TIN TỨC

Triệu Kim Loan - Khúc độc thoại xanh của hồng gai

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2025-11-04 09:29:36
mail facebook google pos stwis
442 lượt xem

"Chữ gọi mùa trăng" - Tập thơ thứ 7 đánh dấu chặng đường chín muồi của nhà thơ Triệu Kim Loan, đã được ra mắt vào sáng 23/9/2025 tại không gian ấm cúng của nhà thơ Trần Mai Hường, do Nhóm "Bạn văn & Miền chữ" tổ chức. Bài viết sâu sắc dưới đây của nhà văn Kao Sơn gửi từ Hà Nội chính là món quà tinh thần ý nghĩa được dành tặng cho tác giả trong một ngày đáng nhớ. Văn chương TP. HCM xin trân trọng chia sẻ cùng bạn đọc bài viết này.

Nhóm "Bạn văn & Miền chữ" tặng hoa nhà thơ Triệu Kim Loan.
 

KAO SƠN

Trong vài năm trở lại đây, nhà thơ - nhà giáo Triệu Kim Loan liên tục ghi dấu ấn với những thành công trên hành trình sáng tạo. Chị xuất hiện đều đặn trên nhiều lĩnh vực, thể loại, như một cách thỏa mãn đam mê, tự kiểm nghiệm và khẳng định khả năng của chính mình.

Đọc Triệu Kim Loan gần đây, ta nhận ra rõ nỗ lực thoát khỏi những khuôn mẫu khô cứng một thời gắn với lối dạy văn trong nhà trường. Thơ chị vẫn nồng nàn, đỏ thắm tựa đóa hồng, nhưng đã xuất hiện nhiều hơn những liên tưởng mới mẻ – tựa những nốt gai sần cần thiết trên cuống hoa. Cảm xúc trực diện được thể hiện qua lăng kính thơ ca khiến ngôn từ biến hóa, bay bổng, đôi khi hư ảo mà vẫn đạt được độ chính xác đáng ngạc nhiên. Những cảm nhận trực diện dần nhường chỗ cho những hình tượng được chọn lọc, đa diện hơn. Sự biến ảo của câu chữ, hình ảnh, thậm chí những xô lệch trong kết cấu và cách tiếp cận ngày càng xuất hiện dày đặc. Minh chứng rõ nét nhất là sự ra mắt của tập thơ mới: “Chữ gọi mùa trăng”.

“Chữ gọi mùa trăng” – một gợi mở về hình tượng, một tuyên ngôn về luật chơi. Con chữ ở đây có hình hài và lối thể hiện vừa đa dạng, vừa riêng biệt. Chữ gọi mùa trăng, chữ thay cho người, nơi chủ thể và khách thể hóa thân, đổi ngôi. Tiếng nói một thời thoát ra từ lồng ngực, bay vào khoảng không, va vào vách núi rồi dội ngược trở lại. Độ vang vọng của những “âm thanh” cất lên từ chữ tùy thuộc vào tâm thế, tình cảm của tác giả. Đó có thể là hoài niệm về mối tình đầu, những vô thường trong cuộc tình dài, hoặc đơn giản chỉ là một run rẩy bất chợt của hiện tại, một thảng thốt trước sự đổi thay của cuộc sống. Và Trăng – đối tác được lựa chọn để gửi gắm và sẻ chia.

Người đọc dễ dàng nhận ra sự hiện diện của Trăng qua những ngôn từ, hình tượng vừa thực vừa huyền ảo. Khi thật như chính nó với những ký tự mặc định, khi lại ảo như “bóng chữ động chân cầu”, tựa ánh trăng đầu ngọn sóng: “Những cơn sóng cuộc người cứ xô rồi vỡ/ Em neo thầm mắt gió tự mình xanh”. Đồi núi, những uốn lượn trập trùng, những xanh non cùng khô cằn hiện diện như ẩn dụ về kiếp người với bao đổ vỡ, đổi thay vô định.

