- Thơ
- Nhà thơ Trần Trí Thông mang “tiếng gà gáy trong ba lô” đi khắp chiến trường
Nhà thơ Trần Trí Thông mang “tiếng gà gáy trong ba lô” đi khắp chiến trường
Chiến tranh đã lùi xa, nhưng hào khí một thời cùng những nỗi niềm bi hùng vẫn âm vang trong lòng dân tộc, thổn thức mỗi khi ta đọc thơ của những người lính – những người may mắn trở về hay đã mãi mãi nằm lại nơi chiến trường, hóa thành tuổi hai mươi bất tử.
Trần Trí Thông, người con của đất Cảng Hải Phòng – mảnh đất “Bút sinh hương” từng sản sinh ra Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm, và sau này là một loạt các tên tuổi lớn như Đồng Đức Bốn, Thi Hoàng, Thanh Tùng, Nguyễn Thị Thuý Ngoan, Phạm Xuân Trường... Tuổi mười tám, chàng trai ấy khoác ba lô, theo tiếng gọi Tổ quốc lên đường, tạm gác ước mơ riêng để góp sức vào ước mơ chung của dân tộc: thống nhất non sông.

Nhà thơ Trần Trí Thông (bìa trái) tại buổi ra mắt sách của nhà thơ Nguyễn Thị Phương Nam, ngày 30/5/2025.
Từ trong gian truân, khói lửa, cảm xúc đã trào dâng, nâng đỡ tâm hồn những nhà thơ - chiến sĩ, tạo nên cái thi vị rất riêng của thời đánh giặc. Và Trần Trí Thông đã bắt đầu hành trình thơ của mình bằng những vần lục bát dung dị mà day dứt:
Con đi nhập ngũ sớm mai
Vườn cau thức đếm khóm nhài nở bông
Ngân hà sao vượt qua sông
Buồng trong lòng Mẹ nỗi lòng ai hay?
Quê nghèo mưa nắng từ nay
Chuyển mùa tóc Mẹ lay phay gió vờn
Thoắt thoi mười tám năm tròn
Trường Sơn gọi… Mẹ tiễn con lên đường
Chợt nghe cót két cửa buồng
Ngoài hiên guốc mộc khẽ nương xuống thềm
Đền sau chênh chếch hạ huyền
Dưới sân mấy vạt sương mềm lướt qua
Bập bùng lửa bén rơm xa
Gạo khuya Mẹ đãi thơm ra tháng mười
Lung linh một dáng Mẹ ngồi
Giật mình. Thấy bóng Mẹ vời vợi cao
Bầy gà giục sáng nôn nao
Mùi thơm nếp cái rước vào cánh hoa
Vuông tròn tay Mẹ nết na
Mo cau nắm cả tiếng gà sang canh
Ngày mai mỗi bước quân hành
Ba lô con có màu xanh cánh đồng
Có thao thức một tấm lòng
Có ò… o… dậy hừng đông tiếng gà.
Đó là toàn vẹn bài thơ “Tiếng gà gáy trong ba lô” – cũng là tựa đề một trong sáu tập thơ anh để lại. Ban đầu tôi định trích dẫn vài câu, nhưng rồi nhận ra không thể ngắt mạch cảm xúc đã được anh dày công chắp nối, như một thước phim quay chậm về giây phút chia ly đẫm nước mắt và cũng ngập tràn ý chí. Anh đã nói hộ cho bao cuộc tiễn đưa thời ấy. Và tôi, mong muốn thế hệ hôm nay được thấy một dấu ấn lịch sử chống ngoại xâm của cha ông qua những dòng thơ đầy đặn như thế.
Trần Trí Thông thuần thục lục bát đến độ có thể “thổi hồn” hiện đại vào truyền thống. Thơ anh nhẹ nhàng, bóng bẩy mà sâu xa, với cách nói giản dị, dễ gần, dễ thấm, khiến người đọc cứ muốn đi hết câu này đến câu khác. Những câu như “Quê nghèo mưa nắng từ nay/ Chuyển mùa tóc Mẹ lay phay gió vờn” vừa bi mà vừa hùng, tâm trạng mà dứt khoát. Hay hình ảnh “Vuông tròn tay Mẹ nết na/ Mo cau nắm cả tiếng gà sang canh” thật đẹp và hiện đại – bàn tay mẹ nắm xôi, mo cau nắm cả tiếng gà, một sự chuyển đổi cảm giác tài tình. Và chiếc ba lô người lính không chỉ có “màu xanh cánh đồng” mà còn chứa đựng cả “tiếng gà gáy hừng đông” – những hình ảnh quê hương ấy đã làm vơi bớt bao nhọc nhằn nơi chiến trận.
