TIN TỨC
  • Lý luận - Phê bình
  • Hạt bụi lênh đênh – Từ đất Ý hóa kiếp thân thương dưới trời nam

Hạt bụi lênh đênh – Từ đất Ý hóa kiếp thân thương dưới trời nam

Người đăng : phunghieu
Ngày đăng: 2025-10-13 16:29:54
mail facebook google pos stwis
100 lượt xem

TUẤN TRẦN

(Vanchuongthanhphohochiminh.vn) - Rơi ra từ căn phòng bài trí trang trọng của một tòa lâu đài cổ kính. “HẠT BỤI” kia đã chọn kiếp “LÊNH ĐÊNH” để rồi một ngày lưu dấu hồn trần nơi “quê người đất khách”. Hẳn là trong sự lựa chọn “nghịch thường” đó, hàm chứa một điều lớn lao địa cửu thiên trường nơi thân mệnh mong manh cánh chuồn. "HẠT BỤI LÊNH ĐÊNH" – ngay từ nhan đề… đã cho thấy sắc tính Á Đông thông dụng. Điều đặc biệt ở đây. Nó được viết bởi ELENA PUCILLO TRƯƠNG một nhà văn, một nhà Khoa học/ học giả Ngữ Văn của Tây Phương – Ý.

 

Nhà văn Elena Pucillo Truong và tác giả Tuấn Trần

 

Thế nhưng, không nên hiểu nhan đề như sự mô tả/minh họa thông thường. Đó không phải là bước đời nổi trôi đau đáu về nghìn trùng xa cách, tháng năm thương thầm tiễn biệt. Mà là cái “lênh đênh” để kiếm tìm, để bám chạm, cầm nắm, ôm nâng, “xẻ xan”.... Để thấy trước mắt mình và sau lưng người “Một cuộc đời không bao giờ có những giây phút “không – tình- yêu”. Thế thì tuyệt diệu biết bao!”.

“HẠT BỤI” đã kiên nhẫn, ân cần bén rễ vào cảnh tình, môi sinh, kiến tạo mối cộng sinh đặc biệt – như đã từng trong lịch sử Danh nhân – “Giữa Mạc Tự Khoa nghe câu hò Nghệ Tĩnh”. Phải chăng đây là “đóa bách hợp” giữa trời thu hòa bình…

Trên sân khấu Văn chương nước nhà – đương đại, sự góp mặt của nữ văn sĩ Elena Pucillo Truong, đã như một “hạt nắng”, tuy nhỏ nhoi nhưng đủ rọi tin rằng: Tiếng Việt, Văn chương Việt, có khả năng lớn lao chạm cảm đến tận chân trời. Đó là sự tự cất lời, là khả năng thẩm thấu, giao kết, ăn bắt bền chặt của chính bản thân chữ nghĩa - Tiếng Việt, mà ta cứ tưởng quá đỗi gian nan khi ra biển rộng, tạo ra những thách thức hằn hộc trong chuyển ngữ. Nhưng thực tế, Văn chương đâu phải thế, rào cản của nó là ở tâm hồn và trái tim, không phải chờ những phương tiện chuyên chở/bợ đỡ như truyền thông hay dịch thuật…

Nơi mảnh đất mà nỗi đau thành thực róng riết hơn bất cứ đâu trên địa cầu này, thì việc đồng điệu với những thân phận lòng riêng khi soi tìm để ôm vỗ đôi bờ trong nhau là điều không khó. Và có lẽ, sâu trong tâm thức “áng tóc vàng trữ tình” đó, có đeo mang một nỗi niềm thân phận như “hạt mưa sa”, như “chẽn lúa đòng đòng”, như “bảy nổi ba chìm”… Ấy thế mới có sự cộng hưởng, song trùng cho cùng Tiếng Việt, để rung ngân những sợi đàn lòng trong tỉnh thức: “Sự quên lãng chính là thứ quà tặng quý báu, vì sau nhiều ngày hôn mê, khi tỉnh dậy, bé không còn nhớ gì về những việc đã qua… Thế rồi cuộc đời nó như được tái sinh, khởi đầu bằng sự đón nhận bình yên và thanh thản cùng với gương mặt dịu hiền…”.

