- Văn chương thế giới
- Cheslav Milos - Lương tri và bản sắc tâm hồn Ba Lan
Cheslav Milos - Lương tri và bản sắc tâm hồn Ba Lan
Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng:
2021-11-07 16:09:47
1536 lượt xem
NGUYÊN HÙNG
Nền thơ ca Ban Lan từng được rạng danh thế giới nhờ hai giải thưởng Nobel về văn học vào những năm cuối thế kỷ XX: 1980 là nhà thơ, nhà văn kiêm dịch giả Cheslav Milos, và mười sáu năm sau, 1996, là nhà thơ Vislav Shymborsky (1996). Đây là hai nhà thơ hàng đầu của Ba Lan và của nền thơ ca thế giới. Trong phạm vi bài viết này, chúng tôi xin giới thiệu vài nét về chủ nhân giải thưởng Nobel văn học năm 1980, nhà thơ Ba Lan Cheslav Milos.
KHỔ LUYỆN
Cheslav Milos sinh ngày 30 tháng 6 năm 1911 tại thành phố Sheteiniai thuộc Litva, lúc bấy giờ thuộc nước Nga Sa hoàng. Bố mẹ ông đều là người gốc Ba Lan, sống ở một nơi có nhiều dân tộc với nhiều tập quán khác nhau; điều đó giúp Cheslav có thể nói không chỉ bằng tiếng Ba Lan mà còn bằng tiếng Lít-va, tiếng Do Thái và cả tiếng Nga.
Năm 1914, khi quân đội Đức xâm chiếm Lít-va, bố Milos bị sung lính, và gia đình Milos cùng với quân đội Nga hoàng bắt đầu cuộc hành trình về phương đông. Họ bị phiêu dạt suốt trong 6 năm nặng nề bởi các cuộc chiến tranh và binh biến.
Sau chiến tranh gia đình Milos dọn đến Vilno (bây giờ là Vilnius). Năm 1921, khi Milos bắt đầu đến trường, Vilno được sáp nhập vào Ba Lan. Sau bảy năm chăm chỉ học tiếng La tinh, vào năm 1929 Milos được vào trường đại học tổng hợp ở đây. Dù tự tin vào năng khiếu thơ của mình, chàng thanh niên Milos lúc bấy giờ cuối cùng đã quyết định theo học luật. Tác phẩm thi ca đầu tay của anh “Trường ca về một thời băng giá” được xuất bản vào năm 1933.
Năm 1934, sau khi tốt nghiệp bằng luật, Milos được cấp học bổng và sang Paris nghiên cứu văn học. Tại đây anh đã tạo được mối quan hệ gần gũi với người bác Oskar Milos, nhà ngoại giao đồng thời là nhà thơ. Quãng thời gian một năm ở Paris đã đóng vai trò quan trọng trong cuộc đời Milos - nhà thơ. Sau này ông nhớ lại rằng, Oskar Milos “đã chỉ ra sự cần thiết của việc khổ luyện trong tất cả các vấn đề liên quan đến hoạt động tri thức và nghệ thuật”. “Và điều quan trọng nhất - Milos hồi tưởng - ông đã dạy tôi không được tuyệt vọng trước ngưỡng cửa của các thảm họa đang lơ lửng”.
NHÀ THƠ CÓ NGHĨA LÀ TRANH ĐẤU
Sau khi trở về Vilno, năm 1936 Molos xuất bản tập thơ thứ hai “Ba mùa đông” và nhận chức trưởng ban biên tập cho đài phát thanh. Tuy nhiên, chỉ sau một năm ông buộc phải thôi việc vì những quan điểm thiên tả của mình và chuyển đến Varsava. Đây là thời kỳ mà không khí chính trị ở Ba Lan chưa có gì được cải thiện. Hàng trăm năm nay biên giới Ba Lan luôn thay đổi bởi sự tranh giành của các quốc gia thù địch bên ngoài. Sau chiến tranh thế giới lần thứ nhất, Ba Lan giành được độc lập, nhưng đến cuối những năm 30 Hitler và Stalin đã ký mật ước về phân chia Ba Lan. Do lịch sử nặng nề với nhiều tổn thương mất mát, ý thức dân tộc của nhân dân đã tìm thấy sự thể hiện đầy đủ nhất không phải trong chính trị, mà chính trong văn học. Vì vậy nhà thơ ở Ba Lan chiếm một vị trí đặc biệt, và Mios tự coi mình chính là nhà thơ, chứ không phải một người cấp tiến hay một một người mác-xít như có người vẫn nghĩ.
Năm 1939, khi quân đội Đức chiếm đóng Ba Lan, và gây nên thảm kịch đối với đất nước, Milos với tư cách là một nhà thơ chân chính, đã đứng trên lập trường độc lập và đấu tranh chống phát-xít.
