TIN TỨC

Hành trình nước - Bước chuyển mình của kẻ sĩ chu du

Người đăng : phunghieu
Ngày đăng: 2025-10-31 21:21:35
mail facebook google pos stwis
23 lượt xem

Với Hành trình nước, Vũ Mai Phong cho phép người đọc thám hiểm một cõi tâm hồn mình, để chiêm nghiệm, để cảm nhận sự chuyển hóa kỳ diệu của nước - từ giọt sương nhỏ bé hóa thành đại dương bao la, từ tâm hồn cá nhân hòa vào tính thiêng của Tổ quốc.

Năm 2025, sau ba tập thơ đã định hình phong cách trữ tình, thuần hậu là Cõi bình yênNẻo về và Rồi mai mùa sẽ vui, nhà thơ Vũ Mai Phong đánh dấu một bước chuyển đáng chú ý trong thi nghiệp với tập thơ thứ tư: Hành trình nước (NXB Văn học). Tập thơ này là một bước nhảy, đưa khả năng truyền tải đời sống nội tâm sâu sắc và tinh thần sáng tạo, đổi mới của tác giả lên một bậc cao hơn hẳn, chạm đến ngưỡng cửa của triết lý và siêu hình.

Thơ tự do tuôn chảy từ suối nguồn dòng Sống

Điều đáng quý nhất trong thi pháp của Vũ Mai Phong là sự tự nhiên và thành thực. Với Phong, cuộc sống không phải là đối tượng để “chế biến” thành thơ một cách cầu kỳ, hoặc giũa gọt chữ làm dáng, mà chính là chất liệu thô sơ, tinh khiết nhất. Ý thơ nương náu trong từng sự việc, từng người gặp, từng cảnh đổi thay hằng ngày. Người đọc cảm nhận được rằng, Phong dường như không cần dụng công làm thơ, mà thơ tự tuôn chảy từ một suối nguồn dòng sống dồi dào trong anh.

 

Nhà thơ Vũ Mai Phong

 

Sự tuôn chảy này giúp thơ anh giữ được độ trong trẻo, hồn hậu hiếm thấy, như thể anh vội ghi lại những khoảnh khắc sống để tiếp tục đào sâu chiêm nghiệm, không kệ nó vuột trôi vô ích trong nhịp sống hối hả. Chính sự không gò ép, không cố gắng “làm thơ nắn vần” đã tạo nên một giọng điệu độc đáo, vừa gần gũi vừa uyên thâm, như một lời tự bạch thì thầm, bỗng chốc bật lên thành tiếng sấm dội. Đây là dấu hiệu của một nhà thơ đã đạt đến độ chín muồi, khi thi hứng đã hóa thành hơi thở, thi liệu đã hóa thành mạch máu.

Hành trình nước: Sự luân hồi vũ trụ và Tính thiêng của đất nước

Nhan đề Hành trình nước ban đầu gây ngạc nhiên với riêng tôi, bởi tôi cứ tưởng Phong đã chọn một tứ khác cho tập này, nhưng khi nghiền ngẫm thêm, tôi nhận ra đây là một lựa chọn tuyệt vời, gói gọn toàn bộ tinh thần và triết lý của tập thơ. Nước, trong ý niệm của Vũ Mai Phong, đã vượt ra khỏi nghĩa vật lý thông thường để trở thành một biểu tượng vũ trụ, biểu tượng hành trình sống của chính tác giả. Và có lẽ cũng bởi trong hai năm Phong sáng tác tập thơ này (2024-2025), nước đã tạo nên nhiều cơn phong ba trong đời sống chúng ta...

