TIN TỨC

Triệu Kim Loan - Khúc độc thoại xanh của hồng gai

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2025-11-04 09:29:36
mail facebook google pos stwis
326 lượt xem

"Chữ gọi mùa trăng" - Tập thơ thứ 7 đánh dấu chặng đường chín muồi của nhà thơ Triệu Kim Loan, đã được ra mắt vào sáng 23/9/2025 tại không gian ấm cúng của nhà thơ Trần Mai Hường, do Nhóm "Bạn văn & Miền chữ" tổ chức. Bài viết sâu sắc dưới đây của nhà văn Kao Sơn gửi từ Hà Nội chính là món quà tinh thần ý nghĩa được dành tặng cho tác giả trong một ngày đáng nhớ. Văn chương TP. HCM xin trân trọng chia sẻ cùng bạn đọc bài viết này.

Nhóm "Bạn văn & Miền chữ" tặng hoa nhà thơ Triệu Kim Loan.
 

KAO SƠN

Trong vài năm trở lại đây, nhà thơ - nhà giáo Triệu Kim Loan liên tục ghi dấu ấn với những thành công trên hành trình sáng tạo. Chị xuất hiện đều đặn trên nhiều lĩnh vực, thể loại, như một cách thỏa mãn đam mê, tự kiểm nghiệm và khẳng định khả năng của chính mình.

Đọc Triệu Kim Loan gần đây, ta nhận ra rõ nỗ lực thoát khỏi những khuôn mẫu khô cứng một thời gắn với lối dạy văn trong nhà trường. Thơ chị vẫn nồng nàn, đỏ thắm tựa đóa hồng, nhưng đã xuất hiện nhiều hơn những liên tưởng mới mẻ – tựa những nốt gai sần cần thiết trên cuống hoa. Cảm xúc trực diện được thể hiện qua lăng kính thơ ca khiến ngôn từ biến hóa, bay bổng, đôi khi hư ảo mà vẫn đạt được độ chính xác đáng ngạc nhiên. Những cảm nhận trực diện dần nhường chỗ cho những hình tượng được chọn lọc, đa diện hơn. Sự biến ảo của câu chữ, hình ảnh, thậm chí những xô lệch trong kết cấu và cách tiếp cận ngày càng xuất hiện dày đặc. Minh chứng rõ nét nhất là sự ra mắt của tập thơ mới: “Chữ gọi mùa trăng”.

“Chữ gọi mùa trăng” – một gợi mở về hình tượng, một tuyên ngôn về luật chơi. Con chữ ở đây có hình hài và lối thể hiện vừa đa dạng, vừa riêng biệt. Chữ gọi mùa trăng, chữ thay cho người, nơi chủ thể và khách thể hóa thân, đổi ngôi. Tiếng nói một thời thoát ra từ lồng ngực, bay vào khoảng không, va vào vách núi rồi dội ngược trở lại. Độ vang vọng của những “âm thanh” cất lên từ chữ tùy thuộc vào tâm thế, tình cảm của tác giả. Đó có thể là hoài niệm về mối tình đầu, những vô thường trong cuộc tình dài, hoặc đơn giản chỉ là một run rẩy bất chợt của hiện tại, một thảng thốt trước sự đổi thay của cuộc sống. Và Trăng – đối tác được lựa chọn để gửi gắm và sẻ chia.

Người đọc dễ dàng nhận ra sự hiện diện của Trăng qua những ngôn từ, hình tượng vừa thực vừa huyền ảo. Khi thật như chính nó với những ký tự mặc định, khi lại ảo như “bóng chữ động chân cầu”, tựa ánh trăng đầu ngọn sóng: “Những cơn sóng cuộc người cứ xô rồi vỡ/ Em neo thầm mắt gió tự mình xanh”. Đồi núi, những uốn lượn trập trùng, những xanh non cùng khô cằn hiện diện như ẩn dụ về kiếp người với bao đổ vỡ, đổi thay vô định.