Milos tham gia tích cực vào phong trào Ba Lan kháng chiến, một trong những phong trào mạnh mẽ nhất ở châu Âu. Sự hủy diệt các làng quê Do Thái, mà ông là người từng chứng kiến, đã để lại dấu ấn không phai trong suốt quãng đời tiếp theo của ông.
Sau chiến tranh Milos làm việc trong cơ quan ngoại giao Ba Lan, trước tiên ở Washington, sau đó ở Paris. Năm 1951, ông ra nước ngoài và trở thành người lưu vong do không thể cam chịu trước sự “bóp méo sự thật” và sự chuyên quyền của nhà nước mới. Đến Paris, Milos viết “Trí tuệ nô dịch” (1953), gửi gắm những suy ngẫm về sự ảnh hưởng của chủ nghĩa độc tài đối với nhân cách của một người họa sỹ. Với “Trí tuệ nô dịch” Milos đã trở nên nổi tiếng ở phương Tây.
Cuộc sống lưu vong của Milos đã trải qua những năm tháng nặng nề và đau khổ; và như nhà thơ nói, khi phải rời xa mảnh đất quê hương và tiếng mẹ, khi phải xa cội nguồn và nhịp đập thơ ca, ông cảm thấy mình như một kẻ “thiếu sinh khí và bất lực”. Thời gian đầu không thể làm thơ, năm 1955 Milos cho xuất bản tiểu thuyết “Thung lũng Issy” viết về thời thơ ấu ở Lít-va, miêu tả số phận của những đứa trẻ vị thành niên. Cũng trong thời gian này, ông công bố tiểu thuyết “Cướp chính quyền”, tác phẩm sau đó được trao giải thưởng văn học châu Âu. Sau giải thưởng này, Milos đã có thể “nhấn ga và liên tục in sách”, nhưng vào năm 1960 ông đã phải rời Paris sang Mỹ vì bất đồng chính kiến với giới trí thức cánh tả ở Pháp. Chỉ một năm sau, Milos trở thành giáo sư ngành Slavơ học của Trường đại học tổng hợp Kalifornia ở Berkli, và năm 1970 ông nhận quốc tịch Mỹ.
Nỗi lo sợ của Milos, rằng ông không thể viết được trong điều kiện lưu vong, rất may đã tỏ ra là thừa. Trong những năm sống ở Mỹ, ông đã cho ra mắt một loạt các bản dịch từ tiếng Ba Lan, cũng như các bản dịch ra tiếng Ba Lan các tác phẩm của Uytmen, Shekspir, Milton, Eliot, Bodler, đồng thời cũng nhận được sự đánh giá cao cho các cuốn tự truyện, phê bình văn học và thơ.
TRỞ VỀ NƯỚC NHƯ MỘT NGƯỜI ANH HÙNG

Năm 1980 giải Nobel về văn học đã được trao cho Milos, “người với sự tiên tri dũng cảm đã chỉ ra thân phận nhỏ nhoi, không được bảo vệ của con người trong thế giới bị phân hóa bởi các xung đột”. “Thế giới qua sự miêu tả của Milos là thế giới mà ở đó đang sống con người sau khi bị xua đuổi khỏi thiên đường”.
Milos được coi là một trong những nhà thơ Ba Lan vĩ đại nhất, và theo đánh giá của Ioxif Brodsky - nhà thơ, dịch giả, nhà phê bình văn học, giải thưởng Nobel văn học năm 1987, “có thể ông là nhà thơ vĩ đại nhất của thời đại chúng ta”. Tại châu Âu, danh tiếng Milos ngày càng được nhiều người biết đến qua các bản dịch sách của ông. Riêng ở Ba Lan, trong những năm các tác phẩm của ông bị cấm thì chúng vẫn được bí mật phổ biến trong nhân dân. Trước khi được tặng thưởng giải Nobel nhà thơ trở về nước và được đón tiếp như một người anh hùng dân tộc.
Thơ ca Milos gây được thiện cảm bởi tính đa dạng của đề tài và sự phong phú về tri thức, sự kết hợp giữa lý trí và tình cảm, tính hình tượng và biện chứng, sức mạnh của đạo lý và niềm tin. Thơ ca Milos chịu ảnh hưởng của các truyền thống văn hóa khác nhau ở Đông Âu: quê hương Ba Lan của ông, đạo Ky-tô giáo, đạo Do Thái, chủ nghĩa Mác-xít; người đọc có thể thấy trong thơ ông toàn bộ lịch sử đẫm máu của thế kỷ XX và kinh nghiệm khổ đau của kiếp lưu vong.
