là dân nằm vùng ở Bà Điểm – Hóc Môn đập bàn, gằn từng tiếng:
- Bọn lính Dù thằng nào cũng là ác ôn, hai đứa em ruột tôi bị tụi nó mổ bụng phơi xác. Còn bà chị ruột tôi bị chúng nó làm nhục trước khi cắt cổ! Bây giờ tôi phải đi giúp đỡ cho chúng nó à?
Vân Anh điếng người, sống lưng lạnh toát.
Một người mặc đồ bộ đội bạc màu nghe ồn ào từ phòng trong bước ra. Ông ta can ngăn bằng giọng Bắc:
- Đồng chí chủ tịch cứ bình tĩnh… Coi chừng nóng nảy mà sai chính sách!
Chủ tịch xã:
- Đồng chí bí thư ở đơn vị chủ lực, chuyên đánh lớn, không hiểu cán bộ nằm vùng như chúng tôi khổ như thế nào với bọn ác ôn đâu!
Bí thư vẫn ôn tồn:
- Chiến tranh qua rồi, Đảng và nhà nước đã có chính sách với ngụy quân, ngụy quyền, chúng ta phải chấp hành… mà này chị kia, trại gia binh cũ bị xóa hơn hai năm rồi, gia đình chị ở đâu?
- Dạ, mẹ con em sống nhờ nhà ngoại bên quận tư!
- Thế thì về quận tư xin xác nhận nhé.
Vân Anh quay lại chiếc xích lô máy đang chờ với nước mắt ràn rụa. Mạnh rất nhiệt tình, không chỉ giúp cô xin xác nhận ở phường nhà mẹ cô bên quận tư mà còn lo cho mẹ con cô cặp vé tàu thống nhất Bắc Nam có thể nói là quý vô cùng ở thời điểm đó… Sau khi sang ở căn nhà Mạnh tặng, Vân Anh bán giải khát, đồ ăn sáng như: bánh ướt, xôi mặn, bánh mì ốp la… Buổi chiều và tối cô tranh thủ làm thêm nồi cháo vịt với gỏi, bia hơi, rượu đế. Nhờ đó mới rủng rỉnh tiền bạc cho chuyến thăm nuôi chồng đầu tiên.
Ăn cơm chiều xong, Vân Anh với Mỹ Dung đồ đoàn lỉnh kỉnh lên xích lô máy ra ga Hòa Hưng. Đến 19 giờ, khách được lên tàu. Hai mẹ con ngồi chung một ghế, ghế còn lại đặt hai cái giỏ to với túi quần áo. Trên kệ xếp hàng và dưới băng ghế, người nhà tàu đã nêm chặt hàng hóa đi buôn của họ, hành khách chẳng còn chỗ mà để. Sàn tàu chật ních người ngồi dựa lưng vào nhau, đây là khách không có vé, móc ngoặt với nhân viên tàu để đi lụi. Toàn khách đi buôn, hàng của họ chất cao lấp cửa sổ. Cả heo lẫn gà, chó, mèo đều đi tàu chung với người!
Khi tàu vượt sông Bến Hải, người trong toa lao nhao xô đẩy các bao hàng để tìm chỗ ngắm cầu, ngắm sông. Vân Anh cũng nhoài người nhìn thoáng qua dòng sông đau thương chia cắt đất nước hơn 20 năm.
Quá một ngày đường nữa thì trên tàu nhốn nháo tiếng gọi nhau. Bà cụ chít khăn mỏ quạ ngồi đối diện với hai mẹ con Vân Anh phấn khởi bảo:
- Tới ga Hàng Cỏ - Hà Nội rồi đấy!
Tàu giảm tốc, phố xá chạy lùi qua cửa sổ. Vân Anh ngỡ ngàng như vừa đặt chân đến một đất nước xa lạ… Chừng ba mươi phút sau thì đoàn người tranh giật ồn ào đã tỏa ra bốn phương tám hướng để lại sân ga thênh thang thưa thớt người. Có vài phụ nữ và mấy đứa nhỏ ăn mặc theo kiểu người Sài Gòn túm tụm một góc, họ ngoắc mẹ con cô đến nhập hội. Nói chuyện một lát mới biết họ cũng đi thăm nuôi chồng cải tạo ở trại Ba Sao – Hà Nam Ninh như cô. Bà sồn sồn có búi tóc to, mặc bà ba tím lớn tuổi nhất trong đoàn là Tuyền vợ của đại tá Trọng – biệt động quân. Chị để tóc demi garcon mặc quần tây màu sậm, sơ mi trắng là Tâm vợ trung tá Khánh – Bộ tổng tham mưu; cô trẻ hơn Vân Anh, rất xinh đẹp là Thanh, người yêu của thiếu tá Luyến ở sư đoàn 23 bộ binh. Bà Tuyền dắt theo thằng con trai 14 tuổi, chị Tâm đi cùng đứa con gái trạc tuổi Dung; còn Thanh cũng dắt theo đứa cháu trai 16 tuổi gọi Thanh là dì ruột. Cùng cảnh ngộ nên mấy chị em gặp nhau mừng quá. Họ thuê mấy chiếc xích lô chở cả hàng lẫn người ra bến xe đò đi Phủ Lý, cách Hà Nội hơn 60 cây số... Đoàn thăm nuôi xuống xe, dồn hết hành lý lại rồi hỏi đường vào trại Ba Sao. Một ông đánh xe trâu bánh gỗ bảo:
- Các cô cứ cho 12 đồng, tôi đưa vào đến cổng trại!
