- Lý luận - Phê bình
- Bùi Việt Mỹ - Nhà thơ của bức họa ngoại thành thủ đô
Bùi Việt Mỹ - Nhà thơ của bức họa ngoại thành thủ đô
Tôi nhớ đầu năm 1991, Bùi Việt Mỹ về làm Chánh văn phòng Hội Văn Nghệ Hà Nội. Lúc ấy nhà thơ Vũ Quần Phương làm Chủ tịch Hội. Sau đó, nhà thơ Vũ Quần Phương chuyển sang làm Tổng Biên tập báo Người Hà Nội, nhà văn Tô Hoài trở về làm Chủ tịch Hội, cho đến năm 1996, khi nhà thơ Bằng Việt đang công tác ở Ủy ban Thành phố được bầu làm Chủ tịch Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật Hà Nội. Văn nghệ Hà Nội có 9 hội chuyên ngành tới hiện giờ.
Nhà thơ Bùi Việt Mỹ
Bùi Việt Mỹ giúp việc cho cả ba vị Chủ tịch đã nói ở trên cho đến năm 2001 mới sang báo Người Hà Nội. Mười năm ấy ông dựng văn phòng thành hình cơ quan trực thuộc Thành phố là cả một quá trình. Nhất là thuở các Hội chuyên ngành mới lập còn chưa đâu vào đâu. Bùi Việt Mỹ đã tham mưu cho lãnh đạo và trực tiếp xắn tay thực hiện làm cho mọi việc dần đi vào quỹ đạo.
Thế là Bùi Việt Mỹ, được sự đồng ý của Ban Chấp hành, làm cuốn Kỷ yếu Nhà văn Hà Nội năm 1997, Kỷ yếu Nhà Điện ảnh Hà Nội năm 1998, ra sách chuyên đề Thăng Long Văn hiến từ năm 1998 mỗi quý một tập để hưởng ứng cuộc Vận động sáng tác văn học nghệ thuật hướng tới Đại Lễ kỷ niệm 1000 năm Thăng Long – Hà Nội. Đây là tập chuyên đề đầu tiên ra mắt vì việc này.
Còn nữa, trong khoảng tài chính tự lo, chúng tôi còn ra được tập Hà Nội Thơ tình tuyển chọn. Sau này khi xuống báo Người Hà Nội, Bùi Việt Mỹ còn chủ biên một tập thơ dày đến nghìn trang tuyển các bài thơ viết về Thăng Long – Hà Nội. Khi làm Tổng Biên tập báo Người Hà Nội, ông cũng cùng nhà thơ Nguyễn Quang Thiều ra phụ trương Nghệ Thuật Mới rất hay. Không kể ông cùng với đồng nghiệp ở báo dựng tờ Người Hà Nội Điện tử đáp ứng được nhu cầu báo mạng Internet.
Có thể nói, ba mươi năm công tác ở Hội Liên hiệp, Hội Nhà văn Hà Nội và báo Người Hà Nội, nhà thơ Bùi Việt Mỹ vừa trung thành, vừa dựng giữ cho văn học nghệ thuật Thủ Đô. Ông kiên nhẫn và sáng tạo, nhưng trên cơ sở của hiểu biết và vận dụng. Công việc thì như thế, nhưng là nhà thơ, trên hết vẫn là thơ. Chúng ta cùng đọc thơ ông để thưởng thức và đánh giá “con mắt thi sĩ” của ông khi nhà thơ Bằng Việt nhận xét về thơ Bùi Việt Mỹ.
Thơ Bùi Việt Mỹ, Đầu những năm 1990, là tức cảnh sinh tình. Lúc này, ông mới tiếp cận sự thay đổi. Ta hãy đọc hai bài thơ bộc lộ tài năng thi họa “trong thơ có ảnh” của ông. (Cũng nên chú ý đến hình tượng gió bắt đầu từ đây trong thơ ông).
Vườn nắng
Mưa,
để lại những mặt trời nằm im trên lá
mỗi bận mưa về, đi êm ả,
Nay, mưa vừa đi qua
để lại em và vệt sáng nghiêng ánh mắt
vườn thêm mỡ màng.
