- Lý luận - Phê bình
- Nặng tình qua những miền quê
Nặng tình qua những miền quê
ĐỖ XUÂN THU
(Đọc tập thơ “Dấu chân qua mỗi miền quê” của nhà thơ Vũ Trọng Thái, Nxb Văn học, 2025)
Tác giả Vũ Trọng Thái (Hải Phòng) vừa cho ra mắt bạn đọc tập thơ “DẤU CHÂN QUA MỖI MIỀN QUÊ”, cuốn sách thứ 24 của anh. Sách dày 184 trang, khổ 14,5x20,5 do Nhà xuất bản Văn học ấn hành tháng 6-2025. Như vậy là tính đến nay, Vũ Trọng Thái đã có gia sản văn học khá dồ sộ: 18 tập thơ, 4 tập văn xuôi và đặc biệt có 2 cuốn sách xuất bản ở nước ngoài (Cuốn “Bông hồng và chiếc bình cổ” - Nxb AB Art, Hungary, 2021 và “Đêm trắng”, thơ - Nxb Books, Hàn Quốc, 2021). Tôi thật sự nể phục sức sáng tạo của anh và háo hức đọc tập thơ mới này rồi nhận ra những điều đặc biệt mà anh gửi gấm qua từng tác phẩm.
Tập thơ gồm 101 bài đủ các thể loại, đủ 63 tỉnh, thành cả nước. Từ Hà Giang cực bắc đến Cà Mau cực nam, từ Phú Yên cực đông đến Điện Biên cực tây, từ Tây Bắc đến Tây Nguyên, từ Móng Cái đến Ngã ba Đông Dương, từ Hải Phòng đất Cảng đến Đồng Tháp hoa sen, từ Hà Nội thủ đô văn hiến ngàn năm thanh lịch đến thành phố Hồ Chí Minh đô hội phồn hoa… Tất cả các tỉnh, thành dấu chân người thơ đã tới và đã nặng lòng với đất và người nơi đó để thăng hoa thành những bài thơ sâu nghĩa nặng tình cứ như thuở đang yêu.
Điểm đặc biệt nhất của tập thơ này ra đời đúng thời điểm “sáp nhập các tỉnh”, từ 63 tỉnh thành chỉ còn lại 34 tỉnh thành “tinh, gọn, mạnh”, “hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả” đúng tinh thần chủ trương của Đảng trong công cuộc “sắp xếp lại giang sơn” từ bên trong. Phải chăng, nhà thơ đã ký thác tình yêu, lưu dấu chân nghệ sĩ của mình cho những vùng đất mà anh đã đi qua, kịp giữ lại những địa danh có thể sẽ bị mất sau sáp nhập? Phải chăng đó cũng là một cách chép sử bằng thơ để mai này ta cùng hoài niệm về một thời đã qua?
Có 3 tỉnh thành có số lượng bài nhiều nhất (5 bài mỗi nơi). Đó là Lạng Sơn (quê hương sinh ra nhà thơ), Hải Phòng (nơi nhà thơ sinh sống) và Hà Nội (thủ đô, trái tim của cả nước). Hãy điểm qua 3 tỉnh thành mà nhà thơ ký gửi nhiều hồn mình nhất.