TÁC PHẨM CHÍNH
Thơ: «Cứu vãn» («Ocalenie», 1945), «Ánh sáng ban ngày» («Światło dzienne», 1953), «Bài luận thi ca» («Traktat Poetycki», 1957), «Thành phố không tên» («Miasto bez imienia», 1969), «Điều đó» («To», 2000); Văn xuôi: «Trí tuệ nô dịch» («Zniewolony umysł», 1953), «Châu Âu thân thích» («Rodzinna Europa»), «Mảnh đất Urlo» («Ziemia Urlo», 1977), «Lịch sử văn học ba Lan» («Historia literatury polskiej», 1969), «Một khoảng trời khác» («Druga przestrzeń», 2002).
Bằng tài nghệ của mình Milos đã tìm được lời giải cho vấn đề bức thiết nhất của thời đại: “làm thế nào để mang nổi gánh nặng ký ức về lịch sử và không rơi vào tuyệt vọng?”. Nhà phê bình văn học Paul Tsveig nhấn mạnh, “Milos luôn tin tưởng rằng, thi ca không chỉ đơn thuần là mỹ học, nó còn là phạm trù đạo đức, rằng nó phải biến nỗi đau của những con người cá thể thành những giá trị có thể giúp họ thoát khỏi chủ nghĩa hoài nghi và sự giận dữ vì bất lực”.
Cheslav Milos mất ngày 14 tháng 8 năm 2004 tại Krakov, thọ 93 tuổi.
---------
Maria Yanion (Ba Lan), nhà nghiên cứu văn học: “Thơ văn của Milos là một dạng bách khoa toàn thư của thế kỷ này. Nếu liệt kê các đối tượng nghiên cứu cho toàn bộ sự nghiệp sáng tác phong phú của ông, thì có thể thấy rằng dường như ông không né tránh bằng cách im lặng trước bất cứ một đề tài nào trong các lĩnh vực triết học, tôn giáo, văn học…Tôi luôn mơ ước viết một bài luận về ông dưới tiêu đề “Cheslav Milos và xu thế của thời đại”, qua đó muốn nói lên vai trò nhà thơ có một không hai của ông ở Ba Lan – như bánh lái của một con tàu. Có thể, với cái chết của ông, thì kỷ nguyên của các nhà thơ như ông cũng sẽ kết thúc”.
Ryshard Krynitsky (Nga), nhà thơ, dịch giả, nhà xuất bản: “Milos là một trong những nhà thơ vĩ đại nhất của thế kỷ đáng sợ nhưng đôi khi cũng rất kỳ diệu này, cùng với Rillke, Stvetaeva, Stelan, Eliot, Oden, Amikhai và Herbert…Thế giới vừa mất đi một nhà thơ, người biết cách nói lên kinh nghiệm nặng nề nhất của thế kỷ và không e sợ đụng chạm đến những đề tài phức tạp nhất, đớn đau và bi thảm nhất…”.
Imre Kertes (Hungari), giải thưởng Nobel về văn học: “Cheslav Milos đã và sẽ mãi là lương tri của nhân dân Ba Lan (…) Đối với những người Lít-va và Ba Lan, mối quan hệ với châu Âu luôn là sự thử thách về khía cạnh đạo đức và luân lý. Milos đã dám đối mặt với những vấn đề như thế…”.
Brigitta Trotsig (Thụy Điển), Viện Hàn lâm Thụy Điển: “Từ thế giới của bạo lực và tăm tối đã xuất hiện những nhân chứng của thời đại, những người chứng kiến lịch sử và cuộc sống như chính bản thân chúng vốn có. Milos là một nhân chứng như thế. Đối mặt những thời điểm tồi tệ nhất của lịch sử Âu châu ông vẫn kiên định tiến lên bằng một lối đi hẹp của những thể nghiệm thơ ca… Trong thời gian nghiệt ngã nhất của cuộc đời, Milos vẫn không ngừng sáng tạo, ông là một trong những nhà thơ lạc quan và vĩ đại nhất của nền văn học đương đại. Mà những người như thế không nhiều…”
Nguồn tư liệu chính:
- Bách khoa toàn thư về những người được trao giải Nobel (tiếng Nga);
- Tạp chí “Nước Ba Lan mới” (tiếng Nga);
- Hợp tuyển “Các nhà thơ Ba Lan thế kỷ XX” (tiếng Nga).
Bài viết liên quan
Xem thêm
Cuộc đời vẫn đẹp
Buổi sáng tôi thường dậy sớm để đi làm. Tôi thích nghe tiếng chim hót nên trên đường hay ngước mắt dõi theo những cánh chim dang rộng bay đi bắt côn trùng. Những chú chim sẻ ấy là các bạn đồng hành, giúp tôi thư giãn trước khi đến quảng trường nơi có thư viện mà tôi làm việc.