Đàn chim nào đã bay ngang
hẹn mùa hoa trái
Cánh gió nào đã dẫn mưa đi, đón mặt trời trở lại
luyện lên mùa màng.
Anh ngắm nhìn em lòng xốn xang
một vườn mưa đầy nắng.
1992.
Ngày về
Kìa gió láng Đồng già (*)
Ta nhớ lắm
Gió đã nhuộm cuộc chia xa
Vùng nước lợ
Con đê
Một bên lúa
Một bên cửa biển
Nhìn mây trời trong vắt
Gió mang màu nắng xanh.
Ta đã mang màu xanh ấy ra đi
Nguỵ trang suốt chiều dài chiến dịch
Giống như trong cổ tích
Gió là thần ta
Tạt khuất lửa thù.
Lại đây gió
Để cho lá chim chung chiêng
Thuyền xa bờ
Bồng bềnh
Bồng bềnh câu hát
Quyện chặt lấy con đê đồng làng
Gió còn mang màu xanh ấy
Ta muốn hỏi
Làng có ai vẫn mang áo tim ?
Lại đây
Thì ra vẫn cơn gió cũ
Vờn ven đê
Bụi nhoá mặt trời
Đầu sóng,đầu gió bạc
Thật thế sao
Làm ta kinh hãi vô cùng.
Kìa gió
Dẫu ta về muộn
Mọi đổi khác của Đồng Già biến ta thành xa lạ
Nhưng đó là cái vươn xa
Của chính quê hương so với đời người.
Dẫn ta đoạn đường
Gió vượt sóng mà bay lên
Để bất cứ cuộc sống nào
Cũng đi qua đây.
Trà linh, 1992.
Thời gian sau, mảng thế sự công dân chiếm vị trí quan trọng và bền chặt trong thơ ông.
Hình dung
Khép cửa, biết mai rồi lạnh tới
Một mình dịu vợi nỗi đua chen
Nhìn chân chiều thấy trời vỡ ối
Đông thế mà sao chẳng lắm người.
Khối đá quý ở Thiền Viện Trúc Lâm Yên Tử
Giời đặt một con ngươi mắt mình
Hòng thu phục nhân gian.
6/2007
Hai bài này chủ ý rõ ràng. Riêng Người về phố bán dao thì ẩn ý. Cái thời kỳ có nhiều u nhọt, sâu bệnh xã hội, lại tập trung nhiều ở phố phường, nhức mắt, mà không làm gì được. Mà có công cụ đấy “Những con dao khoe sáng trước bàn tay”, “Dao thì sắc nhưng không chặt được”, nên đành “Anh tiếc cho mình đem dao sắc bán rao.”.
Người về phố bán dao
Chẳng nặng gì mà đè lệch vai
Đôi chân bằng mà anh đi tập tễnh
Suốt ngày mỉm cười với mọi người, không chán
Vai vẫn không nhẹ vơi.
Cả thành phố lúc nào cũng rậm lời
Anh không thấy tấc vỉa hè nào dành cho mình cả
Nếu có một khách hàng (chỉ là nấn ná)
Anh nén dừng trong tư thế đi ngay.
Những con dao khoe sáng trước bàn tay
Còn người khách ném vài câu gầy guộc:
Dao thì sắc nhưng không chặt được
Nào đoán trông sự cần lao lết bước.
Ôi, cao thấp gì đâu, đồng quà, bát nước
Anh tiếc cho mình đem dao sắc bán rao.
Cái bàn chân đi trên cát để lại dấu chân. Dấu chân sâu đọng nước biển in cả sắc trời. Chỉ là dấu chân của cá thể thôi cũng là một riêng tư đấy. Vẻ đẹp của sự nông nổi thăng hoa đến Dã tràng trên cát của động thái anh hùng so với các nguyên mộc em cứ dẵm gót hồng trên cát bạc tạo liên tưởng em để lại vũng nước sắc trời hơn xa sóng vờn mặn nhạt. Ý tứ bài thơ vượt qua chuẩn thông thường.