Nghe thế cả đoàn mừng húm.
Ông đánh xe trâu đốt cây đèn bão cầm soi đường cho trâu đi. Những người phía sau nương theo ánh sáng ít ỏi đó lần mò theo. Đến lúc kiệt sức thì họ nhìn thấy ánh đèn trại giam, lớn nhỏ reo mừng như thấy thiên đường…
… Rồi cái ngày mà họ mong chờ nhất cũng đã đến. Trong phòng căng thẳng, im lặng. Viên thiếu tá lật từng trang hồ sơ. Tiếng giấy sột soạt như cào vào ruột gan những người đang nín thở chờ đợi…
- Bà Nguyễn Thị Thu Tuyền!
- Dạ, có em thưa ông thiếu tá!
- Các chị, các bà gọi chúng tôi là cán bộ, xưng tôi, rõ chưa!
- Dạ… rõ…
- Có phải chồng bà là Phạm Trọng, cấp bậc đại tá của ngụy quân?
- Dạ… phải…
- Chồng bà là đối tượng cứng đầu, xách động, đang chịu kỷ luật, không giải quyết cho thăm nuôi đợt này!
Tuyền ré lên một tiếng rồi ngã vật ra bất tỉnh, Vân Anh với chị Tâm vội vã lấy dầu gió ra xức, giựt hai bên tóc mai cho tỉnh dậy.
Tuyền nghẻo đầu trên vai Vân Anh, chấp tay trước ngực thì thào van xin:
- Vậy thì… cho tôi gửi quà… Mẹ con tôi khổ lắm mới đem được hai giỏ quà ra đây…
- Cũng không được!
Tuyền khóc nức nở, ôm chầm vai Vân Anh:
- Em đưa con chị về Sài Gòn giúp, chị chết ở đây cho cán bộ vừa lòng!
Viên thiếu tá đập tay xuống bàn cái rầm, đứng lên chỉ tay quát ầm ầm:
- Bà có biết ở miền Bắc này có bao nhiêu gia đình phải đeo khăn tang vì cái loại tay sai đế quốc như chồng bà không ? Riêng gia đình, họ hàng nhà tôi đã có sáu người chết bà có biết không ? Đảng nhà nước đã khoan hồng cho chồng bà, còn muốn gì nữa ?!
Vân Anh, chị Tâm với cô Thanh sợ điếng người, họ năn nỉ bà Tuyền :
- Đừng nói nữa chị, … đừng nói…
Thằng con trai cũng đến ôm mẹ khóc, năn nỉ mẹ đừng chết. Viên thiếu tá mặt tái đi vì giận, ông ngồi xuống uống một ngụm trà để lấy lại bình tĩnh rồi lật hồ sơ đọc tiếp :
- Bà Lê Thị Thanh Tâm!
- Dạ có thưa cán bộ…
- Chồng bà là Tống Văn Khánh, cấp bậc trung tá ngụy quân?
- Thưa phải!
- Ông ấy bị bệnh, đang được điều trị. Nhưng bà được gửi quà cho ông ấy. Nếu có thuốc Tây thì gửi riêng ra cho ông ấy dùng trước.
Tâm khóc nấc lên, con gái chị cũng ràn rụa nước mắt, chạy đến ôm mẹ:
- Ba có sao không hở mẹ, có sao không… mẹ!
Tâm bất ngờ quỳ xuống chấp tay lạy, vừa khóc vừa nói :
- Xin cán bộ cho mẹ con tôi vào thăm một lát thôi cũng được. Lỡ anh ấy không qua khỏi gia đình tôi còn được nhìn mặt nhau lần cuối!