 

Tập thơ "Hành trình nước"

 

Nước chính là tác giả, là cái tôi thi sĩ, luân hồi vũ trụ mà chu du cùng trời cuối đất, thấm và ngấm chuyện đời mà chuyển hóa thành thơ. Nước khi là giọt sương, khi là hơi ẩm, là mây, khi là khe suối, lúc cuồn cuộn thành đại dương, luôn vận động, luôn chuyển hóa, nhưng bản chất vẫn không đổi. Đó là hình ảnh tuyệt vời nhất để nói về quá trình sáng tạo không ngừng nghỉ, cũng như sự chiêm nghiệm đời sống của một người nghệ sĩ. Giọt nước là thấu kính, cũng là chính vũ trụ. Vừa soi rọi đời sống, vừa là chính đời sống...

Đặc biệt, trong bài thơ chủ đề “Hành trình nước”, Vũ Mai Phong đã chạm đến một tầng nghĩa thiêng liêng chỉ có duy nhất trong tiếng Việt: “Nước” còn là Quốc gia. Sự hòa quyện giữa vật chất (nước) và tinh thần/chính trị (quốc gia) này là một hiện tượng ngôn ngữ và văn hóa độc đáo, thể hiện tầm nhìn vũ trụ quan của người Việt. Trong khi ở các ngôn ngữ khác, như tiếng Anh chẳng hạn, thì quá lắm chỉ dùng từ “Đất” (Motherland, Fatherland, Homeland) hàm ý Quốc gia (Tổ quốc) chứ không có từ “Nước”. Điều này cho thấy độ tinh và có phần “quái” của Vũ Mai Phong khi chọn nhan đề tập thơ, bởi anh đã thám hiểm và “khoanh trọn” được vỉa nghĩa thiêng liêng và độc đáo của từ "Nước" mà hiếm ngôn ngữ nào có được.

Hạt nước giếng nguồn đất Tổ

theo gió du ngoạn khắp nơi

lúc qua sông hồ khe suối

khi cuồn cuộn về biển khơi...

Với câu thơ Nước vẽ biển hình chữ S, tác giả đã sử dụng từ “Nước” một cách tài tình để tạo nên một tính thiêng cho cả tập thơ. Nước không chỉ là sự luân hồi của cái Tôi cá nhân mà còn là mạch nguồn dân tộc, là dòng chảy lịch sử thiêng liêng mang hình hài đất nước. Sự kết hợp giữa hành trình tâm linh và tình yêu Tổ quốc tạo ra chiều sâu đa tầng hiếm có.

Cái Tài và Cái Lạ trong giọng điệu thơ

Cái tài của Vũ Mai Phong nằm ở khả năng nắm bắt tinh tế từng chuyển động của đời sống - từ cơn mưa bóng mây đỏng đảnh, cơn bão phá hủy cùng kiệt, tiếng chim gù u uất, đến một ánh mắt thoáng qua mà ám suốt đời... Nhưng cái lạ ở chỗ, giọng thơ của anh mang tính đối lập/mâu thuẫn đầy thú vị.

Anh vừa có thể hồn hậu trong trẻo như một nhi đồng trong cái nhìn về thế giới, khiến ta thấy cuộc đời còn vẹn nguyên sự ngây thơ, thánh thiện. Thoắt chốc, cái nhìn ấy chuyển hóa, anh trở thành một nhà hiền triết thâm trầm, bao quát thế nhân, xuyên thời không, để rồi thả nỗi lòng kẻ sĩ trong ngục tù tâm trí.

Sự chuyển đổi giọng điệu đột ngột này tạo ra những cú va đập cảm xúc mạnh mẽ. Nó là tiếng lòng của một người muốn thoát khỏi cái vỏ an toàn, muốn phá vỡ sự im lặng và tầm thường:

Hình như chính chúng ta cũng đang dần im lặng

Rụt đầu vào lớp vỏ an toàn

An ủi nhau bằng những vần thơ tẻ nhạt

Nghe tiếng chim gù u uất nỗi trầm luân

Hãy gầm lên đi, ầm vang sấm dội...