Quả thật! cuộc đời của “HẠT BỤI” cũng côi cút, truân chuyên như bao phận nữ nhi thường tình nơi “Cửa Khổng sân Trình” hay một kiếp đời hiu hắt sinh ra trong bối cảnh tử chiến. Tương đồng mật thiết nhất là với tuổi thơ của “Bông hồng nơi chiến hào” (Xuân Quỳnh). “Cô gái tóc vàng” cũng vậy – qua lời tự bạch trầm mặc thấm thía: “Tôi là một đứa bé mồ côi, bị bỏ rơi nơi góc đường trong một thành phố nhỏ… Có ai đó đã nhặt tôi lên và cho tôi ăn uống… Và có lẽ một điều gì đó kinh khủng đã xảy ra và tôi bị đưa vào trại trẻ mồ côi”. Không khuất nhục trước số phận, thiếu nữ bất hạnh kia đã học và học rất giỏi để mong rằng một ngày trở lại với ngôi nhà đầy hương hoa oải hương - nơi mà cô đã được ai đó nhặt lên, chăm nuôi và có những khoảng sống hạnh phúc hiếm có trong một đời người… Đến đây bạn đã hiểu phần nào về sợi dây phép màu đã kết bện mối nhân duyên tưởng “nghịch chiều” này rồi chứ!

Và tất nhiên, quy luật của cuộc sống là quy luật của tình yêu - Bởi "Gió và tình yêu thổi trên đất nước tôi" (Quote: Lưu Quang Vũ). Nên mối lương duyên nặng nghĩa này không thể nằm ngoài hai chữ "yêu nhau". Những lời "chất vấn ngào ngọt" trào dâng từ dòng chữ thư tay... Tình cảm của "họ" cũng như bao chàng trai, cô gái cùng thời đại, nó được bắt đầu từ những bức thư. Bức thư của "anh" gửi đến nhiều hơn một lần, cùng những lời ân cần và thành thật chính là "căn cứ" xác tín để cho cô gái trẻ "đang chìm trong sự trĩu buồn của thân phận" quyết định "dâu bể xứ người"... Từ khoảnh khắc "...trái tim ngừng đập trong giây phút đôi môi rụt rè đã thấy nhau", hai số phận đã cùng sang trang...

Có thể nói rằng tình yêu đôi lứa đã trở thành “duyên cớ” để cho cô gái Italia yêu đất, yêu người Bình Định (quê hương của phu quân) – yêu đất yêu người Việt Nam. Tình yêu của Elena Pucillo Truong mang màu sắc hoài cổ, và đó cũng chính là sắc màu chủ đạo của tình yêu Việt Nam. Yêu nét đẹp văn hóa, yêu những mùa qua, yêu giọt cà phê, nữ sĩ đi tìm tình yêu trong tiếng nói người xưa nơi đỉnh núi thiêng, nơi ngôi chùa cổ, qua những cuộc chuyện trò ngõ vắng, lắng nghe thanh âm mưu sinh máu thịt... “Cô gái Italia” kể chuyện rất đôn hậu, tỉ mỉ và đong tình đậm nghĩa về những “cử chỉ” đẹp trong trong đời.

Những đoản khúc ân tình hiện ra chân thực, mang nhân sinh quan nhân văn, nhân bản của người con Lạc Việt. Có thể nói Elena Pucillo Truong đã huyền hòa thẩm sâu trong điệu hồn dân tộc này, mới thể hiện được ánh nhìn bản sắc đậm đà nơi chữ nghĩa đó: “Tôi không thể nào quên cuộc gặp gỡ với bà lão bán nhang… cụ cầm bàn tay tôi ấp giữa hai tay mình… sau đó bà đặt bàn tay bà lên trái tim tôi và sau đó lên trái tim bà… Tôi đáp lại nụ cười của bà bằng một vòng ôm thân thiện và từ ngày đó tôi thường mang theo mình cái cử chỉ che chở ấy trong những lúc gặp khó khăn trong đời”.