Viên thiếu tá quát lên:
- Chị làm thế là vi phạm nội quy thăm nuôi. Chị có muốn gặp lại chồng không?
Tâm ủ rũ đứng lên, không còn khóc nhưng lảo đảo như người mất hồn. Vân Anh vội chạy lên dìu chị ta về chỗ ngồi.
Cô Thanh được gọi tên tiếp theo. Khi được hỏi quan hệ thế nào với thiếu tá Dư Đình Luyến – Sư đoàn 23, Thanh lắp bắp:
- Dạ… là …người hứa hôn với anh Luyến
Viên thiếu tá công an nhếch mép:
- May cho chị…
Thanh nhảy cẫng lên hớn hở:
- Thưa cán bộ vậy là tôi được gặp anh Luyến?
Viên thiếu tá nghiêng đầu hất hàm. Đại úy ngồi bên cạnh đưa ra một tờ giấy rồi nói với Thanh:
- Chị lên đây ký vào sổ rồi nhận giấy này!
Thanh hớn hở đi như chạy lên bàn làm việc, cô ký ngoáy vào cuốn sổ, chỗ viên đại úy chỉ tay. Vừa quay xuống dưới Thanh vừa vội đọc… Cô đứng như trời trồng rồi khụy xuống, ngã lăn ra sàn xi măng khi đọc tiêu đề: “Giấy chứng tử”…
Bà Tuyền với chị Tâm quên ngay nỗi đau riêng, chạy đến phụ Vân Anh dìu Thanh về ghế ngồi. Thanh mím môi:
- Tôi xin được ra mộ anh Luyến…
Viên thiếu tá đứng lên, nói như quát:
- Ông Luyến chết vì bệnh trong thời gian cải tạo, nơi chôn cất ông ấy ở sau lưng núi, đường xá hiểm trở bà không thể đến được!
Cuối cùng chỉ mẹ con Vân Anh được gặp chồng, cha. Có tiếng chân lạo xạo trên sỏi cát bên ngoài rồi hai công an dẫn vào một người mặc đồ tù xám. Vân Anh sững sờ. Ông chồng trung tá oai phong, hét ra lửa của cô ngày nào đây sao? Tùng rúm ró bụm hai nắm tay trước ngực cúi đầu chào hai cán bộ công an đang ngồi ở bàn làm việc:
- Thưa cán bộ tôi xin được gặp vợ con!
Viên đại úy chỉ vào chiếc bàn dài:
- Anh ngồi xuống, nhớ các quy định rồi phải không?
- Dạ, tôi nhớ…
Tùng khép nép ngồi xuống giữa bàn dài. Viên đại úy quay xuống nói với Vân Anh:
- Chị và cháu ngồi đối diện với anh ấy. Anh chị có 2 giờ…
Vân Anh không còn hồi hộp hay mừng rỡ, một nỗi buồn đang len lỏi vào tim cô. Cô nắm tay bé Dung bước đến như một cái máy. Tùng nhìn Vân Anh. Vân Anh nhìn lại chồng, cô bỗng òa khóc!
Tùng hớt tóc cao gần như cạo trọc, mặt mũi hốc hác, xanh mét, hai bàn tay khô đét, chai sần đặt lên bàn run run. Viên thiếu tá lặng lẽ đến ngồi ở đầu bàn dài, đầu kia là viên đại úy, ngoài cửa là hai công an có súng AK. Tùng dùng tay áo quệt nước mắt, cái áo trông còn mới lắm, chắc là có quy định phạm nhân gặp thân nhân phải mặc áo mới cho tươm tất – Vân Anh bùi ngùi với suy nghĩ đó. Tùng xúc động hỏi con:
- Con là Dung phải không, con lớn quá, học lớp mấy rồi?
Dung ngước đôi mắt trong veo:
- Con học lớp sáu, con đứng thứ nhì nhưng không được nhận phần thưởng…
- Sao thế?
- Vì cô giáo nói con là con Ngụy. Không được lãnh thưởng, lại còn bảo có học giỏi cũng chẳng được vào đại học. Cô còn bảo ngụy quân, ngụy quyền là những kẻ bán nước, giết hại đồng bào…
Tùng nhướn lên, nhìn con không chớp mắt, cắn môi rồi lại đưa tay áo lên quệt nước mắt. Má anh hóp, lưỡng quyền nhô cao rám nắng. Răng cửa rụng hai cái. Cái miệng hét ra lửa thời làm tiểu đoàn trưởng pháo binh Dù, giờ trông bạc nhược, sứt mẻ, thảm hại. Bộ râu rất hách ngày nào luôn đi đôi với cặp kiếng pilot rất sang giờ được cạo sạch cho hợp với đôi mắt hốt hoảng, mệt mỏi, trắng dã. Vân Anh nắm mấy ngón tay xương xẩu của chồng qua mặt bàn rồi vuốt bàn tay chai sần nứt nẻ như vuốt từng nỗi đau đang trào dâng trong lòng. Tùng bối rối, mắt lấm lét nhìn qua nhìn lại hai ông công an ở hai đầu bàn, rồi rụt tay về. Vân Anh chưng hửng, kinh ngạc nhìn chồng. Tùng cất giọng buồn buồn:
- Nghe nói khu gia binh cũ phải chuyển nhà đi hết, mấy mẹ con giờ ở đâu?