Cuộc sống được gắn kết bởi những sự việc rời rạc
Gửi Hiền
Những động thái anh hùng là vẻ đẹp của sự nông nổi thăng hoa
Chúng đi suốt cả quãng đời thuần khiết
Dẫu biết mai đây
Chẳng bao giờ ai biết
Và kia rồi biền biệt chia xa.
Có thể,
Cứ như thế kia
Chẳng ai xây nhiều những ngôi nhà
Bằng Dã tràng trên cát
Chỉ một chúng với sóng vờn mặn nhạt
Kẻ vun,
Người dỡ
Suốt chiều dài năm tháng đã ưa nhau.
Đấy như là cuộc sống
Em cứ dẵm gót hồng trên cát bạc
Sẽ chẳng có sự thật nào hơn thế được đâu
Những vệt màu đuổi nhau
Vô tư và nhàu nhĩ đến ngộ nghĩnh
Nhưng đấy là khởi nguyên vẻ đẹp muôn loài.
Hãy cứ để dại khờ quen bước đi trống trải
Vết trũng nước dấu chân thường in đậm sắc trời.
1/2010
Trong các tác phẩm: Vườn nắng – 1992, Chuyển khúc – 1997, Ngoại ô mùa nắng – 2002, Giữa hai chiều thời gian – 2006, Những luống cày vắng mùa – 2010. Bùi Việt Mỹ, với con mắt nhìn thi sỹ, dạo bước ngoại thành với cảm hứng du tản lãng mạn. Vào thơ ông, vệt ngoại thành trở thành một đóng góp dấu ấn biểu tượng hiện thực của thơ ca Hà Nội.
Đấy là vào khoảng giữa những năm 90 của thế kỷ XX. Tôi còn nhớ trong một chương trình văn nghệ trên VTV3 do nhà thơ Vũ Quần Phương dẫn, Bùi Việt Mỹ, cũng như chúng tôi vẫn nặng lòng với dòng sông Trà Lý quê nhà, dù lúc ấy, ông ở Hà Nội đã hai mươi năm có lẻ. Rồi như bắt được vàng, ông có những bài viết về chợ Dâu, về vườn dâu Mai Lĩnh, về phía Đông Anh, Từ Liêm, Đan Phượng, Mê Linh,…
Phượng vàng
Lại gặp nữa một mùa hạ trắng
Ve chơi vơi rơi cánh phượng vàng
Tôi lạc nhìn theo lối rẽ ngang
Bởi chợt nhớ, nghẹn đến nhàu vệt cỏ.
Hẳn đến muộn em không còn đứng đó
Trưa tan dần về xa tít cơn mưa
Ngọn gió đùa, tiếng ve thành hai nửa
Hát theo mùa nên lạc chút riêng tư.
Vệt cỏ nhàu lặng dấu gót chân ư?
Tôi đến muộn, đâu phải em không đến
Vịn vào câu thơ tránh nỗi buồn da diết
Đứng bóng rồi, trơ cánh phượng bơ vơ.
Trở về Ngoại thành, câu thơ Bùi Việt Mỹ mềm mại hẳn đi. Và chỉ ở đây câu chuyện tình mới đọng sâu nỗi nhớ. Đó là gợi ý mỹ học.
Ngày
Con
Bận bịu với chùm bóng bay
Để ngày nằm ì trên lưng cỏ
Diều đứt dây ngả nghiêng tai thỏ
Trâu no tròn cười bâng quơ,
Trời giật mình sau mơ
Bóng râm quẹt vào lần ngủ gật
Mấy tiết học bức tranh gà nhem bẩn
Kim giờ vẫn trơ trơ.
Tôi
Vừa sang chợ về
Mặt trời đánh vèo qua đê, bóng nước
Chưa kịp khô vết bước
Nắng xuyên lẹm gót chân,
Còn lại đây dấu vết mùa xuân
Rét dai, mạ già, cấy lại
Cũng chưa kịp gặt hái
Tóc đã hoa râm.
Vừa ngả lưng, cặp mắt cay nồng
Ngoài hiên đã nghe rì rầm
Ông, bà ngước sương, sao:
Đêm nay nhiều sao
Ngày mai còn nắng.