Không chỉ khai mở ngoại cảnh, thơ chị còn mang đến những góc nhìn mới trong những chủ đề quen thuộc, vốn “vô hình vô ảnh” như tình yêu: “Một vầng sáng nhẹ như tơ/ Họa mi xếp cánh tròn mơ đợi rằm”. Đôi khi, ta thấy mình như bông cúc Họa Mi bé nhỏ trong giá rét, dịu dàng khép cánh đợi trăng, chờ heo may để bung lụa. Và đâu đó vang lên những câu thơ rất đẹp: “Mơ một ngày nắng hát/ Thảo nguyên xanh trổ hoa/ Trầu xanh và vôi trắng/ Gọi tên ai - ngọc ngà...” (Mơ một ngày nắng hát). Cùng với đó là những run rẩy, bất trắc đặc trưng của tình: “Thương dốc chiều/ Bóng núi/ Một xa xôi…”.

Biển, sóng, bờ và những biến động vô thường của đại dương cũng được Triệu Kim Loan mượn làm hình tượng để nói hộ nỗi nhớ cồn cào trong lòng, cùng những giằng xé rất thực giữa khát khao chiếm hữu và buông xả: “Hẹn rồi người có về không/ Biển đang dựng sóng dõi trông bóng người”. Thơ là thế, không nhất thiết phải trực diện. Bằng thủ pháp hoán dụ, những “em - anh”, những chênh vênh đổ vỡ, những mong nhớ, hy vọng, thậm chí cả hờn trách… vẫn hiện ra qua những hình ảnh, sự vật tưởng chừng không liên quan. Nhưng chỉ cần thế là đủ: “Hoàng hôn vừa góa bụa/ Đêm đã trở mình say”.

Có một sự đổi mới trong cách sử dụng hình tượng, bằng việc nhập hồn vào chính những hình tượng ấy, biến chúng thành sinh linh vừa động vừa ảo: “Biển cuồng nhiệt xô bờ/ Muốn buộc gió để lưu hương nụ nhớ/ Lại hoang mang/ Nụ nhớ có lưu đày…” (Nụ nhớ). Và đâu đó một câu hỏi khẽ vang lên: “Ai người có lỗi – Ai mơ?/ Dấu son năm tháng có mờ trong nhau?” – chỉ hỏi vậy thôi, dường như chẳng chờ lời đáp, bởi có những lúc trong đời, ta chẳng muốn nghe câu trả lời:

Giọt trầm thả giữa mù khơi
Lòng em lá ngón đắng cời đêm loang
Thanh xuân dâng trọn đêm Ngoan
Dại yêu đau mới thắt ngang tim mình
(Lỗi hẹn)

Vẫn dịu dàng, đầy nữ tính, không nổi loạn, không hờn ghen. Chỉ là “em - anh” cùng chút kỷ niệm được chọn lọc, lưu giữ. Nhưng ẩn sâu trong đó, người đọc nhận ra những cất giấu, dồn nén được thể hiện bằng những câu lục bát tài hoa.

Triệu Kim Loan vốn là một nhà giáo. Sự gắn bó với trường lớp, học trò là một phần quan trọng trong cuộc đời chị, và điều đó hiện diện rõ nét trong thơ. Đó không chỉ là những kỷ niệm đẹp, mà đôi khi cả những trăn trở, hụt hẫng: “Tôi giờ như đã nhạt tôi/ Bảng đen đang vẽ những lời phân vân...”, “Mùa thi về sấp ngửa/ Giữa khuya cơn gió lùa”, “Một ngày lật giở từng chương/ Thấy mình tóc bạc, thấy đường còn xa…”. Phải là một giáo viên gắn bó và yêu nghề sâu sắc, mới có được những chi tiết thơ nhỏ mà thật, thảng thốt đến vậy. Nhưng sau tất cả, tình cảm với trường, với trò vẫn ngày một đằm thắm, ẩn sâu hơn. Những kỷ niệm thời áo trắng chưa vướng bụi trần vẫn tồn tại nguyên vẹn. Có cảm giác chị không làm thơ về nó, mà chỉ đơn giản nhặt từ ký ức những cánh phượng ngày xưa ép trong trang vở, giờ lấy ra làm tươi hồng lại, thổi bùng lên đốm lửa nhỏ năm nào: “Giọt nắng nào run rẩy/ Ép vàng tuổi em trăng/ Em buông lơi mái tóc/ Đợi nguyệt lên tròn rằm…”, “Em đi tìm chiếc lá/ Gói cái nhìn chao nghiêng…” (Góc nhớ). Thật và ảo – thật như đã từng cầm trên tay, ảo như ký ức về một chiếc lá bay vô định.