Vân Anh chưa kịp trả lời thì bé Dung láu táu:
- Ở nhà to mà sang hơn nhà cũ nhiều, của chú Mạnh cho đó ba!
Tùng chau mày hỏi Vân Anh:
- Chú Mạnh nào?
Vân Anh ấp úng, Dung liếng thoắng một hơi:
- Chú Mạnh thường đeo súng giống hai chú công an này nè ba, chú hay chở chị em con đi xem phim, mua quần áo với nhiều quà nữa… Chú Mạnh cho bà ngoại tiền, cho vé tàu để con với mẹ ra đây thăm ba!
Mặt Tùng tái mét, anh nhìn vợ trừng trừng, mấy ngón tay để trên bàn run bần bật. Hai ông cán bộ đang thảnh thơi nhả khói thuốc cũng giật mình với câu chuyện của đứa trẻ. Căn phòng lặng đi… Vân Anh gục đầu xuống bàn nức nở:
- Anh không biết mẹ con em phải khổ thế nào đâu!
Tùng nghiến răng kìm giận. Nếu trước đây anh đã rút súng bắn chết tươi người đàn bà lăng loàn, phản trắc. Nhưng bây giờ, sau gần bốn năm cải tạo, trung tá Trịnh Tùng với mỗi lời ra lệnh là hàng ngàn đạn pháo bắn tan rừng, nát núi, rung chuyển trời đất, không còn nữa.
Tùng bây giờ là con hổ của đoàn xiếc – sợ đòn roi và biết khép mình vào kỷ luật. Nhưng con hổ ngoan ngoãn vẫn còn khí chất đàn ông, vẫn đau tận tim, tủy khi biết vợ đã phản bội! Tùng siết hai nắm tay, ngước mặt lên trần nhà, gân cổ nổi cứng, rên lên một tiếng uất ức, nước mắt, nước mũi trào ra. Vân Anh vẫn bụm mặt khóc rồi mím môi nhìn thẳng mắt Tùng:
- Anh có biết em đã… nấu một nồi cháo thịt, đã cầm chai thuốc trừ sâu rót hết vào đó. Bốn mẹ con cùng ăn, cùng chết… Nhưng nghĩ anh ở lại một mình tội nghiệp, em… không đành… Anh cứ hỏi con!
Tùng nhìn Dung, Dung rơm rớm nước mắt, kể:
- Mẹ nấu nồi cháo thịt thơm ngon. Chị em con đói lắm mà mẹ không cho ăn. Mẹ vừa khóc vừa đổ nồi cháo xuống lỗ cống…
Viên thiếu tá công an ngồi đầu bàn đập tay, quắc mắt:
- Chị muốn vu khống, đổ tội cho cách mạng à?
Vân Anh gạt nước mắt thút thít:
- Tôi chẳng đổ tội cho ai, tất cả là số phận…
Tùng sững sờ với những gì Vân Anh và Dung vừa nói, bao nhiêu uất giận tan hết. Anh bỗng thấy thương vợ con vô cùng, thấy mình mới là người có lỗi để vợ con phải khổ sở đến mức phải tìm đường chết. Nước mắt vẫn ràn rụa, Tùng nắm tay Vân Anh nghẹn ngào:
- Lỗi tại anh, anh không trách em đâu!... Em đã chịu khổ để nuôi con khôn lớn… nhưng… anh đã mất vợ rồi sao?
Tùng bật khóc thảm thiết. Vân Anh bóp chặt tay chồng:
- Xin anh tha thứ cho em, để em vẫn được là vợ anh!
Tùng rụt tay về, chua chát:
- Bây giờ cô đã là phu nhân cán bộ thắng trận, còn tôi chỉ là kẻ thua trận… một tên tù cải tạo… cô về đi, mang hết quà cáp về đi… đừng bao giờ thăm tôi nữa!