Trước hết, đây là Lạng Sơn, nơi chôn nhau cắt rốn của thi sĩ. “Ai đã đến nơi đây/ Mảnh đất biên cương, địa đầu Tổ quốc/ Không khỏi một lần thổn thức/ Đất Mẹ kiêu hùng qua từng tháng năm” để rồi “Ta yêu rồi. Yêu mãi Lạng Sơn/ Một lần đứng đây, địa đầu Tổ quốc/ Thêm hiểu hơn về hai chữ Đất Nước/ Khi tự soi mình nơi mảnh đất biên cương” (Nơi địa đầu Tổ quốc). Với mỗi người, nơi chôn nhau cắt rốn, đất tổ quê cha bao giờ cũng thiêng liêng đau đáu cả một đời rồi huống hồ đây còn là mảnh đất biên cương, địa đầu Tổ quốc nữa thì quả thực là rất thiêng liêng với tác giả. Rồi “Chiều xứ Lạng” được anh thả hồn thế này “Chiều dần buông êm đềm phố núi/ Mây dung dăng ngang đỉnh Chóp Chài/ Chợ Kỳ Lừa đã chừng vãn lối/ Tiếng “Nhì à…” níu bước chân ai”. Cả “ánh hoàng hôn”, “sông Kỳ Cùng”, “tượng đá nàng Tô thị”, “man mác hương hồi” nữa… Phong cảnh thật êm đềm lãng mạn, có núi, có mây, có chợ, có tiếng ai “Nhì à…” vọng thoáng đâu đây. Âm thanh ấy, hình ảnh ấy, hương vị ấy đập vào mắt, vọng vào tai, hít căng lồng ngực từ thuở thiếu thời làm sao mà quên được? Hai bài lục bát rất nuột nà tiếp đó (“Phố núi” và “Sông chiều”) đã tiếp tục cho những địa danh, cảnh tình của Lạng Sơn thăng hoa khiến độc giả cũng bị hút hồn với những câu thơ của anh để tìm đường “Lên xứ Lạng”. “Lên xứ Lạng/ Một lần thôi, nhớ hoài phố núi”, “Lên xứ Lạng mới thấy thật bình yên”, “Lên xứ lạng như về với quê hương”… Những câu thơ ấy như thôi thúc, như gọi mời về thăm quê anh. Đọc chum thơ 5 bài về nơi sinh của thi sĩ, trong tôi bất chợt câu hát “Lạng sơn, Lạng Sơn ơi!” cứ văng vẳng ở trong đầu.
Và đây là Hải Phòng, nơi Vũ Trọng Thái đã sống và lập nghiệp hơn nửa thế kỷ. Mở đầu chùm thơ 5 bài là “Hải Phòng trong tôi”. Mở đầu bài thơ này là 2 câu: “Hải phòng trong tôi. Tôi trong Hải Phòng/ Là Tình yêu; Là những gì…Tất cả!”. Một sự quy nạp, khẳng định ngắn gọn không thể hơn. Và rồi anh diễn giải 8 khổ thơ. Mở đầu mỗi khổ đều định nghĩa “Hải Phòng trong tôi là…”. Từ “bắt đầu từ những trang sách” đến “đôi mắt ướt mi cong”. Từ “dáng mẹ áo nâu” đến “Bạn bè gái, trai”; từ “những chiều Máy Đèn” đến “là nhạc, là thơ”, rồi “trong mỗi nghĩ suy” để rồi kết luận lại là “nặng sâu bao kỷ niệm”. Đấy, Hải Phòng của Vũ Trọng Thái là thế đấy. Quy tụ lại là “tôi trong Hải Phòng”, “là tình yêu, là Tất cả”. Yêu Hải Phòng thế cơ mà. Tác giả cho bạn đọc biết về “Sông Tam Bạc”, về “Hồi ức đêm Tam Bạc” cùng anh. Anh dành hẳn 2 bài thơ về Tam Bạc chứng tỏ nơi này nặng lòng nhất với anh chăng? Thì thế khi “Vắng em” “Phượng cũng buồn, chẳng đỏ nữa/ Phố Cầu đất chợt như cũng mồ côi/ Hàng bằng lăng cúi đầu đứng lặng/ Tiếng đàn ai ngân cung bậc lẻ loi”. Đặc biệt, bài thơ “Em có về Hải Phòng với anh không?” đã được nhạc sỹ Quang Hiển phổ nhạc rồi dân Hải Phòng, cả những người nơi khác tới hát vang trong mỗi dịp gặp gỡ giao lưu, trở thành ca khúc “tỉnh ca”, “thành phố ca”. Đài phát thanh và truyền hình Hải Phòng, các hội diễn nghệ thuật quần chúng, các cuộc mít tinh kỷ niệm ngày truyền thống của thành phố Hải Phòng ca khúc này lại thêm một lần nữa ca vang cùng với “Tháng năm rợp trời hoa phượng đỏ” của Lương Vĩnh và Hải Như.