(Bên bờ giác)

Đó là lời kêu gọi thức tỉnh, một tiếng “gầm lên” dữ dội trong một xã hội đang dần mòn vì những “vần thơ tẻ nhạt” và sự “rụt đầu vào lớp vỏ an toàn”. Bài thơ không chỉ là sự chiêm nghiệm mà là một tuyên ngôn về tính chân thật và sức mạnh của nghệ thuật.

Những vần minh triết ghim lại trong tâm

Bên cạnh những dòng chảy trữ tình mênh mang của “Nước”, tập thơ còn cô đọng nhiều câu mang giá trị như những triết lý sống cho đời. Bài thơ Hồn đá là một ví dụ điển hình cho sự thâm trầm này:

Đá khôn giấu ngọc trong lòng

Chim khôn giấu mỏ, người khôn giấu lời.

Câu thơ đúc kết kinh nghiệm sống một cách tinh gọn, uyên bác, không giáo điều. Nó chứa đựng sự kiềm chế và sâu sắc của người hiền triết - một lời nhắc nhở về sự khiêm tốn và trọng lượng của ngôn ngữ. Đặc biệt, trong bài thơ Cỏ, tác giả đã nâng chủ đề về sự bền bỉ lên tầm triết lý vũ trụ. Bốn câu thơ sau vẽ nên một bức tranh về sự sống bất diệt giữa vòng xoáy khắc nghiệt của thời gian và lịch sử:

Cỏ xanh tấm áo địa cầu

Mỗi năm tự khoác lên màu biếc xuân

Tuyết băng, nắng xối mưa dầm

Tả tơi thời cuộc âm thầm sinh sôi.

Tác giả đã nâng tầm cỏ, một loài thân thảo thấp nhỏ sát đất tầm thường, thành biểu tượng nhân sinh cao đẹp khi coi đó là “tấm áo địa cầu”, mang tính phổ quát, tượng trưng cho sự sống cơ bản nhất, tự mình khoác lên vẻ đẹp hồi sinh (“màu biếc xuân”). Quan trọng hơn, tác giả đặt sự khắc nghiệt của thiên nhiên (“Tuyết băng, nắng xối mưa dầm”) song hành với sự tàn phá của nhân thế (“Tả tơi thời cuộc”). Tuy nhiên, bất chấp mọi biến cố lịch sử hay tự nhiên, sự sống vẫn tiếp diễn một cách kiên cường và khiêm nhường (“âm thầm sinh sôi”). Đây là tuyên ngôn về tinh thần bất diệt, vượt lên trên mọi sự hỗn loạn của thời cuộc.

 

"Hành trình nước" là một dấu ấn đáng ghi nhận trong thi nghiệp của Vũ Mai Phong

 

Ngoài ra, cảm hứng về lòng biết ơn và sự cho đi cũng trở thành một mạch chảy trong tập thơ, tiêu biểu qua bài Cửa Báo Đáp:

Ơi sông Mẹ dạt dào dòng sữa quý

Luôn cho đi mà chẳng đợi đáp đền.

Hình ảnh “sông Mẹ” tiếp tục củng cố biểu tượng Nước, nhưng gắn liền nó với lòng biết ơn vô điều kiện, thể hiện tinh thần nhân văn sâu sắc.

Hành trình nước là một dấu ấn đáng ghi nhận trong thi nghiệp của Vũ Mai Phong. Tập thơ đã hoàn thành một hành trình tâm trí xuyên không gian và thời gian, từ sự hồn nhiên của một đứa trẻ đến sự uyên thâm của một nhà hiền triết. Với tập thơ này, tác giả cho phép người đọc thám hiểm một cõi tâm hồn mình, để chiêm nghiệm, để cảm nhận sự chuyển hóa kỳ diệu của nước - từ giọt sương nhỏ bé hóa thành đại dương bao la, từ tâm hồn cá nhân hòa vào tính thiêng của Tổ quốc. Đây là một tác phẩm mang tính bước ngoặt, tạo một vệt tươi mới trong nhãn quan đời sống, cũng là suy tưởng và trăn trở của Vũ Mai Phong trước chuyển động mạnh mẽ của thời cuộc.