Tùng đứng lên, Dung khóc ré, Tùng quay sang mỉa mai:
- Con cũng về với chú cán bộ tốt bụng đi, để chú còn chở đi ăn kem, xem phim, mua quần áo cho… Nói với chú ấy là ba con chết rồi. Chưa chết thì cũng sẽ chết trong tù thôi, chú cứ lấy hết đi!
Viên thiếu tá bật dậy xỉ tay vào mặt Tùng:
- Này đừng có ăn nói như thể cách mạng cướp vợ con của các ông nhé!... linh tinh!
Tùng hóa liều, mắt đỏ vằn, nước mắt nước mũi đầm đìa, đấm tay vào ngực:
- Tôi đang muốn chết đây, các ông cứ bắn đi!
Vân Anh ngất đi, ngã lăn ra đất, Dung khóc thét rồi nức nở gọi: “ba ơi”, “mẹ ơi”…
*
Một tuần sau Vân Anh gặp lại Mạnh ở Sài Gòn. Họ ngồi với nhau ở ghế đá công viên cảng Bạch Đằng. Gió sông lồng lộng, mặt sông huyền ảo với muôn vạn ánh đèn. Vân Anh kể lại chuyện đi thăm chồng, vừa kể vừa khóc, Mạnh im lặng rít thuốc lá. Kể xong Vân Anh dụi khuôn mặt đầy nước mắt vào vai Mạnh, thổn thức:
- Gia đình của những sĩ quan học tập cải tạo đi chung với em chuyến này đều bị coi như cỏ rác anh ơi!
Mạnh dụi tàn thuốc lá xuống đất, quay lại hỏi Vân Anh:
- Em kể xong chưa?
- Anh muốn nói gì?
- Em tưởng phe của chồng em nhân đạo lắm sao?
Mạnh nhìn Vân Anh bằng ánh mắt khác lạ, nói như rít từng tiếng:
- Chúng nó bắn chết cha anh rồi cột xác sau xe jeep kéo từ ngoài ruộng về đem ra chợ bêu, rồi lại kéo để trước nhà anh. Cái xác mòn hết một phần ba, khuôn mặt nát một nửa, máu chảy hết chỉ còn nhúm thịt, xương lùng nhùng trong quần áo tơi tả. Chúng nó bắt rắn bỏ trong người chị của anh, thi nhau hãm hiếp rồi nhổ từng móng tay của chị, đóng đinh vào khắp khủy tay, đầu gối của chị ấy. Chị ấy… chết trong nhà tù Phú Quốc! Chúng nó bắt mẹ anh về đồn, đổ nước vôi trộn xà bông vào miệng rồi dùng giầy bốt-đờ-sô đạp vào bụng bà cụ… rồi lại treo ngược lên trần nhà cho nước hòa với máu ộc ra…
Mắt Mạnh ánh nước dưới ánh đèn công viên, răng nghiến ken két:
- Lẽ ra phải tra tấn chúng như chúng đã làm với những người cách mạng!
Vân Anh sững sờ nhìn Mạnh:
- Hôm nay anh sao thế?
Mạnh bỗng òa khóc ngon lành:
- Mỗi lần nhớ tới chuyện đó anh uất ức không chịu nổi…
Chờ cho Mạnh khóc xong, Vân Anh nắm tay Mạnh:
- Anh căm thù ngụy như vậy sao lại yêu vợ sĩ quan ngụy? Em lại có tới ba đứa con chứ đâu còn trẻ trung gì!
Mạnh thở dài:
- Thế mới oái oăm, nghiệp chướng!
Vân Anh ghé tai Mạnh thì thầm:
- Khi nào chán, anh cứ bỏ em. Em không dám trách móc… Anh luôn là ân nhân của gia đình em…
Mạnh xiết Vân Anh vào lòng:
- Anh không để em khó xử đâu, khi nào chồng em về, anh sẽ ra đi!
- Đi đâu?
- Đi thật xa để không bao giờ gặp lại em…
Lần đầu tiên kể từ ngày quen nhau, họ cùng khóc!