Không chỉ khai mở ngoại cảnh, thơ chị còn mang đến những góc nhìn mới trong những chủ đề quen thuộc, vốn “vô hình vô ảnh” như tình yêu: “Một vầng sáng nhẹ như tơ/ Họa mi xếp cánh tròn mơ đợi rằm”. Đôi khi, ta thấy mình như bông cúc Họa Mi bé nhỏ trong giá rét, dịu dàng khép cánh đợi trăng, chờ heo may để bung lụa. Và đâu đó vang lên những câu thơ rất đẹp: “Mơ một ngày nắng hát/ Thảo nguyên xanh trổ hoa/ Trầu xanh và vôi trắng/ Gọi tên ai - ngọc ngà...” (Mơ một ngày nắng hát). Cùng với đó là những run rẩy, bất trắc đặc trưng của tình: “Thương dốc chiều/ Bóng núi/ Một xa xôi…”.

Biển, sóng, bờ và những biến động vô thường của đại dương cũng được Triệu Kim Loan mượn làm hình tượng để nói hộ nỗi nhớ cồn cào trong lòng, cùng những giằng xé rất thực giữa khát khao chiếm hữu và buông xả: “Hẹn rồi người có về không/ Biển đang dựng sóng dõi trông bóng người”. Thơ là thế, không nhất thiết phải trực diện. Bằng thủ pháp hoán dụ, những “em - anh”, những chênh vênh đổ vỡ, những mong nhớ, hy vọng, thậm chí cả hờn trách… vẫn hiện ra qua những hình ảnh, sự vật tưởng chừng không liên quan. Nhưng chỉ cần thế là đủ: “Hoàng hôn vừa góa bụa/ Đêm đã trở mình say”.

Có một sự đổi mới trong cách sử dụng hình tượng, bằng việc nhập hồn vào chính những hình tượng ấy, biến chúng thành sinh linh vừa động vừa ảo: “Biển cuồng nhiệt xô bờ/ Muốn buộc gió để lưu hương nụ nhớ/ Lại hoang mang/ Nụ nhớ có lưu đày…” (Nụ nhớ). Và đâu đó một câu hỏi khẽ vang lên: “Ai người có lỗi – Ai mơ?/ Dấu son năm tháng có mờ trong nhau?” – chỉ hỏi vậy thôi, dường như chẳng chờ lời đáp, bởi có những lúc trong đời, ta chẳng muốn nghe câu trả lời:

Giọt trầm thả giữa mù khơi
Lòng em lá ngón đắng cời đêm loang
Thanh xuân dâng trọn đêm Ngoan
Dại yêu đau mới thắt ngang tim mình
(Lỗi hẹn)

Vẫn dịu dàng, đầy nữ tính, không nổi loạn, không hờn ghen. Chỉ là “em - anh” cùng chút kỷ niệm được chọn lọc, lưu giữ. Nhưng ẩn sâu trong đó, người đọc nhận ra những cất giấu, dồn nén được thể hiện bằng những câu lục bát tài hoa.

Triệu Kim Loan vốn là một nhà giáo. Sự gắn bó với trường lớp, học trò là một phần quan trọng trong cuộc đời chị, và điều đó hiện diện rõ nét trong thơ. Đó không chỉ là những kỷ niệm đẹp, mà đôi khi cả những trăn trở, hụt hẫng: “Tôi giờ như đã nhạt tôi/ Bảng đen đang vẽ những lời phân vân...”, “Mùa thi về sấp ngửa/ Giữa khuya cơn gió lùa”, “Một ngày lật giở từng chương/ Thấy mình tóc bạc, thấy đường còn xa…”. Phải là một giáo viên gắn bó và yêu nghề sâu sắc, mới có được những chi tiết thơ nhỏ mà thật, thảng thốt đến vậy. Nhưng sau tất cả, tình cảm với trường, với trò vẫn ngày một đằm thắm, ẩn sâu hơn. Những kỷ niệm thời áo trắng chưa vướng bụi trần vẫn tồn tại nguyên vẹn. Có cảm giác chị không làm thơ về nó, mà chỉ đơn giản nhặt từ ký ức những cánh phượng ngày xưa ép trong trang vở, giờ lấy ra làm tươi hồng lại, thổi bùng lên đốm lửa nhỏ năm nào: “Giọt nắng nào run rẩy/ Ép vàng tuổi em trăng/ Em buông lơi mái tóc/ Đợi nguyệt lên tròn rằm…”, “Em đi tìm chiếc lá/ Gói cái nhìn chao nghiêng…” (Góc nhớ). Thật và ảo – thật như đã từng cầm trên tay, ảo như ký ức về một chiếc lá bay vô định.