Cũng với tư cách một cô giáo, một người mẹ, Triệu Kim Loan đã nấc nghẹn khi viết về Làng Nủ, về những cái chết đau thương của học sinh trong cơn bão khốc liệt:

“Mẹ ơi! Mẹ ơi!
Con nằm trong đất
Mẹ ở đâu rồi
Nhà mình cũng mất”

“Con nằm trong đất
Sâu lắm mẹ ơi
Ước gì cỏ mật
Nâng con lên trời…”
(Làng Nủ)

Trong “Chữ gọi mùa trăng”, người đàn bà làm thơ còn dành một góc riêng cho những số phận phụ nữ. Có người mỏng manh như sương, có người kiên cường như đá, có người hạnh phúc, có người cô độc chống chọi với giông bão cuộc đời. Không phán xét, chỉ thấu cảm và sẻ chia bằng tấm lòng bao dung, nhân hậu, như trong những câu thơ viết về người phụ nữ từng lầm lỡ:

“Một đời tròn sóng vỗ chơi
Mặt trời treo ngược phía đời lấm lem
Em như cây đàn bỏ quên
Cứ ai vuốt phải là mềm ngân rung
Sóng yêu thương vỗ lưng chừng
Em cam chịu/ Em đã từng thương em”
(Thương em)

Hay trong bài “Trớ trêu” viết về thân phận người đàn bà bị phản bội, nhưng vẫn đầy nghị lực nuôi con khôn lớn:

“Đêm nhòa gối lệ bình minh
Đếm ngày trên nỗi lặng thinh đợi ngày
Đàn con khôn lớn tuổi đầy
Bồ hòn hóa ngọt mẹ dày dặn vui”

Với mỗi nhà thơ, bên cạnh những trang viết bộc bạch cảm xúc riêng tư, luôn có mảng đề tài xã hội không thể bỏ qua – nơi thể hiện ý thức công dân với Nhân dân, Tổ quốc. Hầu như tập thơ nào của Triệu Kim Loan cũng có chùm bài về quê hương, được viết bằng cả tâm hồn và trách nhiệm. Điều đáng chú ý là cách tiếp cận mỗi lúc một khác, biên độ cảm xúc được mở rộng, cách lựa chọn và xử lý tứ thơ không lặp lại. Ở tập này, ngay cả cách biểu đạt cũng mới mẻ. Không còn những thương nhớ vu vơ, chung chung hay kỷ niệm mù xa, thơ chị về quê hương chứa đầy hình ảnh hiện thực, nhiều khi như những ghi chép sống động. Chất “hôm nay” hiện lên đậm nét: “Quê hương tôi/ Một ngày bão nổi/ Cầu sập, nhà trôi, núi lở, đất vùi…” (Nghẹn ngào đêm), “Thuyền nan bão quật tơi bời/ Nửa đêm lập cập mẹ soi lửa tìm/ Gọi cha buốt nghẹn buồng tim” (Mắt bão). Không còn chỉ là thơ, đó là những phóng sự, những thước phim bằng chữ – chân thực và rát buốt.

Đặc biệt, có lẽ ấn tượng nhất trong tập là những bài viết về đề tài chiến tranh bảo vệ Tổ quốc. Như một sử gia, chị bình tĩnh hướng cái nhìn vào sâu bên trong sự kiện để tìm ra cái giá thực sự của chiến thắng – cái giá lớn nhất và đau thương nhất là sự hy sinh về con người. Tiếng thơ của chị giờ là tiếng nói của người trong cuộc: là cô thanh niên xung phong giữa “Rừng Trường Sơn bom chan bão lửa”, đã lỡ hẹn cùng anh lính trẻ lái xe để “Tuổi hai mươi cùng cỏ hoa rực nắng/ Cho núi rừng, cho Tổ quốc linh thiêng” (Tìm em ngày thống nhất). Là “Người đàn bà đợi chồng/ Hàng đêm/ Hóa đá”, là “Nước mắt/ Đọng trong lúm đồng tiền một thời son trẻ/ Giờ kiệt khô hóa vết đồi mồi” (Đợi anh). Và nhói buốt đến tận cùng là hình ảnh người mẹ giữa ngày cờ hoa, một mình lặn lội vào chiến trường xa tìm con:

“Mênh mông rừng bát ngát cây
Mẹ tìm con giữa núi dầy đất son
Chỉ nghe tiếng lá cuộn tròn
Chỉ nghe tiếng suối chảy mòn xa xưa”
(Mẹ cầu hương linh)