Nhớ những năm 1960, nông thôn miền Bắc là của Anh Chủ nhiệm của Hoàng Trung Thông “Anh dơ tay vẽ giữa đồng xanh/ Vẽ cả ngày mai thành bức tranh/…/Bên này kho thóc , nhà chăn nuôi/…”, của Tố Hữu với “Chiêm mùa cờ đỏ ven đê/ Sớm khuya tiếng trống đi về trong thôn/ Màu áo mới nâu non nắng chói/…”, nhất là “Quê hương ta rộn rã cuộc vui chung/ Người hợp tác nên lúa dầy thêm đó”; Thì ta chỉ thấy tập thể, đâu thấy cá nhân, nhất là chuyện tình. Bây giờ, làng tuy vẫn còn hương ước. Cờ đỏ vẫn thiêng liêng biểu tượng. Nhưng làng giờ cũng là của riêng tư. Đất giờ không tập thể hóa theo kế hoạch cấp trên nữa, mà của nông dân. Cô gái trong thơ Bùi Việt Mỹ là nhân vật trữ tình của thơ. “tiếng hát vắt qua cánh đồng còn vương mãi nhịp chèo”. “Tôi vội lọc hơi thở sâu từ lúc giao mùa/ ngoại thành của xưa nhường chỗ cho phố về gõ cửa/ có sự đổi trao nào làm hạn hẹp bờ sương.”.
Như vậy, Ngoại thành của Bùi Việt Mỹ là của khoảng 15 năm từ 1990 trở đi. Cái Ngoại thành ấy vẫn đẹp, nhưng không đứng yên như một bức tranh tĩnh mặc cổ điển cây đa giếng nước con đò, cũng không của chung tất cả thời “Đời trẻ lại tất cả đều cách mạng” (Bài ca mùa xuân 1961) nữa. Đây là thời điểm của cuộc chuyển giao. Mười năm sau, những gì là cảm hứng cho thơ Bùi Việt Mỹ đã thay đổi chóng mặt, thậm chí biến mất, khi ở nông thôn “tấc đất tấc vàng” hiểu theo nguyên nghĩa. Cho nên, Làng hiện sinh là bức họa được trân trọng lưu niệm.
Làng hiện sinh
Bờ sương và những cây số dài,
em theo chiều cây lúa nước
tiếng hát vắt qua cánh đồng còn
vương mãi nhịp chèo
của Ô-diên, đoạn sông nhỏ bâng quơ
bờ bãi tự xa xưa
mượn cây cầu nối về miền vó ngựa
Trưng vương
Rộn rã, rạo rực chung chiêng sắc màu
sau phía cuối làng, ngõ về không dừng lại
áo em phơi từ góc thu sang
vội vã cánh gió lui tàn, ngọn tường vi rũ áo
đặt chiếc xương cá lên mái chùa cổ tích
và em lớn lên qua kỳ ngủ đông.
Bỗng chốc mưa rộng, dài thong thả rắc như không hạn định
làng hiện sinh từ những giọt mưa ấm áp
trong không gian Ô-diên, tiếng sáo nghẹn đục vượt lên
đoản khúc ngàn thu
trong mây mưa chùng rắc những vạt tép lên bụng sông Đáy.
Tôi vội lọc hơi thở sâu từ lúc giao mùa
ngoại thành của xưa nhường chỗ cho phố về gõ cửa
có sự đổi trao nào làm hạn hẹp bờ sương.
Bức tranh này, ta còn thấy ở tứ bình ngoại ô. Cái thể lục bát thân thuộc được Bùi Việt Mỹ dùng làm phông bút vẽ lên cái khung cảnh bản sơ, không biết thời nào, còn trong tâm tưởng.
Ngoại ô
1.Bố cục
Nhành xanh chắn một khoảng trời
Vờn mây hút gió thảnh thơi bóng tà
Cung đường thoăn thoắt vào xa
Gót mòn thôn nữ, nếp nhà nguyên sơ.
2.Gió
Xạc xào lá hát vườn thơ
Nhẹ đưa vào ánh trăng mờ nao nao
Vừa khô vệt mái mưa rào
Lạnh lùng khuya đã rắc vào thềm xương.