Cũng với tư cách một cô giáo, một người mẹ, Triệu Kim Loan đã nấc nghẹn khi viết về Làng Nủ, về những cái chết đau thương của học sinh trong cơn bão khốc liệt:

“Mẹ ơi! Mẹ ơi!
Con nằm trong đất
Mẹ ở đâu rồi
Nhà mình cũng mất”

“Con nằm trong đất
Sâu lắm mẹ ơi
Ước gì cỏ mật
Nâng con lên trời…”
(Làng Nủ)

Trong “Chữ gọi mùa trăng”, người đàn bà làm thơ còn dành một góc riêng cho những số phận phụ nữ. Có người mỏng manh như sương, có người kiên cường như đá, có người hạnh phúc, có người cô độc chống chọi với giông bão cuộc đời. Không phán xét, chỉ thấu cảm và sẻ chia bằng tấm lòng bao dung, nhân hậu, như trong những câu thơ viết về người phụ nữ từng lầm lỡ:

“Một đời tròn sóng vỗ chơi
Mặt trời treo ngược phía đời lấm lem
Em như cây đàn bỏ quên
Cứ ai vuốt phải là mềm ngân rung
Sóng yêu thương vỗ lưng chừng
Em cam chịu/ Em đã từng thương em”
(Thương em)

Hay trong bài “Trớ trêu” viết về thân phận người đàn bà bị phản bội, nhưng vẫn đầy nghị lực nuôi con khôn lớn:

“Đêm nhòa gối lệ bình minh
Đếm ngày trên nỗi lặng thinh đợi ngày
Đàn con khôn lớn tuổi đầy
Bồ hòn hóa ngọt mẹ dày dặn vui”

Với mỗi nhà thơ, bên cạnh những trang viết bộc bạch cảm xúc riêng tư, luôn có mảng đề tài xã hội không thể bỏ qua – nơi thể hiện ý thức công dân với Nhân dân, Tổ quốc. Hầu như tập thơ nào của Triệu Kim Loan cũng có chùm bài về quê hương, được viết bằng cả tâm hồn và trách nhiệm. Điều đáng chú ý là cách tiếp cận mỗi lúc một khác, biên độ cảm xúc được mở rộng, cách lựa chọn và xử lý tứ thơ không lặp lại. Ở tập này, ngay cả cách biểu đạt cũng mới mẻ. Không còn những thương nhớ vu vơ, chung chung hay kỷ niệm mù xa, thơ chị về quê hương chứa đầy hình ảnh hiện thực, nhiều khi như những ghi chép sống động. Chất “hôm nay” hiện lên đậm nét: “Quê hương tôi/ Một ngày bão nổi/ Cầu sập, nhà trôi, núi lở, đất vùi…” (Nghẹn ngào đêm), “Thuyền nan bão quật tơi bời/ Nửa đêm lập cập mẹ soi lửa tìm/ Gọi cha buốt nghẹn buồng tim” (Mắt bão). Không còn chỉ là thơ, đó là những phóng sự, những thước phim bằng chữ – chân thực và rát buốt.

Đặc biệt, có lẽ ấn tượng nhất trong tập là những bài viết về đề tài chiến tranh bảo vệ Tổ quốc. Như một sử gia, chị bình tĩnh hướng cái nhìn vào sâu bên trong sự kiện để tìm ra cái giá thực sự của chiến thắng – cái giá lớn nhất và đau thương nhất là sự hy sinh về con người. Tiếng thơ của chị giờ là tiếng nói của người trong cuộc: là cô thanh niên xung phong giữa “Rừng Trường Sơn bom chan bão lửa”, đã lỡ hẹn cùng anh lính trẻ lái xe để “Tuổi hai mươi cùng cỏ hoa rực nắng/ Cho núi rừng, cho Tổ quốc linh thiêng” (Tìm em ngày thống nhất). Là “Người đàn bà đợi chồng/ Hàng đêm/ Hóa đá”, là “Nước mắt/ Đọng trong lúm đồng tiền một thời son trẻ/ Giờ kiệt khô hóa vết đồi mồi” (Đợi anh). Và nhói buốt đến tận cùng là hình ảnh người mẹ giữa ngày cờ hoa, một mình lặn lội vào chiến trường xa tìm con:

“Mênh mông rừng bát ngát cây
Mẹ tìm con giữa núi dầy đất son
Chỉ nghe tiếng lá cuộn tròn
Chỉ nghe tiếng suối chảy mòn xa xưa”
(Mẹ cầu hương linh)

Hay những câu thơ viết khi thăm nhà tù Côn Đảo, nơi quá khứ hiện về ám ảnh:

“Biển đêm gầm réo, sóng vỗ vào xiềng xích
Hòn đảo mồ côi trăng khóc phía chân trời
Những vách đá còn sẫm màu máu đỏ
Tiếng gông cùm vọng từ chốn xa xôi”
(Thăm nhà tù Côn Đảo)

Và thật xúc động khi đọc những dòng về các liệt sĩ ở nghĩa trang Trường Sơn:

“Nơi các anh nằm sương khói bao dung
Cứ đêm đêm trăng thì thầm kể chuyện
Những đêm trắng hành quân thần tốc
Những trận giáp lá cà xương máu đổi tự do”
…(Thắp nắng lòng người)

Rõ ràng, để viết được những câu thơ như vậy, cần một sự hóa thân đến triệt để. Không bi thương hóa, không thể là nỗi đau vờ: “Những người lính đã hòa với cỏ xanh. Hòa với cỏ cây sau những ngày khốc liệt. Gió vẫn ngắt xanh trên đồi A1. Trùng điệp núi rừng mây trắng mênh mang” (Những người nằm lại đồi A1). Phải chăng, sự hy sinh ấy đã được đền đắp? Hay đó là một khẳng định cho chân lý bất tử của sự sống?!

Hoa hồng vẫn đỏ, vẫn thơm và vẫn có gai. Có lẽ cuộc sống cần đến cả hai.

Với 7 tập thơ đã ra mắt, “Chữ gọi mùa trăng” là một bước tiến mới. Đây không phải lúc để luận bình về nội dung, chủ đề hay kỹ thuật, càng không phải để nói đến được - mất trong một tập thơ riêng lẻ. Mỗi tập thơ, một khi đã xuất bản, sẽ có cuộc sống riêng, độc lập, thoát ly khỏi sự quản lý của tác giả và có tiếng nói riêng để kết giao với bạn đọc. Còn với tác giả, mỗi tập thơ mới là một sự tái sinh. Xin lại được tiếp tục đợi chờ và hy vọng.

Sài Gòn, tháng 8 năm 2025
K.S.