Tiếng Việt mà Elena dùng để bộc lộ tình yêu với người Việt rất giản dị, hồn hậu mà thấm lắng sâu sắc. Hòa lẫn trong đó cái “hồn nhiên” như để “yếm thế” nỗi buồn “góc bể chân mây”, nỗi ưu uất phận người bạc lãnh bể dâu: “Đó là cảm giác tuyệt vời mà có lẽ tôi chưa bao giờ được trải nghiệm! cái cảm giác mình vô địch thật hết sức sinh động. Vô địch mà không cần chiến tích, không cần tham gia những trận tranh đua, không cần phải mang trên người chiếc mặt nạ, xa rời cái thế giới mà con người chỉ biết phán xét hay đánh giá vì vẻ ngoài, vì những thứ phô trương, sở hữu chứ không phải nhờ giá trị như mình thực sự có”.

Với giọng trung dung giữa Tự sự và trữ tình tản mạn. Có thể gọi “HẠT BỤI LÊNH ĐÊNH” là những lời tâm sự tỉnh thức khơi mạch nguồn từ “tình yêu”: Tình yêu “chàng”, rồi yêu đất, yêu người và yêu nhân loại. Tình yêu đó được xây dựng từ cốt lõi của đạo lớn/của đức hạnh rất mực Đông Phương, đã bằng cách nào đó ngẫu nhiên tương phùng với chủ thể - một người phụ nữ tóc vàng, da trắng, mắt xanh. Chị không mang trong mình dòng máu đất Phật nhưng đã sớm trở thành “đồng lõa” của thế giới “Người vẫn ngọt bùi qua muôn nỗi đắng cay” này! Và đi trong ánh sáng “tuệ nhãn”… Để rồi:

Những trang viết của Elena thấm nhuần triết lý Buddha về vô thường và vô ngã - vô sở cầu. Nhận thức được rằng mọi thứ đều mong manh, chóng vánh. Hạnh phúc, nỗi buồn, thậm chí cả ký ức. Tất cả rồi sẽ tan biến như hạt bụi trong đời “tai bay vạ gió”. Nhưng chính vì thế, chị đã học cách yêu thương ngay khi còn có thể. Đó là bước đầu giác ngộ của một tâm hồn đã từng quạnh quẽ. Một tâm hồn không bi lụy, không than van, mà biến sự mong manh thành động lực sống trọn vẹn: “Tiếng nói của một người lạ mặt đã cho tôi cái sức mạnh mà trước đây tôi cứ tưởng là mình không còn nữa. Âm thanh đó còn cho tôi biết là trên đời này tôi không còn cô độc. Nghĩa là tôi cũng có thể có một phần hạnh phúc, tôi phải tin như thế”.

Đọc “HẠT BỤI LÊNH ĐÊNH”, ta không hề tuyệt vọng. Trái lại, cảm giác bình thản, an ủi lan tỏa. Elena nhìn thẳng vào sự “tạm bợ”, “oải mục” kiếp số để đánh thức hi vọng. Biết rồi đây mình cũng sẽ tan biến. Nhưng trước khi hóa hư vô, ta muốn sống như hạt bụi trong nắng – nhỏ bé mà sáng trong. Có phải đó là điều Elena muốn nói... Là triết lý sống đẹp, khích lệ bạn đọc không buông xuôi trước sự vô thường.

Khi đặt tác phẩm trong bối cảnh văn học Việt Nam hiện đại, ta nhận thấy nó góp thêm một tiếng nói cần thiết. Văn học hôm nay đang tìm kiếm những tác phẩm có tầm vóc nhân văn, có triết lý sâu xa mà vẫn dung dị, đời thường – “… trên đường phố không thiếu những người nông dân quang gánh trên vai, chiếc nón lá trên đầu và nụ cười hiền hậu thường trực trên môi”.