KBH/Báo Văn Nghệ

Bài viết liên quan

Xem thêm
Gió Phương Nam 4 - Những lời thơ chân thực
Trang thơ “Gió Phương Nam 4” dễ dàng gợi lại những bước chân đồng đội năm xưa – bước chân thời chiến, bước chân thời bình, mang theo niềm vui, nỗi nhớ và cả những nỗi buồn sâu lắng.
Xem thêm
“Bến nước kinh Cùng” - Bến đợi của ký ức và tình người…
“Giữa bao vội vã, còn mấy ai lắng lòng với những phận người quê mộc mạc?” - Chính từ trăn trở ấy, “Bến nước kinh Cùng” của nhà văn Nguyễn Lập Em được tìm đến như một lời nhắc nhở tha thiết, đưa ta trở về với đất và người Nam Bộ, nơi tình quê và tình người thấm đẫm trong từng trang viết.
Xem thêm
Người thơ xứ Quảng: “Ảo hương lãng đãng bên trời cũ”
Nhà thơ Xuân Trường - tên thật Nguyễn Trường - là một tâm hồn phiêu bạt. Ông sinh ngày 12/12/1949 (theo giấy khai sinh) nhưng thực tế là năm 1945 (tuổi Ất Dậu), tại xã Đại Phong, huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam.
Xem thêm
Nước sông Sa Lung chưng cất bầu rượu thơ
Nhà thơ Nguyễn Hữu Thắng lớn lên bên dòng sông Sa Lung xanh trong. Có phải dòng sông Sa Lung là dòng sông thơ ca của đất Rồng - Vĩnh Long?. Tuổi thơ anh vô tư ngụp lặn vẫy vùng bơi lội tắm mát trong dòng sông ấy, nên anh rất yêu thơ, tập tành sáng tác thơ và thành công thơ khá sớm.
Xem thêm
Cung ngà xưa – Tiếng vọng ký ức trong miền tiếp nhận hôm nay
Đặt trong bối cảnh văn hóa, “cung ngà” còn gợi đến truyền thống âm nhạc dân tộc, nơi tiếng đàn, tiếng sáo từng là phương tiện gắn kết cộng đồng. Người miền Trung – đặc biệt là Huế và xứ Quảng – vốn sống trong không gian khắc nghiệt, thường tìm đến âm nhạc như một nơi trú ngụ tinh thần. Vì vậy, bài thơ không chỉ là ký ức cá nhân, mà còn mang dấu vết của ký ức tập thể.
Xem thêm
“Công chúa Ngọc Anh – bể khổ kiếp nhân sinh”
Văn học lịch sử vốn được xem là mảng khó viết bởi vừa đảm bảo tính chính xác vừa phải tạo được tính hấp dẫn lôi cuốn. Người viết văn học lịch sử không thể xuyên tạc, tô vẽ hay làm méo mó đi nội dung câu chuyện. Chính vì khó viết nên văn học lịch sử luôn là đề tài thu hút nhiều người đọc, bởi đó là cơ hội để người đọc và người sáng tác chiêm nghiệm lại quá khứ, suy ngẫm về tương lai, trăn trở về những hưng thịnh của thời đại, là một dòng chảy làm tái sinh những giai thoại dựa trên sự kiện lịch sử. Người viết văn học lịch sử là người phục dựng lại những bí ẩn còn chìm sâu trong bức màn thời gian, làm sáng tỏ những giá trị nghệ thuật mang tính truyền thống hay tín ngưỡng.
Xem thêm
Nhẹ nhàng bài ca cuộc sống nơi “Những cơn mưa thu” của Thanh Tám