Hay những câu thơ viết khi thăm nhà tù Côn Đảo, nơi quá khứ hiện về ám ảnh:

“Biển đêm gầm réo, sóng vỗ vào xiềng xích
Hòn đảo mồ côi trăng khóc phía chân trời
Những vách đá còn sẫm màu máu đỏ
Tiếng gông cùm vọng từ chốn xa xôi”
(Thăm nhà tù Côn Đảo)

Và thật xúc động khi đọc những dòng về các liệt sĩ ở nghĩa trang Trường Sơn:

“Nơi các anh nằm sương khói bao dung
Cứ đêm đêm trăng thì thầm kể chuyện
Những đêm trắng hành quân thần tốc
Những trận giáp lá cà xương máu đổi tự do”
…(Thắp nắng lòng người)

Rõ ràng, để viết được những câu thơ như vậy, cần một sự hóa thân đến triệt để. Không bi thương hóa, không thể là nỗi đau vờ: “Những người lính đã hòa với cỏ xanh. Hòa với cỏ cây sau những ngày khốc liệt. Gió vẫn ngắt xanh trên đồi A1. Trùng điệp núi rừng mây trắng mênh mang” (Những người nằm lại đồi A1). Phải chăng, sự hy sinh ấy đã được đền đắp? Hay đó là một khẳng định cho chân lý bất tử của sự sống?!

Hoa hồng vẫn đỏ, vẫn thơm và vẫn có gai. Có lẽ cuộc sống cần đến cả hai.

Với 7 tập thơ đã ra mắt, “Chữ gọi mùa trăng” là một bước tiến mới. Đây không phải lúc để luận bình về nội dung, chủ đề hay kỹ thuật, càng không phải để nói đến được - mất trong một tập thơ riêng lẻ. Mỗi tập thơ, một khi đã xuất bản, sẽ có cuộc sống riêng, độc lập, thoát ly khỏi sự quản lý của tác giả và có tiếng nói riêng để kết giao với bạn đọc. Còn với tác giả, mỗi tập thơ mới là một sự tái sinh. Xin lại được tiếp tục đợi chờ và hy vọng.

Sài Gòn, tháng 8 năm 2025
K.S.