3. Mưa
Mây vừa thả sấm đầu đường
Mở cờ ngọn lúa mười phương vỗ về
Tắm mình chim chóc thoả thuê
Phây phây ngực áo non thề phôi phai.
4. Nắng
Vàng loang cả vệt rộng dài
Ném vào mất hút một vài cánh chim
Bờ ao mây, cá trốn tìm
Dưới hoa khoe sắc ai nhìn mặc ai.
Bức tranh ấy treo ở trong tâm. Bước vào đời thực, nhà thơ không thoát ngoài thơ, nhưng ông tin tưởng. “Cây cầu mới vút lao tầm xa rộng, /Bỏ lại dòng trôi lận đận thác ghềnh.”
Viết ngày giao mùa
Vẫn là những chiều về cuối phố
Bao vui buồn chen lẫn tháng, năm
Mấy bạn già nhưng không bụi bặm
Vài quyền thơ mời gọi bạn bầu.
Từ bĩ vận chẳng đâu vào đâu
Mà vui đến nhĩ nhàu khóe mắt
Tứ họa thế thời, chênh chao trước mặt
Ngữ nghĩa gụi gần thoắt hóa xa xăm.
Ngày vượt cạn mang xuân vắt qua năm
Lời hát cũ nguyên trong mình sức mới
Chỉ mái đầu không còn xanh màu tuổi
Và miệng cười vơi cạn đến nôm na.
Bao ghềnh thác của một thời đã qua
Đem gửi nhớ, gửi quên vào cõi sống
Cây cầu mới vút lao tầm xa rộng,
Bỏ lại dòng trôi lận đận thác ghềnh.
12/2015
Dù ngoại thành gần ta lắm, gần đến độ cứ qua cầu là đã bên kia sông Hồng dậy hương lúa chín. Nhưng nhiều khi những cái gần gụi thành thân thuộc lại làm ta cứ lãng quên đi dù lòng ta không cố ý. Giá cứ ồn ào nội đô chói ngời màu sắc hay xa lắc, xa lơ một miền quê vùng châu thổ có khi lại khơi dậy trong ta những cái gì mãnh liệt.
Ở cánh đồng giao mùa
Em mải mê với cọng gió khô cánh đồng tháng Mười
Ngọn khói chảy dài về phía bờ tre thong thả trút lá
Những ô, thửa tự xa xa vẫn điềm nhiên chia cắt không gian
Làm dấu vết Ngoại thành xa phố
Như chợt nhớ đã qua mùa thi cuối cùng cởi mở
Những cọng gió vàng bắt đầu lẩn quất
Trời xà xuống, đám hạt vương lấm tấm rắc rây mưa
Em một mình cài bông hồng cuối đông, hơi thở ấm nức chật khuy áo
Gót xuân thánh thót in vào làng xa.
Dĩ nhiên, ba mươi năm đã qua, làng xưa nên phường, huyện xưa thành quận. Thơ hóa ra như địa chí một thời.
Cho nên, một ngày vùng ngoại thành Hà Nội đọng vào ta một vệt sáng qua thơ Bùi Việt Mỹ với những lời ẩn hiện bâng khuâng:
Thấp thoáng nắng nắng la đà vờn khô lối cỏ
Ráng chiều xa tim típ cánh chim trời.
(Chiều ngoại ô)
Ừ nhỉ, cái lối cỏ có gì lạ đâu; cánh chim trời có gì lạ đâu mà tim típ chiều xa, mà vờn nắng la đà, mà như quen như lạ. Vậy nên, khi:
Em khép cửa để Ngoại ô mình thay áo mới
Có gì đâu mà ngày cứ vội
Hạt đã khô giòn còn nỗi nhớ vẫn tươi nguyên. (Chiều ngoại ô)
Thì sự níu kéo ta lại chính là em rồi. ở đây, cái gắn kết giữa hạt thóc, mà nhớ lại là hạt khô giòn tức ta có thể cất vào kho, nhưng cái nỗi nhớ vẫn tươi nguyên ấy ai mà cho vào kho được. Chao, cái ngoại ô hoá ra còn thơ hơn cả người thơ ấy chứ.