Thanh Tám, Hội viên Hội Văn học nghệ thuật Lai Châu là cây viết truyện ngắn khá quen thuộc với bạn đọc. Một số truyện ngắn của Thanh Tám đã được đăng tải trên các trang báo sang trọng Báo Văn nghệ, Trang báo điện tử Vanvn.vn của Hội Nhà văn Việt Nam. Một trong những truyện ngắn của em, tôi tin rằng nhiều người thiện cảm, đó là truyện ngắn Những cơn mưa thu. Một câu chuyện gọn gàng, xinh xắn, gợi trong lòng độc giả những ấm áp, yêu thương như giọng văn nhẹ nhàng, truyền cảm của tác giả vậy.
Xem thêm
Tượng đài một anh hùng
Trường ca Tiếng chim rừng và đất lửa Tây Ninh (NXB Quân đội nhân dân, 2025) của tác giả Châu La Việt đã kiến tạo thành công nhiều biểu tượng về cuộc kháng chiến chống Mỹ một cách hệ thống, đa dạng về cấu trúc, sâu sắc về ý nghĩa, giàu có về tín hiệu thẩm mỹ.
Xem thêm
Cô gái Quảng Trị với nồng cay tiêu Cùa
Đọc 14 bài bút ký của nữ nhà báo Đào Khoa Thư, trong tập bút ký “Mùa bình thường” in chung với nhà báo Đào Tâm Thanh, do Nxb Thuận Hóa ấn hành tháng 7 năm 2025, tôi thật sự khâm phục cách viết khoáng hoạt của cô gái trẻ. Không gian được đề cập là mảnh đất quê nhà thân thương và những đất nước mà cô đặt chân đến để học tập, công tác, giao lưu, trải nghiệm. Lời văn tươi mới tràn đầy cảm xúc, lối viết chân thực, cởi mở, ngắn gọn cho ta thấy bao điều mới mẻ. Đọc lần lượt từng bài bút ký, thật thích thú với bao điều hấp dẫn qua từng câu chuyện kể về cuộc sống đời thường và các sự kiện diễn ra rất bổ ích.
Xem thêm
Đọc thơ Phương Viên – Ba khúc tình, rụng và gặp gỡ
Bằng giọng văn tinh tế, giàu cảm xúc và với kiến văn sâu rộng, tác giả đã khẳng định: thơ Phương Viên là nơi “chữ rụng mà hồn nở hoa”, một giọng thơ biết lặng đi để người đọc còn nghe tiếng của yêu thương và hồi sinh. Văn chương TP. Hồ Chí Minh xin giới thiệu bài viết này tới bạn đọc.
Xem thêm
Hạt bụi lênh đênh – Từ đất Ý hóa kiếp thân thương dưới trời nam
Rơi ra từ căn phòng bài trí trang trọng của một tòa lâu đài cổ kính. “HẠT BỤI” kia đã chọn kiếp “LÊNH ĐÊNH” để rồi một ngày lưu dấu hồn trần nơi “quê người đất khách”. Hẳn là trong sự lựa chọn “nghịch thường” đó, hàm chứa một điều lớn lao địa cửu thiên trường nơi thân mệnh mong manh cánh chuồn. HẠT BỤI LÊNH ĐÊNH – ngay từ nhan đề… đã cho thấy sắc tính Á Đông thông dụng. Điều đặc biệt ở đây. Nó được viết bởi ELENA PUCILLO TRƯƠNG một nhà văn, một nhà Khoa học/ học giả Ngữ Văn của Tây Phương – Ý.
Xem thêm
Hoài niệm quê hương trong thơ Nguyễn Quang Thuyên