*
Gần cuối cuộc chiến tranh, Hai Mạnh nguyên sinh viên Luật khoa Sài Gòn, chuyển từ đơn vị đặc công tinh nhuệ sang đội cận vệ của chú Sáu - một chính khách tham gia nắm binh quyền. Mạnh nhiều lần cứu chú Sáu thoát chết trong gang tấc. Sau ngày Sài Gòn - Gia Định đổi màu cờ, Hai Mạnh cởi áo nhà binh, làm sếp Quản lý thị trường vì chú Sáu muốn bù đắp cho đệ tử cũng là ân nhân thời lửa đạn. Đơn thư tố cáo Mạnh “bảo kê, hủ hóa, có con với vợ sĩ quan ngụy đang học tập cải tạo”... tới tấp bay về các cơ quan chức năng rồi đến tai chú Sáu. Lo cho “thằng đệ”, chú Sáu (lúc này đã là lãnh đạo cấp cao) chuyển Mạnh sang làm cán bộ chấp pháp trong trại giam Chí Hòa. Chú nghĩ “cái lò bát quái” (trại giam Chí Hòa xây theo hình bát giác) và nội quy thép của ngành công an sẽ nhốt tính lãng tử đào hoa của Mạnh lại, để Mạnh không sa ngã thêm nữa. Khi Mạnh đã tu chí và có điều kiện thuận lợi, chú Sáu sẽ giao việc lớn hơn. Nhưng...
Hiền - bạn đi buôn thân thiết của Vân Anh phải ăn cơm Chí Hòa vì chống đối cán bộ khi bị bắt hàng lậu. Vân Anh vào thăm, Hiền khóc lóc nhờ Vân Anh xin Mạnh cho ra ngoài 2 tiếng đồng hồ để đem 3 đứa con nheo nhóc gửi ông bà ngoại rồi sẽ vào trại giam chịu tội. Vân Anh nài nĩ, Mạnh đành lấy một bộ đồ nữ công an cho Hiền mượn mặc vào để ra khỏi trại giam rồi chở Hiền bằng Honda 67 về nhà giải quyết công việc. Hiền lừa Mạnh, trốn biệt! Chú Sáu thở dài nói với sếp nhà tù Chí Hòa: “Cứ theo pháp luật mà làm!”. Thế là Mạnh mặc áo phạm nhân thay Hiền!
Một năm sau được ra tù, Hai Mạnh bị tước hết Đảng tịch, Quân tịch và mấy căn nhà bạn bè nể chú Sáu cấp cho Mạnh sau ngày 30/4/1975. Đồng đội sinh tử một thời cũng xa lánh, Mạnh cay đắng chọn canh bạc cuối cùng. Vân Anh cắt nhúm tóc để lại cùng lá thư đẫm nước mắt cho 3 con lớn: là Mỹ Dung, Mỹ Diệu, Mỹ Giang rồi ôm cu Cường - con chung với Mạnh chưa đầy 3 tuổi lên tàu vượt biên.
Trung tá pháo binh dù Trịnh Tùng được anh ruột là Trịnh Bách - trung tướng Quân đội nhân dân Việt Nam tìm được sau hơn 30 năm bặt tin nhau, nhờ anh bảo lãnh nên Tùng rời trại cải tạo trước thời hạn. Tùng không xuất cảnh diện H.O, ở lại vì còn Từ đường, mồ mã cha mẹ, ông bà ở Huế. Được người anh quyền cao chức trọng của bên thắng trận động viên, giúp đỡ, Tùng quên dần mặc cảm, không lấy vợ mới để toàn tâm nuôi 3 con mồ côi mẹ...
*
Ngày 19/8/2022, dịch Covid-19 tạm lắng, các quốc gia lần lượt mở cửa trở lại sau 2 năm “bế quan tỏa cảng” chống dịch, Mỹ Dung cùng con gái, con rể bay từ TPHCM sang thủ đô Kuala Lumpur của Malaysia rồi lại đi tiếp đến bang TERENGGANU ở vùng Đông Bắc, nhập vào đoàn du khách Việt kiều từ Mỹ, Úc, Châu Âu đi tour.
Bang TERENGGANU giáp biển, có đảo Bidong (người Việt gọi là đảo Rắn) từng là trại tạm cư do Cao ủy người tị nạn Liên hợp quốc (UNHCR) lập ra để giúp đỡ những người Việt vượt biên sau chiến tranh. Trại này từng là nơi ở của 25 vạn người đi tàu đánh cá từ Việt Nam sang trong giai đoạn 1975 - 1991, khi đất nước bị bao vây cấm vận và chịu nhiều áp lực từ cuộc chiến bảo vệ biên cương phía Bắc, biên giới Tây Nam nên rất khó khăn. Hầu hết các gia đình Cộng sản, gia đình trung lập cũng đói nghèo như các gia đình cộng hòa, thậm chí còn nghèo hơn! Đoàn khách Việt kiều hơn 30 người này đa số đã ở tuổi U60 - U70 hoặc hơn, từng ở trại này suốt nhiều năm trước khi được định cư ở Mỹ, Úc, Châu Âu... Họ khóc trên cầu tàu Jetty hay trong những cánh rừng hoang vu còn đầy dấu tích nhà thờ, trường học, bệnh viện, tiệm cà phê, chợ... của một hòn đảo từng đông nghẹt những di dân khốn khổ. Mỗi ngày, di dân cầu nguyện được sang nước thứ ba. Để rồi mấy mươi năm sau, nhiều người “thờ cờ vàng” trong số đó lại “vượt biên ngược” về lại Việt Nam làm ăn, hoạt động nghệ thuật, cưới vợ trẻ hay an hưởng tuổi già. Họ căm thù, chống phá Cộng sản suốt mấy chục năm rồi lại được Cộng sản ân cần tạo điều kiện thậm chí là mời mọc trở về. Lúc này các cựu di dân hay “thuyền nhân tị nạn” đã “giác ngộ” lại ca ngợi Đảng và Bác Hồ hơn cả các gia đình 3 đời “Đỏ”! Thời hậu chiến bi hài đến khó tin!