Bài viết liên quan

Xem thêm
Biểu tượng nước trong thơ Vũ Mai Phong
“Nước” trong văn hóa phương Đông là thủy – khởi nguyên của sự sống, mang phẩm chất mềm mại – bền bỉ – linh hoạt biến hóa của triết lý nhu thắng cương. Trong thi ca Việt Nam, “nước” gắn với dòng chảy thời gian tâm thức dân tộc, văn hóa lịch sử và tâm linh
Xem thêm
“Hư Thực” của Phùng Văn Khai: Tiếng nói Hậu Hiện Đại và Dấu Ấn Văn Chương Đương Đại Việt Nam
Văn học luôn là tấm gương phản chiếu xã hội, là nơi ghi lại những biến chuyển của thời đại và tâm hồn con người. Trong lịch sử văn học Việt Nam, mỗi thời kỳ đều có những tác phẩm tiêu biểu, vừa mang dấu ấn thời đại, vừa để lại những giá trị trường tồn cho đời sau. Tuy nhiên, khi thế giới bước vào kỷ nguyên toàn cầu hóa và đa dạng văn hóa, các giá trị truyền thống gặp nhiều thử thách. Đặc biệt, với sự bùng nổ thông tin và biến động xã hội, con người ngày nay không còn sống trong một thế giới đơn giản, rạch ròi mà là một thế giới đa chiều, hỗn loạn và khó đoán định.
Xem thêm
Thế giới kỳ vĩ của thơ
Thế giới của thơ, với thi sỹ là bến đậu của tâm hồn, là cánh đồng gieo trồng cảm xúc và chữ nghĩa, là bầu trời để cất cánh ước mơ và thả hồn phiêu lãng; với đọc giả là nhịp cầu kết nối con tim, là dòng sông soi rọi, tắm táp tâm hồn để được nâng đỡ và bay cao.
Xem thêm
Văn học dịch và những tác động đến đời sống văn học Việt Nam những năm đầu thế kỉ XXI
Nói đến văn học dịch những thập niên đầu thế kỉ 21, có lẽ, trước hết, phải nhắc tới việc rất nhiều tác phẩm thuộc hàng “tinh hoa”, “kinh điển”, hay các tác phẩm đạt được các giải thưởng văn chương danh giá (Nobel, Pulitzer, Man Booker...) đã được chú trọng chuyển ngữ trong giai đoạn này.
Xem thêm
Vài nhận thức về trường ca “Lò mổ” của Nguyễn Quang Thiều
Tôi hỏi nhiều nhà thơ và văn, rằng họ thấy trường ca “Lò mổ” của Nguyễn Quang Thiều như thế nào và đặng họ có thể khai sáng chút gì cho tôi nhưng không ai có câu trả lời khiến tôi thỏa mãn, đa phần đều nói “Ái chà, Lò mổ của Nguyễn Quang Thiều hả, bọn tớ cũng chỉ nghe dư luận ồn ào trên mạng thôi chứ có sách đọc đâu!”.
Xem thêm
Nguyễn Duy – Vịn thi ca vượt thác thời gian...
Bài đăng Văn nghệ Công an số ra ngày 13/11/2025
Xem thêm
Thơ có nghĩa là “thương” - Tiếng thơ Đặng Nguyệt Anh
Một bài viết thấm đẫm nhân tình của Tuấn Trần – người trẻ viết về Đặng Nguyệt Anh, “ngoại” của thơ và của lòng nhân hậu. Từ câu chữ đến cảm xúc, bài viết là một lời tri ân chân thành dành cho thế hệ cầm bút đã “đem trái tim yêu thương gánh ghì số phận chung”, để hôm nay, thơ của họ vẫn còn làm dịu đi những cơn bão đời người.
Xem thêm
Chất liệu dân gian trong ca khúc Việt Nam hiện đại
Bài viết này xin phép được tiếp tục trình bày một xu hướng vận động chủ đạo của âm nhạc dân gian truyền thống Việt Nam sau 1975: dân tộc hóa ca khúc Việt Nam.
Xem thêm
Đọc thơ Thiên Di
Dường như là một giấc mơ chậm rãi, dịu dàng, vẫn đọng lại dư âm của cô đơn, khao khát và hy vọng. Tác giả sử dụng nhịp điệu từ những chi tiết nhỏ – mưa rả rích, ánh mắt, cánh hoa – để cảm xúc lan tỏa, khiến độc giả không cần lạm dụng từ ngữ hoa mỹ vẫn cảm nhận được sự mềm mại, tinh tế và ám ảnh.
Xem thêm
Nguyễn Khuyến “thâm nho” giữa đời thường
Nguyễn Khuyến (Nguyễn Thắng, 1835-1909) hiệu Quế Sơn, tự Miễn Chi. Người đời gọi ông là Tam Nguyên Yên Đổ, do lấy địa danh là xã (làng) Yên Đổ (huyện Bình Lục, Hà Nam trước đây) ghép với việc ông thi đỗ đầu (giải nguyên) cả ba kỳ thi hương, hội và đình. Nhưng việc này thì chính Nguyễn Khuyến cũng chẳng tự hào cho lắm, ông viết: “Học chẳng có rằng hay chi cả/ Cưỡi đầu người kể đã ba phen”.
Xem thêm
Quan niệm của Xuân Diệu về thơ từ những câu chuyện đời thường