“HẠT BỤI LÊNH ĐÊNH” với “dung lượng tinh thần”, không phức tạp về kết cấu, nhưng nhờ chiều sâu tư tưởng và sự đồng cảm rộng rãi, nó đã trở thành một tác phẩm đáng để đọc. Đọc để trở về với chính ta, một thế giới nội tại hoàn kết – trong sự im lặng tĩnh tại “… mở ra cánh cửa của vùng trí tuệ tiềm ẩn, không phán xét và cũng không phân biệt, chỉ đơn giản giúp ta nghe được chính ta, ngoại cảnh và kẻ khác. Đó chính là khám phá được kho tàng giống như lời Phật dạy: “Ai từ bỏ thế giới thì sẽ nghe được âm thanh của niết bàn”.

Đó là một hành trình chiêm nghiệm về thân phận, một lời nhắc nhở về sự vội vã hữu hạn của thời gian trong một đời người đồng thời giục giã yêu thương. Một lần nữa, trước sự thật: chúng ta chỉ là những hạt bụi, bé nhỏ, lênh đênh. Elena ngọt ngào cất tiếng: Nhưng cũng chính vì thế - nhỏ bé và lênh đênh mà ta càng cần yêu, cần sống, cần sẻ chia cho ngay bây dừ...

Không ồn ào, không phô trương, chân phương mà bền vững, như chính hạt bụi – nhỏ nhoi mà bất diệt, gió dập sóng vùi vẫn muôn đời đồng hiện cho cùng cái đẹp…: “Nhiều lần anh nói đùa là anh đã cưới em vì em đã dạy anh nhìn những ánh sao trên bầu trời hay lắng nghe tiếng rì rào của biển và chuyển động của thủy triều, còn em thì nói yêu anh vì sự bền bỉ, tính kiên trì và bằng cách mà chúng ra đã gần gũi và chia sẻ cùng nhau trong từng cảnh ngộ vui buồn”. Trân trọng!

Nguồn: Tuấn Trần cùng với Trần Hương Giang và 7 người khác.