Nguyễn Quang Thuyên vốn là “dân xây dựng” - Giám đốc Vinaconex 3 Phú Thọ , quê Tam Nông, Phú Thọ. Ai từng gặp anh thời điểm hiện tại sẽ có thiện cảm bởi nụ cười có duyên, thân thiện. Ấy là Nguyễn Quang Thuyên của hôm nay, hay chí ít cũng là cảm nhận của tôi, rằng nhiều năm trước, gặp anh sẽ ngỡ anh khó tính, có sự bụi bặm phong trần của nghề nghiệp, có vẻ lạnh lùng và cảm giác khó gần. Anh là “dân ngoại đạo” nhưng đã 10 tập thơ được xuất bản. Tập thơ “Đưa em về quê nội”, NXB Hội Nhà văn 2024 của anh vừa đạt giải A của Hội Liên hiệp văn học nghệ thuật Phú Thọ (Giải thưởng hàng năm, năm 2024).
Xem thêm
Khoảng trống trong thơ đương đại
Sang giai đoạn thơ hiện đại, đặc biệt từ thời kỳ Đổi Mới (1986) đến nay, dưới ảnh hưởng của thơ tự do, thơ thị giác, thơ hậu hiện đại,… khoảng trống được vận dụng đa dạng hơn: là dấu hiệu cấu trúc, chiến lược gợi mở ý nghĩa, cũng là phương tiện giải cấu trúc câu chữ. Việc nhận diện, phân loại và giải thích cơ chế thẩm mỹ của khoảng trống vì vậy cần được đặt trong dòng chảy lịch sử rộng hơn – từ các quy phạm cổ điển đến những cách tân hiện đại – nhằm làm rõ lý do và cơ chế khiến “sự im lặng” trở thành tiếng nói quan trọng trong thơ.
Xem thêm
Triệu Kim Loan – nỗi mình bộc bạch cùng trăng
Một bài viết chân thành, giàu rung cảm của Ngô Minh Oanh về tập thơ Chữ gọi mùa trăng của Triệu Kim Loan.
Xem thêm
Phan Nhật Tiến - Thời cầm bút nói về thời cầm súng
Bài viết của Trần Hóa về tập thơ mới của Phan Nhật Tiến
Xem thêm
Nắng xanh pha hương giọt mật đầy
Văn Chương TP.HCM xin giới thiệu bài của Tuấn Trần.
Xem thêm
Cảm nhận tác phẩm “Mật ngữ đen trắng”
Bài viết của nhà thơ Huỳnh Tấn Bảo từ Bà Rịa - Vũng Tàu
Xem thêm
Nặng tình qua những miền quê
Bài viết tạo được chân dung “lữ khách thi ca” Vũ Trọng Thái
Xem thêm
Thế giới nữ tính đằm thắm và điệu nhạc tình yêu trong thơ Võ Thị Như Mai
“Nhớ anh nhiều bao nhiêu / Như thế nào là nhiều…” – những câu thơ giản dị mà đằm thắm ấy chính là nhịp điệu riêng của Võ Thị Như Mai.
Xem thêm
Bùi Minh Vũ - Buông neo hồn thơ vào biển đảo
Sau 2 tập thơ Lão ngư Kỳ Tân (2014), Biển và quê hương (2020) Bùi Minh Vũ cho ra mắt tập thơ Buông neo của (NXB Hội Nhà văn, 2024) gồm 113 bài thơ viết về đề tài biển đảo. Cảm hứng chung của tập thơ là tình cảm mến yêu, cảm phục, trăn trở và gắn bó tâm hồn với với biển đảo, với Trường Sa, Hoàng Sa, với những người lính đảo và người dân bám biển. Những tập thơ trước, Bùi Minh Vũ viết từ cảm xúc của một công dân yêu nước hướng về biển đảo với sự ngưỡng vọng. Ở tập thơ này, sau những chuyến vượt sóng ra Trường Sa, thăm đảo chìm đảo nổi, nhà thơ đã “Buông neo” hồn thơ vào biển đảo của Tổ quốc. Bài đầu của tập thơ đã thể hiện điều đó: Sóng ngọt như hoa trái lững lờ thè chiếc lưỡi/Bình minh trườn qua con chữ/Bài thơ quyết liệt buông neo/Như cột mốc đứng thẳng (Buông neo).
Xem thêm