Tôi nhớ có lần cùng anh lên Lạng Sơn đi viết cho bộ đội Biên phòng, ngồi trên xe thì ca khúc “Em có về Hải Phòng với anh không?” đã vang lên tưng bừng, da diết. Gia điệu quyện lấy lời ca đầy ắp trong xe đã làm ấm lòng chúng tôi giữa ngày đông buốt giá của một chiều cuối năm giáp Tết. Tôi có cảm giác như xe đang chở Hải Phòng lên biên cương xứ Lạng. Hạnh phúc nào bằng khi thơ của mình đã cất cánh làm đẹp, làm sang cho quê hương, nơi ta sinh ra và thuộc về?
Với Hà Nội, thủ đô trái tim của cả nước, Vũ Trọng Thái cũng ưu ái một chùm thơ 5 bài trong tập. Trong 5 bài đó có 2 bài về mùa thu. “Em có về Hà Nội mùa này, cuối thu?”, và “Thu Hà Nội”. Đúng mùa thu là mùa của văn nhân, nghệ sỹ, mùa của nhạc hoạ thi ca. Vũ Trọng Thái cũng không ngoài số ấy. Thì Hà Nội đẹp thế, thanh lịch thế, nét thu dịu dàng thế làm sao thi sĩ qua đây chẳng có thơ? “Hà Nội cuối thu mỗi sáng sương chưa tan/ Cánh đồng cúc hoạ mi mởn mơ chờ nắng sớm/ Ta trong veo một tình yêu không gợn/ Với Hà Nội này cuối thu” ( Em có về Hà Nội mùa này, cuối thu?); “Chị hàng hoa dắt thu vào phố/ Trên giỏ xe ngời những cúc hoạ mi/ Hoa thêm trắng cùng tà áo trắng/ Tôi dùng dằng chẳng thể bước đi” (Thu Hà Nội). Trái ngược với thu, Hà Nội những ngày hè cũng thật đáng nhớ. Anh quan sát, anh tốc ký ký hoạ bằng thơ qua bài “Hà Nội, một ngày hè cháy bỏng” khi “Nhiệt độ ngoài trời 380 C” với những hình ảnh, cảnh đời rất ám ảnh. Cả con sông “Hồng Hà” cũng hiện lên trong thơ anh, chảy trong nỗi nhớ, để “nghe tiếng sóng vỗ về ký ức”, để “Bỗng dưng lạc về Vạn Phúc/ Mát lòng áo lụa Hà Đông/ Tìm lại ngày xưa bím tóc/ Ngờ đâu em đã lấy chồng” (Bỗng dưng). Không phải bỗng dưng đâu Hà Nội ơi mà tôi đồ rằng chính nỗi nhớ niềm yêu của thi sĩ đã đưa anh về nơi ấy đấy.
Ngoài 3 tỉnh, thành trên, Vũ Trọng Thái còn đặt chân và có thơ cho 60 tỉnh thành khác nữa. Trong đó, có 5 tỉnh mỗi tỉnh 3 bài (Bắc Kạn, Cao Bằng, Hải Dương, Huế, Quảng Trị), 12 tỉnh mỗi tỉnh có 2 bài (Bắc Ninh, Bình Định, Đà Nẵng, Gia Lai, Hà Giang, Lai Châu, Lào Cai, Nghệ An, Phú Thọ, Sài Gòn, Tây Ninh, Yên Bái) còn lại 43 tỉnh khác mỗi tỉnh có 1 bài.