​T.T

Bài viết liên quan

Xem thêm
Hoài niệm quê hương trong thơ Nguyễn Quang Thuyên
Nguyễn Quang Thuyên vốn là “dân xây dựng” - Giám đốc Vinaconex 3 Phú Thọ , quê Tam Nông, Phú Thọ. Ai từng gặp anh thời điểm hiện tại sẽ có thiện cảm bởi nụ cười có duyên, thân thiện. Ấy là Nguyễn Quang Thuyên của hôm nay, hay chí ít cũng là cảm nhận của tôi, rằng nhiều năm trước, gặp anh sẽ ngỡ anh khó tính, có sự bụi bặm phong trần của nghề nghiệp, có vẻ lạnh lùng và cảm giác khó gần. Anh là “dân ngoại đạo” nhưng đã 10 tập thơ được xuất bản. Tập thơ “Đưa em về quê nội”, NXB Hội Nhà văn 2024 của anh vừa đạt giải A của Hội Liên hiệp văn học nghệ thuật Phú Thọ (Giải thưởng hàng năm, năm 2024).
Xem thêm
Khoảng trống trong thơ đương đại
Sang giai đoạn thơ hiện đại, đặc biệt từ thời kỳ Đổi Mới (1986) đến nay, dưới ảnh hưởng của thơ tự do, thơ thị giác, thơ hậu hiện đại,… khoảng trống được vận dụng đa dạng hơn: là dấu hiệu cấu trúc, chiến lược gợi mở ý nghĩa, cũng là phương tiện giải cấu trúc câu chữ. Việc nhận diện, phân loại và giải thích cơ chế thẩm mỹ của khoảng trống vì vậy cần được đặt trong dòng chảy lịch sử rộng hơn – từ các quy phạm cổ điển đến những cách tân hiện đại – nhằm làm rõ lý do và cơ chế khiến “sự im lặng” trở thành tiếng nói quan trọng trong thơ.
Xem thêm
Triệu Kim Loan – nỗi mình bộc bạch cùng trăng
Một bài viết chân thành, giàu rung cảm của Ngô Minh Oanh về tập thơ Chữ gọi mùa trăng của Triệu Kim Loan.
Xem thêm
Phan Nhật Tiến - Thời cầm bút nói về thời cầm súng
Bài viết của Trần Hóa về tập thơ mới của Phan Nhật Tiến
Xem thêm
Nắng xanh pha hương giọt mật đầy
Văn Chương TP.HCM xin giới thiệu bài của Tuấn Trần.
Xem thêm
Cảm nhận tác phẩm “Mật ngữ đen trắng”
Bài viết của nhà thơ Huỳnh Tấn Bảo từ Bà Rịa - Vũng Tàu
Xem thêm
Nặng tình qua những miền quê
Bài viết tạo được chân dung “lữ khách thi ca” Vũ Trọng Thái
Xem thêm
Thế giới nữ tính đằm thắm và điệu nhạc tình yêu trong thơ Võ Thị Như Mai
“Nhớ anh nhiều bao nhiêu / Như thế nào là nhiều…” – những câu thơ giản dị mà đằm thắm ấy chính là nhịp điệu riêng của Võ Thị Như Mai.
Xem thêm
Bùi Minh Vũ - Buông neo hồn thơ vào biển đảo
Sau 2 tập thơ Lão ngư Kỳ Tân (2014), Biển và quê hương (2020) Bùi Minh Vũ cho ra mắt tập thơ Buông neo của (NXB Hội Nhà văn, 2024) gồm 113 bài thơ viết về đề tài biển đảo. Cảm hứng chung của tập thơ là tình cảm mến yêu, cảm phục, trăn trở và gắn bó tâm hồn với với biển đảo, với Trường Sa, Hoàng Sa, với những người lính đảo và người dân bám biển. Những tập thơ trước, Bùi Minh Vũ viết từ cảm xúc của một công dân yêu nước hướng về biển đảo với sự ngưỡng vọng. Ở tập thơ này, sau những chuyến vượt sóng ra Trường Sa, thăm đảo chìm đảo nổi, nhà thơ đã “Buông neo” hồn thơ vào biển đảo của Tổ quốc. Bài đầu của tập thơ đã thể hiện điều đó: Sóng ngọt như hoa trái lững lờ thè chiếc lưỡi/Bình minh trườn qua con chữ/Bài thơ quyết liệt buông neo/Như cột mốc đứng thẳng (Buông neo).
Xem thêm
“Chữ gọi mùa trăng” – Những thao thức của người đàn bà yêu chữ
Tại buổi ra mắt tập thơ Chữ gọi mùa trăng (23/9/2025), nhà thơ Hương Thu không có mặt, nhưng sau đó đã gửi đến một bài viết nhiều cảm xúc.
Xem thêm
Nỗi buồn đẹp qua ca khúc “Bài Thánh ca buồn”
Bài Thánh ca buồn nhưng không buồn theo lẽ thường, nỗi buồn ấy đẹp và chẳng hề mong manh, rất có thể khi nghe câu này, nhiều người không đồng cảm. Vâng, đó cũng là lẽ bình thường vì tiếp nhận văn học lý giải chuyện cảm nhận tác phẩm văn học hoặc nghệ thuật còn phụ thuộc nhiều yếu tố, trong đó có yếu tố sở thích. Và, tôi yêu thích Bài Thánh ca buồn, cả lời thơ (ca từ) cùng nhạc điệu.