Bài viết liên quan

Xem thêm
Nỗi buồn chiến tranh - và cách nhìn về việc đổi mới dạy học văn trong nhà trường
Vừa qua, tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh của nhà văn Bảo Ninh được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch vinh danh là một trong 50 tác phẩm tiêu biểu của văn học Việt Nam 50 năm qua đã tạo nên nhiều tranh luận trái chiều. Nhiều ý kiến cũng đã đặt ra vấn đề là có nên đưa tác phẩm này vào sách giáo khoa Chương trình Giáo dục phổ thông 2018 hay không. Là những người đã từng học văn qua nhiều lần thay sách và là những người đang dạy môn văn nhiều năm trong nhà trường phổ thông, chúng tôi có một số suy nghĩ trong cách nhìn về việc đổi mới dạy học văn trong nhà trường về Nỗi buồn chiến tranh với tính chất là “những người trong cuộc”.
Xem thêm
Văn học đương đại Trung Quốc từ lăng kính các giải thưởng Hội Nhà văn (2015 - 2025)
Nhìn chung, hệ thống giải thưởng Hội Nhà văn Trung Quốc giai đoạn 2015 - 2025 đã làm nổi bật vai trò “điều hướng” và “chuẩn hóa” của mình trong việc thiết lập các tiêu chí thẩm mĩ, định hình phong cách sáng tác và thúc đẩy tương tác giữa văn học - học thuật - công chúng. Điều này cho thấy một mô hình văn học với định hướng chiến lược - kết hợp giữa nhu cầu nghệ thuật, định hướng chính sách và cơ chế truyền thông - đang ngày càng chiếm vị trí trung tâm trong đời sống văn hóa đương đại Trung Quốc.
Xem thêm
Chân dung tâm hồn của nhà thơ Nguyên Bình qua “Mật ngữ trắng đen”
“Mật ngữ trắng đen” (NXB Thuận Hóa, 2025) của nhà thơ Nguyên Bình, hội viên Hội Nhà văn TP.HCM, là một thế giới thi ca đầy suy tưởng, nơi ánh sáng và bóng tối, mộng mị và hiện thực, nỗi đau và niềm yêu thương luôn song hành, soi chiếu vào nhau. Tựa như cái tên Mật ngữ trắng đen, thơ Nguyên Bình gợi cảm giác về sự đối lập, nhưng không phải để phân định ranh giới thiện ác, buồn vui, mà để khai mở một cõi cảm xúc và nhận thức đa chiều về tình yêu, cuộc sống, con người. Ở mỗi bài thơ, tập thơ của anh đều ẩn chứa một lớp nghĩa nhân sinh sâu sắc.
Xem thêm
Quan điểm của Nguyễn Đình Chiểu đối với Phật giáo
Nguyễn Đình Chiểu (1822-1888) là một nhà Nho tuy đỗ đạt không cao nhưng cụ là một nhà Nho đức nghiệp, một con người trong ba tư cách: một nhà thơ, một thầy giáo và một thầy thuốc suốt đời vì dân vì nước.
Xem thêm
Thơ Nguyễn Bình Phương – Tiểu luận của Thiên Sơn
Việc làm thơ của Nguyễn Bình Phương như một sự bừng lóe của linh giác. Mỗi lần cầm bút viết là khám phá cái thế giới lạ lùng, huyền bí như thế giới của giấc mơ. Mà làm thơ, như anh, chính là đang theo đuổi những giấc mơ. Như bước vào một cảnh giới kỳ lạ, với cách nhìn, cảnh cảm và cách nghĩ khác, xa lạ với hầu hết mọi người.
Xem thêm
Văn học và dân tộc như một vấn đề học thuật
Kết nối ngôn ngữ, văn học với sự tồn tại một dân tộc đã là một thực hành phổ biến trong đời sống tri thức ở châu Âu từ nửa đầu thế kỉ XVIII. Một dân tộc là lí tưởng khi nó thống nhất tất cả những người nói cùng một ngôn ngữ trong một lãnh thổ chung, từ đó tạo thành một quốc gia - dân tộc. Văn học, với tư cách là hiện thân rõ ràng và lâu đời nhất của ngôn ngữ một dân tộc, có vai trò như là yếu tố ràng buộc và thống nhất. Nhà phê bình văn học Hoa Kì René Wellek viết: “Văn học vào thế kỉ XVIII bắt đầu được cảm thấy như là tài sản quốc gia, như là một sự thổ lộ tâm trí dân tộc, như là một phương tiện cho quá trình tự xác định của dân tộc”(1).
Xem thêm
Nhà văn Thomas Mann: Bậc thầy của mâu thuẫn
Xuất bản lần đầu vào năm 1924, Núi thần nhanh chóng trở thành cuốn sách bán chạy và được cho là tiểu thuyết tiếng Đức có ảnh hưởng bậc nhất thế kỉ 20. Nhưng ít ai biết nó được viết ra trong sự gián đoạn của chiến tranh và thay đổi của thời đại.
Xem thêm