Trịnh Mỹ Dung - con gái trung tá VNCH Trịnh Tùng, cháu gọi Trung tướng QĐNDVN Trịnh Bách là bác ruột, đã đến đây nhiều lần để tìm mộ mẹ ruột. Ngày mẹ theo cha dượng vượt biên để lại nắm tóc và bức thư đẫm nước mắt: “... Các con thương yêu của mẹ. Dượng Mạnh đã lo cho mẹ con mình suốt 5 năm nay, vì mẹ mà mất hết sự nghiệp, tù tội nhục nhã. Dượng không thể sống ở đây được nữa, mẹ cũng không nỡ bỏ dượng. Mẹ đã có lỗi với ba các con, giờ lại có lỗi với các con. Khi các con đọc được thư này thì mẹ với dượng và cu Cường đã lên tàu ra biển...”. Gần một năm sau, chị em Dung nhận được bức điện tín từ nước ngoài gửi về với mấy chữ vắn tắt mà đau buốt: “Van Anh da chet, chon o dao Bidong - Malaysia” (Vân Anh đã chết, chôn ở đảo Bidong - Malaysia)... Ngày đó bà ngoại, dì út và chị em Dung đã khóc sưng mắt và nỗi đau kéo dài suốt nhiều năm sau. Họ tin là dượng Mạnh đã gửi bức điện tín đó, nhưng cũng không chắc chắn... Từ năm 2015, Mỹ Dung (chủ một công ty có 3.000 nhân viên và hơn 20 triệu USD tài sản) đã nhiều lần bay sang Malaysia ký hợp đồng xuất khẩu gạo, thịt gà với các đối tác và lần nào cũng dành thời gian ra đảo Bidong tìm mộ mẹ. Đến lần thứ 3 vào đầu năm 2018, phía đối tác giới thiệu cho Dung một “thổ địa” về lĩnh vực này ở bang TERENGGANU là ông Yeh Feng - một người Mã (Malaysia) gốc Hoa - chủ một khách sạn nhỏ ở bờ biển Merang Jetty - đối diện và cách đảo Bidong 15 cây số hay 30 phút đi tàu cao tốc. Chưa đầy 2 tiếng đồng hồ quần thảo trong nghĩa trang Phúc Kiến - TERENGGANU gồm 4 khu A, B, C, D rộng lớn, ông Yeh Feng chỉ vào một phần mộ thấp lè tè, xây gạch sơ sài, bên trên có bia đá khắc chữ: Trang nu Van Anh (Trang nữ Vân Anh), SN 1943, mất ngày 21/9/1981. Tên họ của mẹ là độc nhất vô nhị nên Mỹ Dung không sợ nhầm lẫn với bất kỳ ai. Cô bất chấp bộ váy sang trọng đang mặc trên người, nhào ôm tấm bia bụi bặm, hoang phế khóc nức nở. Ông Yeh Feng gọi điện, một lát có ông trung niên lực lưỡng, râu quai nón đi xe máy, vác cuốc đến, cuốc hết cỏ rậm rạp, phát quang cho ngôi mộ. Mỹ Dung lập tức gọi video call theo nhóm Zalo cho Mỹ Diệu, Mỹ Giang báo tin mừng đã tìm được mộ mẹ. Ba chị em khóc như mưa... Mỹ Dung tính sẽ chọn ngày tốt đưa hài cốt mẹ về, nhưng chưa kịp làm thì đại dịch Covid bùng khắp thế giới...