Nếu Nguyễn Bính lưu giữ tình quê êm đềm mà mãnh liệt, Anh Thơ phác họa cảnh quê khiến ta thương nhớ khôn nguôi, thì Trần Trí Thông mang cả cảnh lẫn tình quê ấy vào chiến trường. Và khi trở về, anh lại thấy bóng dáng quê hương thấp thoáng sau cổng làng: “May mà quê vẫn còn tre/ Đầu làng còn quán nước chè nghỉ chân”. Trải nghiệm sau cuộc hành trình sương gió giúp anh chiêm nghiệm những điều sâu sắc: “Gió bấc sao cứ hẹp hòi/ Buốt vào thiên hạ làm vơi nghĩa tình”.
Anh còn có những sáng tạo độc đáo về hình ảnh. Nếu Yến Lan dùng “chiều bồ câu” để gợi cái đẹp nhẹ nhàng, thanh tao, thì Trần Trí Thông lại dùng “chiều vuông” – một không gian có giới hạn, như muốn giữ lại khoảnh khắc gặp gỡ và chia ly: “Em về qua buổi chiều vuông/ Mắt ai chạy dọc con đường đón em”.
Tôi đặc biệt tâm đắc với những cặp lục bát của anh:
Nỗi niềm hỏi dưới đất sâu
Còn bao đồng đội nằm đâu chưa về
...
Siêu thị án ngữ cổng đình
Gậy bà lần bước giật mình cầu thang.
Cặp thơ sau thật sâu sắc và da diết, phản ánh sự đan xen giữa cũ và mới, giữa truyền thống và hiện đại một cách đầy xót xa.
Người ta bảo thơ lục bát dễ làm mà khó hay, dễ sa vào kể lể. Nhưng với Trần Trí Thông, lục bát là một sự lựa chọn tinh tế. Anh tĩnh lặng ẩn mình trong câu sáu để rồi bung tỏa ở câu tám. Anh không thích thể hiện, không màng danh vọng. Tôi ví anh như một đóa hoa súng lặng lẽ nở bên góc trời, chẳng động chạm đến ai, nhưng sẵn sàng tím biếc cả mênh mông lòng người nếu ai lỡ đi ngang.
Suốt đời thơ, anh vẫn luôn giật mình với “tiếng gà gáy trong ba lô”. Sự dữ dội của chiến trường, nỗi đa đoan áo cơm và tình yêu quê hương thao thiết đã tạo nên một Trần Trí Thông khi “vô vi”, lúc “kiêu bạc”, nhưng trên hết, vẫn là một duyên nợ trọn vẹn với thơ. Anh giàu có về ngôn ngữ nên ít khi gượng ép, luôn tìm được cách nói vừa lòng người nghe. Dòng sông, bến nước, con đò, tiếng chim, tiếng gà, tiếng ếch… tất cả những hương đồng gió nội ấy đã trở thành chất liệu nguyên sơ nhất, trong lành nhất cho thơ anh.
Giờ đây, Trần Trí Thông đã từ biệt văn chương và bạn bè để về với cõi xa thẳm. Gần hai mươi năm gắn bó trong CLB Thơ Phương Nam, tôi hiểu và trân trọng ở anh một tấm lòng chân thành, một tính cách mẫn cẩn và lãng tử. Anh chưa bao giờ to tiếng, nóng giận với đồng nghiệp, với bè bạn.
Thương nhớ anh vô cùng. Cầu chúc cho linh hồn anh được an lạc nơi cõi vĩnh hằng.
Gò Vấp, ngày 31 tháng 10 năm 2025
 
             
 
                   
                   
                   
                  