“Những ngọn gió biên cương” - Khúc sử thi đi qua căn bếp có mùi nhang
Bài đăng trên Tạp chí Diễn đàn Văn nghệ Việt Nam, số 12/2025.
Xem thêm
Ngọn gió chiều thổi qua “Nắng dậy thì”
Dòng thời gian sáng, trưa, chiều, tối đã chảy vào văn thơ bao thời theo cách riêng và theo cái nhìn của mỗi người cầm bút. Nguyễn Ngọc Hạnh đã thả cách nhìn về phía thời gian qua những sáng tác của ông. Thâm nhập vào không gian thơ trong Nắng dậy thì*, bạn đọc sẽ nhận thấy cảm thức thời gian của một thi sĩ ở tuổi đang chiều.
Xem thêm
Văn chương Nobel và thông điệp nhân văn
“Không chỉ ngày nay loài người mới khốn khổ? Chúng ta luôn luôn khốn khổ. Sự khốn khổ gần như đã trở thành bản chất của con người (Osho, Chính trực, Phi Mai dịch, Nxb Lao động, 2022, tr.14). Thế giới ngày càng bất an, con người ngày càng mỏng mảnh. Sức chống cự của con người giảm thiểu trước quá nhiều biến động: chiến tranh, dịch bệnh, thiên tai; đứt gãy cộng đồng, sự đơn độc, cái chết. Vì con người, dòng văn học chấn thương ra đời. Cũng vì con người, xu hướng văn học chữa lành hình thành vào thế kỉ XXI.
Xem thêm
Những nét đẹp văn hóa truyền thống Việt Nam trong “Mùa lá rụng trong vườn” của Ma Văn Kháng
Trong hành trình trở về cội nguồn, Ma Văn Kháng đã dựng nên nhiều chân dung cao đẹp tiêu biểu cho truyền thống ân nghĩa thuỷ chung của dân tộc. Nhưng nổi bật giữa bản đồng ca trong trẻo ấy là nhân vật chị Hoài - một con người coi “cái tình, cái nghĩa” là quý nhất. Hình ảnh chị Hoài trở về thăm và ăn tết với gia đình chồng cũ vào chiều ba mươi tết đã gây xúc động lòng người, để lại nhiều tình cảm đẹp đẽ cho bao thế hệ độc giả.
Xem thêm
Đọc ‘Bão’ – Ánh sáng nhân tâm giữa cơn bão thời cuộc
Tiểu thuyết Bão của PGS.TS, nhà văn Nguyễn Đức Hạnh được nhà văn Phan Đình Minh tiếp cận trên cả ba phương diện: nội dung xã hội, nghệ thuật tự sự và chiều sâu nhân văn.
Xem thêm
Khơi thông điểm nghẽn, đổi mới tư duy và cơ chế để văn học nghệ thuật phát triển
Văn học nghệ thuật luôn giữ vị trí đặc biệt trong tiến trình phát triển của đất nước, là nền tảng tinh thần vững chắc cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Xem thêm
Hạt gạo tháng Giêng – Nỗi nhớ xuân từ những phòng trọ xa quê
Trong mạch thơ viết về mùa xuân, nhiều thi sĩ đã chọn gam màu tươi sáng, ăm ắp hội hè và sum họp. Nhưng với nhà thơ Xuân Trường, mùa xuân trong bài “Hạt gạo tháng Giêng” lại mang sắc điệu trầm buồn, thấm đẫm nỗi xa quê của những phận người lao động nghèo nơi đô thị.
Xem thêm
Hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa dân tộc trên quê hương Đất Tổ
Phú Thọ - Đất Tổ Vua Hùng là miền đất cội nguồn của dân tộc Việt Nam, là nơi gắn với tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương và nhiều di sản văn hoá đặc sắc. Bởi thế, hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa dân tộc trên quê hương Đất Tổ là việc làm hết sức có ý nghĩa, luôn được Đảng, chính quyền các cấp, đặc biệt là cấp tỉnh quan tâm.
Xem thêm
Tìm hiểu đặc trưng truyện ngắn Nam Cao dưới góc nhìn thi pháp hiện đại
Khi đọc truyện ngắn hiện đại, điều nhiều người quan tâm là yếu tố nào làm nên sự khác biệt giữa các tác giả. Thực ra không phải chỉ ở đề tài, chủ đề, nội dung tư tưởng, ngôn ngữ hay bố cục, kết cấu tác phẩm..., mà là ở giọng văn/giọng điệu mới chủ yếu làm nên sự khu biệt về phong cách tác giả.
Xem thêm
Julio Cortázar và tập truyện ngắn bị “bỏ quên”
Mới đây, A Certain Lucas đã tái xuất sau nhiều thập kỉ, mở ra cánh cửa khám phá nhà văn vĩ đại người Argentina Julio Cortázar cũng như ảnh hưởng vượt khỏi châu Mĩ của cây bút này.
Xem thêm
Đọc tác phẩm “Biên bản thặng dư” của Phùng Hiệu dưới góc nhìn từ đời thường
Bài viết của nhà văn Nguyên Bình tác phẩm “Biên bản thặng dư” của Phùng Hiệu
Xem thêm