Chuyến đi này Mỹ Dung quay lại Bidong với con gái là Mỹ Vân cùng chồng Vân là Đức. Mỹ Dung đã nhờ ông Yeh Feng thuê giúp tổ thợ và mua những thứ cần thiết, kể cả hương, hoa, lễ vật để tế cáo với trời Phật, thánh thần và vong linh của 680 đồng hương của mẹ nằm rải rác gần đó. Trong tour của đoàn khách Việt kiều cũng có chương trình đi thắp hương các mộ tập thể của người Việt và người thân của các vị khách trong khu nghĩa trang rộng lớn này. Đó là những số phận vượt biên kết thúc vì sóng to, gió lớn, đói khát, ốm đau hay vì bọn hải tặc tàn bạo... Đoàn du khách đi trên xe bus lớn, đổ ra nghĩa trang, hướng dẫn viên người Mã đang thuyết minh bằng tiếng Anh. Mỹ Dung đưa Vân và Đức tách đoàn, đi bộ ra mộ mẹ...
Ông Yeh Feng và 2 người thợ bốc mộ đã chờ sẵn với dụng cụ và hương hoa. Dung khấn vái, thắp nhang xong là họ bổ cuốc vào mộ...
Bất ngờ từ trong đoàn khách Việt kiều cách đó chừng 20m, có 2 người đàn ông, một già một trung niên mang túi ni-lon đựng trái cây, nhang, đèn cầy, hoa vừa la lớn, vừa đi như chạy về phía Dung. Ông già gầy, cao, đầu bạc trắng nhìn Dung với vẻ thất thần, giọng run run:
Cô là ai? Tính làm gì với mộ vợ tôi?
Dung nhìn ông ta chằm chằm rồi òa khóc...
Dung gọi video để dượng Mạnh nói chuyện với ba. Hai ông già ngoài tuổi 80, hai chiến binh “không đội trời chung” thời chiến tranh giờ nhìn nhau qua màn hình điện thoại khóc, cười nức nở. Cựu trung tá VNCH nghẹn ngào: “Cảm ơn anh đã nuôi vợ con tôi lúc tôi còn trong trại cải tạo. Không có anh, mẹ con nó đã... tự tử!”. Cựu bộ đội, cựu công an, cựu đảng viên Cộng sản Hai Mạnh đưa tay quệt nước mắt: “Tụi mình cùng khổ đau, mất mát như nhau... Trên tàu vượt biên hơn 40 năm trước, tôi cùng 6 cựu sĩ quan “cờ vàng” đã tử chiến với bọn cướp biển Thái Lan để bảo vệ vợ con, đồng bào mình. Ý thức hệ thay đổi theo hoàn cảnh, thời gian; máu đỏ da vàng mới là vĩnh cửu!... À, thằng Cường vừa được gặp chị Dung và cháu ngoại, cháu rễ của anh. Chị em, cậu cháu nó mừng, khóc anh ơi! Cường bây giờ là trung tá hải quân Hoa Kỳ...”. Trịnh Tùng cũng mếu máo khoe: “Cháu rễ tôi vừa bắt tay anh là Phó bí thư Quận ủy đó. Còn tôi cũng là cán bộ hưu trí của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam ở phường. Thật kỳ diệu là tụi mình “đổi vai nhau” sau hòa bình...”.
Ông Mạnh nói chuyện với “kẻ thù” kiêm “tình địch” một thời xong, quệt nước mắt, quay sang Dung:
Con cho thợ tiến hành đi. Dượng với em Cường sẽ mang tro cốt của mẹ về Việt Nam cùng con. Cả nhà mình sẽ đoàn tụ ở Sài Gòn...
Dung ôm ông Mạnh nghẹn ngào:
Ba!... Ba là cha của chị em con từ 47 năm trước rồi mà. Tụi con có một người mẹ tuyệt vời và hai người cha kính yêu. Mãi mãi là vậy! Mong ước hai người cha cùng ở một nhà để tụi con được phụng dưỡng báo hiếu và cùng nhau nhan khói cho mẹ...
Ông Mạnh quỳ xuống lấy mấy ngón tay đẫm nước mắt vuốt ve bia đá trên mộ vợ: “Em nằm đây một mình hơn 40 năm rồi; khổ đau, thắng thua, thù hận cũng qua hết rồi, mình về với con cháu, quê hương thanh bình thôi em ơi!”.
Mỹ Dung định hỏi cha nuôi về nguyên nhân cái chết của mẹ, cùng bức điện tín năm xưa, nhưng nghe câu đó và nhìn ánh mắt chứa chan yêu thương của ông, cô hiểu mọi câu hỏi về quá khứ đều là tội lỗi nếu khơi gợi lại đau thương, hận thù...!
Viết cho ngày 30/4/2025 - 50 năm đất nước thống nhất, Nam - Bắc một nhà
L.V.L