Xem thêm
Viết cho “Khúc nhen chiều”– vệt khói dĩ vãng đậm màu thực tại
Khúc nhen chiều không chỉ là tập thơ đẫm màu khói sương mà còn là cuộc “truy vấn” không ngừng của Vũ Xuân Hương với chính mình và đời sống.
Xem thêm
Nguyễn Thị Thúy Hạnh - Hành trình chữ đến thế giới thơ
Hành trình thơ của Nguyễn Thị Thúy Hạnh trước hết khẳng định một tinh thần hiện sinh rõ nét. Ở đó, con người – đặc biệt là người nữ – luôn hiện diện trong trạng thái bất an, tổn thương, đồng thời mang khát vọng vượt thoát và kiếm tìm hạnh phúc. Chữ trở thành nơi lưu trú của nỗi cô đơn, đồng thời là phương tiện giúp nhân vật trữ tình phục sinh và tiếp tục hiện hữu trong một thế giới nhiều biến động, đổ vỡ.
Xem thêm
Lòng Mẹ - Mạch nguồn của “Chữ gọi mùa trăng”
Bằng trái tim giàu cảm thông, nhà thơ Phan Thanh Tâm – tác giả của 7 tập truyện ngắn và thơ thiếu nhi – đã tìm thấy ở Chữ gọi mùa trăng hình tượng người Mẹ vừa đời thường, vừa thiêng liêng.
Xem thêm
“Lời ru bão giông” – Từ cảm nhận đến vần thơ tri âm
Tập thơ Lời ru bão giông của Trần Hóa mở ra 59 câu chuyện đời đầy mất mát nhưng vẫn chan chứa ánh sáng nhân văn, niềm tin và tình yêu thương.
Xem thêm
Đến với bài thơ hay: “Chiều Ải Bắc tìm em”
Anh vẫn như nghe trong đá núi/ Âm vang rầm rập bước quân hành/ Anh vẫn như nhận ra nụ cười em/ Trong sắc hoa đào xứ sở…
Xem thêm
“Hai vệt nắng chiều” và cuộc ra ngoài tử biệt sinh ly
Với “Hai vệt nắng chiều”, Xuân Trường như đang cố níu giữ những mảng hồi quang và ông đã như thoát khỏi mình, thoát khỏi những rào cản thế tục để trải hết lòng mình, đặng làm tròn chức phận của một thi sĩ
Xem thêm
Trần Nguyệt Ánh với tập thơ Vọng núi
Theo dõi tình hình văn học mấy năm gần đây, thấy trong các nhà thơ trẻ Đăk Lăk, Trần Nguyệt Ánh có niềm đam mê, sự nỗ lực sáng tạo và tình yêu tha thiết với thơ. Chị viết đều tay, có nhiều tác phẩm thơ hay. Hành trình sáng tạo của Nguyệt Ánh cũng là hành trình tìm kiếm, khám phá, đào sâu vào bản ngã để khẳng định cái “tôi” đa tình, đa đoan và định hình một cá tính sáng tạo. Nhân Ngày Sách Việt Nam, 21/ 4/ 2022, tại Đường Sách thành phố Buôn Ma Thuột, nhà thơ Trần Nguyệt Ánh đã giới thiệu với bạn đọc hai tập thơ mới xuất bản: Miền gió say (NXB Hội Nhà văn, 2021) và Vọng núi (NXB Hội Nhà văn, 2022). Vọng núi là tập thơ thứ ba của Nguyệt Ánh, gồm 132 bài thơ 1 - 2 - 3, thể hiện nỗ lực đổi mới, trải nghiệm và sáng tạo của nhà thơ cả về nội dung cảm hứng cũng như tư duy nghệ thuật.
Xem thêm
Trúc Linh lan, nhà thơ của những thân phận đàn bà đa truân miền sông nước
Thơ ca - một thế giới thi ảnh đầy ma lực - bên cạnh sự truyền cảm sâu xa, thơ chính là sợi dây thần vô hình đầy linh động, kéo con người đứng lên từ bờ vực của vô vọng, khổ đau. Cái lạ kỳ của kẻ ăn thơ uống chữ là dù ở những khúc quanh nào của cuộc đời, họ cũng có thể tìm được một hướng đi. Dù trời có đổ lửa thì họ vẫn từ tốn tìm được cho mình một bóng râm. Và nhà thơ, không cần khua chiên gõ trống, họ lặng lẽ xới đất trồng hoa cho khu vườn nghệ thuật đầy giá trị nhân sinh của mình.
Xem thêm
Những ký tự dắt tay nhau đi về phía hoàng hôn
Sáng 23/9/2025, Nhóm “Bạn văn & Miền chữ” sẽ tổ chức ra mắt cuốn sách Chữ gọi mùa trăng của nhà thơ Triệu Kim Loan – hội viên Hội Nhà văn TP.HCM.
Xem thêm