Này là “Em gái Cần Thơ” “Trời ơi cái lúm đồng tiền/ Lung linh toả sáng làm nghiêng cả chiều” để cho “Có người buổi ấy đến giờ/ Mang theo nỗi nhớ bên bờ Hậu Giang”. Này là “Về xứ Đông” (Hải Dương) “Chiều nay về với xứ Đông/ Chỉ một lời hẹn mà mong chín chiều/ Hồn thơ ai đến buông neo/ Níu tôi vào sợi dây diều nhân duyên”. Còn đây là Sóc Trăng “Trước điệu múa Lâm Thôn”: “Bàn tay kia quay đều vòng xa/ Dệt tấm khăn Sà rông rực rỡ/ Ngón tay kia như những búp hoa/ Sáng bừng trong dáng hình vũ nữ”. Và đây nữa Tây Ninh: “Lên Bà Đen tay chạm mây trắng/ Sông Vàm Cỏ lấp lánh ánh vàng/ Đá ẩn cây, cây chen cùng nắng/ Đồng có lau thênh thang thênh thang” (Lên Bà Đen). Rồi Tiền Giang đây: “Mênh mang sóng nước vỗ bờ/ Qua cầu Rạch Miễu, ngẩn ngơ sông Tiền/ Bóng dừa bóng nắng đan chen/ Lênh đênh câu hát giữa miền đờn ca” (Cù Lao xanh)…
Mỗi tỉnh một hoặc nhiều tứ thơ. Không thể nói thi sĩ nhởn nhơ “mơ theo trăng và vơ vẩn cùng mây” được. Phải nặng lòng thương nhớ, yêu người yêu cảnh lắm anh mới có được những bài thơ như thế.
Là người có tâm hồn thi sĩ lại hoạt động trong Hội Doanh nhân Trẻ Hải Phòng, Vũ Trọng Thái có điều kiện đi khắp trong nam, ngoài bắc. Chịu đi, chịu ghi chép, học hỏi, chịu quan sát, kết nối, đi đến đâu anh có thơ và bài viết đến đó. Hình như thơ văn trong đầu anh có sẵn, gặp dịp là tuôn chảy. Chả thế mà bạn bè anh có khắp cả nước, anh lại có tài kết nối, tổ chức các cuộc giao lưu, gặp gỡ, làm MC hầu hết các sự kiện quan trọng của Hội Doanh nhân. Ai ai cũng yêu mến quý trọng anh, người vừa có tài, vừa có tâm, hết lòng vì công việc và bầu bạn. Chả thế mà bạn bè anh “đông như quân Nguyên”, anh ra sách ầm ầm, “đẻ” rất mắn khiến tôi cũng phải ghen tị.
Ngay đề từ sách, anh đã khiêm tốn như này:
“Dấu chân qua mỗi miền quê
Tiếng ai thầm gọi vọng về chiều nay
Thênh thang là những tháng ngày
Tấm tình gửi trọn chút này cùng thơ”
Anh viết: “Với tất cả tình yêu và sự tri ân dành cho đất và người trên dải đất hình chữ S thân yêu này, người viết mong muốn tập thơ sẽ đáp ứng và vừa lòng bạn đọc” (Lời tác giả).
Chọn đúng thời điểm sáp nhập tỉnh để ra mắt tập thơ “DẤU CHÂN QUA MỖI MIỀN QUÊ”, ghi lại những vùng đất của 63 tỉnh, thành trước khi sáp nhập. Phải nói là anh đã chọn đúng “điểm rơi” để kịp thổ lộ tâm tình của mình với tất cả các địa danh mà anh đã từng đến và lưu dấu ân tình. Mai này một số địa danh chắc chắn sẽ không còn nữa thì trong anh, trong lòng bạn đọc vẫn mãi một tình yêu về quê hương xứ sở ấy.
Cảm phục thay sức đi, sức viết, sức sáng tạo của tác giả Vũ Trọng Thái. Xin chúc mừng anh đứa con tinh thần ý nghĩa này và hy vọng anh sẽ cho ra đời nhiều đứa con tinh thần kháu khỉnh khác nữa.
Đ.X.T