Thơ đưa ta ra phía xa thành phố để ta còn ngắm dòng sông, để:
Xin dặn này thêm nữa sông ơi !
Đừng ngước mắt chạnh lòng ta đấy nhé.
Để một:
Chút se lạnh hàng cây nườm nượp gió
Bánh thời gian mòn vẹt vết ngoại thành
Ngày tháng ba có cái gì chập chững
Cả bầu trời tung hứng rắc ngang cây.
(Phía xa thành phố)
Bùi Việt Mỹ tìm vệt ngoại thành trong thể thơ tự do có vần. Ở thơ ông, ảnh và nhạc cứ đan quyện vào nhau thành đoạn phim có âm thanh
và màu sắc. Có một vài bài gây tác động mạnh về sự phát triển của Thủ đô mà điểm dừng là “Khoảnh khắc Thành phố”. Song, thành công nhất vẫn là mảng rộng của nắng gió vườn ngoại ô. Mảng này được tạo bởi sự quan sát, tư duy của những lần đi đi, lại lại thời gian làm cho sức anh mòn vẹt đi. Và dù vậy thì:
Sớm sớm
Tôi chở em từ ngoại thành vào thành phố/
Vai áo gầy lấm tấm bờ sương xuân
(Phố sớm)
Và đáng yêu hơn ở một chút vụng về mùa:
Và bụi mưa vây rối mặt trời lên
Nặng màu phù sa, con đường dải lụa
Có một điều rất lạ là khi ra ngoại thành thường ta đi dọc triền đê. Triền đê ấy có cỏ may, hoa dại nhưng không phải là ấn tượng ban đầu bởi từ lâu những điều ấy đã ở trong thơ rồi. Nhưng một lần nữa, ngoại thành thật đẹp:
Nơi ấy lúa và triền đê gặp nhau dưới tiếng sấm đầu mùa
Mưa từng hạt như tép rắc đầy mặt nước
Con đê trườn như con rắn khổng lồ đuổi theo vệt mương
Trời xuống thấp dần không hẹn trước khi nào mưa chấm dứt.
(Mùa trước mùa sau)
Câu thơ trải ra như muốn vượt khuôn khổ của thơ tự do nhưng vẫn chưa sang địa hạt thơ văn xuôi. Có lẽ ở đây dù ngôn từ nghe hơi khúc khắc nhưng nhịp thơ chưa đến nỗi thành một liên khúc vì hình ảnh trong thơ làm ta chấp nhận được. Đứng trước hội làng, Bùi Việt Mỹ thấy:
Chen chen kim cổ rộn ràng
Ngoại ô mới để hội làng thêm xưa
Còn nguyên điệu đón lời đưa
Câu thơ đổi khúc, hạt mưa chuyển mùa
(Làng mới ngoại ô)
Đối ý rất chặt, cách thể hiện quan hệ giữa kim cổ bằng điệp ngữ chen chen là đắt, gợi nhiều hơn tả.
Tôi muốn dừng một chút ở bài thơ được giải cuộc thi thơ 1999 - 2000 do báo Người Hà Nội tổ chức: Tản mạn ngoại thành.
Ở ngoại thành hầu như nơi nào cũng thả diều, điều mà ở nội thành những bạn cùng trang lứa khó làm được. Chúng ta hãy cùng thử tưởng tượng các giới hạn ước lệ về đường biên ngoại thành. Nơi ấy thật lạ. Cái khoảng không gian rộng lớn lại được buộc vào bờ cỏ bằng dây diều, còn thời gian hạn hẹp lại được thả buông ra với cách lý giải độc đáo:
Lẫn mây trời cánh diều đứng gió
Những sợi dây căng dài níu không gian vào bờ cỏ
Đàn trâu no tròn
Tung tăng trẻ nhỏ
vào bờ cỏ
Thả buông thời gian.