Sinh thời, theo thống kê của Mã Giáng Lân, thi sĩ Xuân Diệu đã có hơn 500 buổi bình thơ trước công chúng. Đây là hoạt động nghệ thuật mà hiếm có nhà thơ, nhà văn nào ở Việt Nam và cả trên thế giới có thể sánh được. Không chỉ trong nước, chính “ông Hoàng thơ tình” Xuân Diệu đã có công quảng bá thi ca Việt Nam ra thế giới, giúp độc giả nước ngoài biết đến Nguyễn Du, Nguyễn Trãi, Tú Xương, Hồ Xuân Hương…
Xem thêm
Hành trình nước - Bước chuyển mình của kẻ sĩ chu du
Với Hành trình nước, Vũ Mai Phong cho phép người đọc thám hiểm một cõi tâm hồn mình, để chiêm nghiệm, để cảm nhận sự chuyển hóa kỳ diệu của nước - từ giọt sương nhỏ bé hóa thành đại dương bao la, từ tâm hồn cá nhân hòa vào tính thiêng của Tổ quốc.
Xem thêm
Gió Phương Nam 4 - Những lời thơ chân thực
Trang thơ “Gió Phương Nam 4” dễ dàng gợi lại những bước chân đồng đội năm xưa – bước chân thời chiến, bước chân thời bình, mang theo niềm vui, nỗi nhớ và cả những nỗi buồn sâu lắng.
Xem thêm
“Bến nước kinh Cùng” - Bến đợi của ký ức và tình người…
“Giữa bao vội vã, còn mấy ai lắng lòng với những phận người quê mộc mạc?” - Chính từ trăn trở ấy, “Bến nước kinh Cùng” của nhà văn Nguyễn Lập Em được tìm đến như một lời nhắc nhở tha thiết, đưa ta trở về với đất và người Nam Bộ, nơi tình quê và tình người thấm đẫm trong từng trang viết.
Xem thêm
Người thơ xứ Quảng: “Ảo hương lãng đãng bên trời cũ”
Nhà thơ Xuân Trường - tên thật Nguyễn Trường - là một tâm hồn phiêu bạt. Ông sinh ngày 12/12/1949 (theo giấy khai sinh) nhưng thực tế là năm 1945 (tuổi Ất Dậu), tại xã Đại Phong, huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam.
Xem thêm
Nước sông Sa Lung chưng cất bầu rượu thơ
Nhà thơ Nguyễn Hữu Thắng lớn lên bên dòng sông Sa Lung xanh trong. Có phải dòng sông Sa Lung là dòng sông thơ ca của đất Rồng - Vĩnh Long?. Tuổi thơ anh vô tư ngụp lặn vẫy vùng bơi lội tắm mát trong dòng sông ấy, nên anh rất yêu thơ, tập tành sáng tác thơ và thành công thơ khá sớm.
Xem thêm
Cung ngà xưa – Tiếng vọng ký ức trong miền tiếp nhận hôm nay
Đặt trong bối cảnh văn hóa, “cung ngà” còn gợi đến truyền thống âm nhạc dân tộc, nơi tiếng đàn, tiếng sáo từng là phương tiện gắn kết cộng đồng. Người miền Trung – đặc biệt là Huế và xứ Quảng – vốn sống trong không gian khắc nghiệt, thường tìm đến âm nhạc như một nơi trú ngụ tinh thần. Vì vậy, bài thơ không chỉ là ký ức cá nhân, mà còn mang dấu vết của ký ức tập thể.
Xem thêm
“Công chúa Ngọc Anh – bể khổ kiếp nhân sinh”
Văn học lịch sử vốn được xem là mảng khó viết bởi vừa đảm bảo tính chính xác vừa phải tạo được tính hấp dẫn lôi cuốn. Người viết văn học lịch sử không thể xuyên tạc, tô vẽ hay làm méo mó đi nội dung câu chuyện. Chính vì khó viết nên văn học lịch sử luôn là đề tài thu hút nhiều người đọc, bởi đó là cơ hội để người đọc và người sáng tác chiêm nghiệm lại quá khứ, suy ngẫm về tương lai, trăn trở về những hưng thịnh của thời đại, là một dòng chảy làm tái sinh những giai thoại dựa trên sự kiện lịch sử. Người viết văn học lịch sử là người phục dựng lại những bí ẩn còn chìm sâu trong bức màn thời gian, làm sáng tỏ những giá trị nghệ thuật mang tính truyền thống hay tín ngưỡng.
Xem thêm
Nhẹ nhàng bài ca cuộc sống nơi “Những cơn mưa thu” của Thanh Tám
Thanh Tám, Hội viên Hội Văn học nghệ thuật Lai Châu là cây viết truyện ngắn khá quen thuộc với bạn đọc. Một số truyện ngắn của Thanh Tám đã được đăng tải trên các trang báo sang trọng Báo Văn nghệ, Trang báo điện tử Vanvn.vn của Hội Nhà văn Việt Nam. Một trong những truyện ngắn của em, tôi tin rằng nhiều người thiện cảm, đó là truyện ngắn Những cơn mưa thu. Một câu chuyện gọn gàng, xinh xắn, gợi trong lòng độc giả những ấm áp, yêu thương như giọng văn nhẹ nhàng, truyền cảm của tác giả vậy.
Xem thêm