Cũng là nơi:
Mưa cuối cơn chia đoạn đường làm hai nửa
Bên kia,em lỡ bữa
Bên này chờ, tím thẫm hoa mua
Rồi gắn cái ước lệ ấy vào với bóng chiều:
Con đường từ Thành phố đi về đâu không ai biết
Chiều rạn chân chim, cầu Đôi soi mình mải miết
Những cái bóng giống nhau y hệt
Cầu mong sao cho những em gái của ta, ở xứ cầu Đôi, ở vệt ngoại thành đừng giống nhau y hệt, cũng đừng lỡ bữa; cầu mong sao cho con đường bây giờ đừng chia làm hai nửa, dù có cái gì như lá rơi rơi.
Khoảng giá nắng
Ta vẫn nghe thấy những điều gió hát
Mà chưa nhận ra người gió bao giờ
Có thể gió còng như thân tre
Ngày đốn dưới bão giông, xóc gù gánh lúa
Có thể gió tròn như vỏ ốc
Ngày cát xoáy trơ gốc rạ ven sông.
Thì vẫn hòa chung cái nắng oi nồng
Nhưng chưa thấy nắng hiện thân củi lửa
Có thể nắng hình cánh núi cong vênh
Ngày chiếc bi-đông khát khô vòng trận mạc
Có thể nắng tròn như cái mũ
Ngày sốt cao, con vẫn đội tới trường.
Ta đâu nhận ra điều bất bình thường
Cứ lăn lộn, gửi tin vào nắng, gió
Rồi không gian già nua, rạc rời lối phố
Khoảng mưu sinh hụt hẫng bước chân mình.
Rồi cũng có một ngày, cái cũ không thể như trước được nữa. Ngày ấy, cái mới, sau một thời gian dài ngắn ấp ủ, đã tiếp bước ra đời, thường là một hợp lý tồn tại tiến bộ hơn. Nông thôn đô thị hóa, nông nghiệp hiện đại hóa, nông dân công nhân hóa. Tất cả các giá trị cũ đều đổi thay theo hướng thị trường. Bùi Việt Mỹ không còn chậm rãi cùng em gái Ngoại thành chở hoa, chở rau, chở lúa, chở nắng về làng. Ông ngồi trên tốc độ thời đại mà đi trên đường Láng – Sơn Tây để tiếp nhận sự thay đổi. Nhưng ông không bắt đầu bằng những cao ốc rực rỡ ánh đèn, mà từ những bàn tay xây dựng, từ cô gái hái nho về thả leo phố cổ. (nho chứ không phải lúa nhé – ý thơ đã khác thời xa).
Khoảnh khắc thành phố
Không có ngọn gió nào
Xe chạy căng xuôi, ngược Láng - Sơn Tây
Nhấp nhoá mặt đường nắng đổ
Lưa thưa cây
Cạn lòng sông Đáy.
Thành phố mới bắt đầu từ đây
Những thợ cầu đường đã quen xếp găng tay
Lặng thinh quẹt mồ hôi trán,
Vẫn kịp nhặt chùm nho em bày bán.
Để lại sự sống tràn ra lẫn trong bụi bặm,
Có thể họ mệt lắm
Nên đường chưa có tên.
Thành phố nhằm hướng núi vượt lên
Đón rừng, đón nước và đón gió
Em đã mang chùm nho về thả leo phố cổ
Tôi ngược xe với hành trang nho nhỏ
Mặc nắng tấp vào trang sử,
Làng văn hoá đượm vàng.
Thành phố tám hướng đường, bốn vòng xoay ngang
Giống như tay lái tàu đóng đinh
Xoè cánh mặt trời lấp lánh.
Tôi bơi trong thênh thang
Mắt ngút tầm xa
Gọi tất cả lại gần.
Không phải ngẫu nhiên, mà bằng tài năng, thơ Bùi việt Mỹ đã được độc giả đón nhận. Ông cũng được Giải thưởng Cuộc thi thơ báo Người Hà Nội 2000 – 2001; Giải thưởng của Ủy ban Toàn quốc các Hội VHNT Việt Nam. Tôi, và chúng ta, cùng Bùi Việt Mỹ, “bơi trong thênh thang”, không phải là con đường “rộng thênh thang tám thước”, mà là “mắt ngút tầm xa” để “Gọi tất cả lại gần”.
Hà Nội, tháng 10/2024.
B.V.K