Xem thêm
Chùm thơ Trương Chí
Nhà thơ Trương Chí (张智, tên tiếng Anh: Zhang Zhi), sinh năm 1965 tại thị trấn Phượng Hoàng, huyện Đan Ba thuộc Châu tự trị dân tộc Tạng Cam Tư, tỉnh Tứ Xuyên, Trung Quốc. Ông là nhà thơ, nhà phê bình văn học, nhà xuất bản, dịch giả uy tín của văn học Trung Quốc đương đại. Trương Chí là tiến sĩ văn học. Hiện là chủ tịch Trung tâm Nghiên cứu và Dịch thuật quốc tế. Tổng biên tập Tạp chí Xuất bản Thơ quốc tế hàng quý (đa ngôn ngữ) và ấn bản tiếng Anh của Niên giám Thơ thế giới, đồng thời là cố vấn cho Trung tâm Toàn cầu hóa Thơ Trung Quốc bằng các ngôn ngữ quốc tế. Từ năm 1986, ông bắt đầu công bố tác phẩm văn học và dịch thuật của mình. Tác phẩm của ông đã được dịch ra hơn 40 thứ tiếng quốc tế. Trương Chí từng đoạt giải thưởng Văn học của Hy Lạp, Brazil, Mỹ, Israel, Pháp, Ấn Độ, Ý, Áo, Lebanon, Macedonia, Nga, Nhật Bản, Ai Cập, Bỉ, Armenia và Kyrgyzstan. Các tác phẩm chính của ông bao gồm các tuyển tập thơ: Receita (tạm dịch: Mùa thu hoạch - Tiếng Bồ Đào Nha-Anh-Trung), Selected Poems of Diablo (tạm dịch: Những bài thơ chọn lọc của Diablo - Tiếng Anh), Poetry by Zhang Zhi (tạm dịch: Thơ Trương Chí - Tiếng Đức-Anh-Bồ Đào Nha), Những bài thơ chọn lọc của Diablo (tiếng Trung-Anh), A Jigsaw Picture of the World (tạm dịch Bức tranh ghép hình thế giới - Tiếng Albania), Feu Follet On Paper (tạm dịch: Làm yêu tinh trên giấy - Tiếng Ả Rập), Poison (tạm dịch: Chất độc - Tiếng Ả Rập) và The Mirror Image of Ghost City (tạm dịch: Hình phản chiếu của thành phố ma - Tiếng Serbia), Tuyển tập phê bình thơ có tựa đề Loạt bài tiểu luận về các nhà thơ Trung Quốc tiên phong, và bản dịch thơ A & 1 is the Founder (tạm dịch: A & 1 người sáng lập - Tiếng Anh-Trung), Tuyển tập các bài thơ của Tareq Samin (tiếng Anh-Trung), My Secret Lover, You (tạm dịch: Em, người tình bí mật của anh - Tiếng Trung), và dịch tiểu thuyết Назови имя бога của Savitskaya Svetlana Vasilievna, LB Nga (tạm dịch: Xưng danh Thiên Chúa - Tiếng Nga-Trung), v.v. Ngoài ra, ông còn biên tập cuốn sách Thơ chọn lọc của các nhà thơ quốc tế đương đại (tiếng Anh-Trung), Thơ Trung Quốc chọn lọc thế kỷ 20 (tiếng Trung-Anh), Từ điển các nhà thơ quốc tế đương đại (đa ngôn ngữ), Sách giáo khoa Trung-Anh: 300 bài thơ Trung Quốc đổi mới (1917 - 2012), và Kinh điển thế kỷ: 300 bài thơ Trung Quốc đổi mới (1917 - 2016), v.v.
Xem thêm
Mở vòng tay tình yêu | Chùm thơ Bill Wolak (Mỹ)
Bill Wolak là nhà thơ, nghệ sĩ tranh cắt dán kiêm nhiếp ảnh gia. Ông sinh sống tại New Jersey (Mỹ) và đã xuất bản 18 tập thơ.
Xem thêm
Quyền năng biến đổi của Ruth- truyện ngắn Suchen Christine Lim
Suchen Christine Lim sinh năm 1948 ở Malaysia. Bà lớn lên ở cả hai phía của eo biển ngăn cách Malaysia khỏi Singapore. Bà đến Singapore năm 14 tuổi, học ở Tu viện của trường Holy Infant Jesus, và sau đó là Đại học Quốc gia Singapore. Bà dạy ở một trường cao đẳng và làm chuyên viên thiết kế chương trình giảng dạy ở Bộ Giáo dục. Suchen nghỉ việc vào năm 2003 để dành toàn thời gian cho viết lách.
Xem thêm
Luận về thơ của Yi-Soo Byeon (Hàn Quốc)
Thơ là điều gì đó xảy ra ngay khi bạn thức dậy sau giấc ngủ. Giống như việc bạn mở mắt ra, đi trên mặt nước và ném mình vào một thứ gì đó.
Xem thêm
Gió rì rào trò chuyện - chùm thơ Soad Al-Kuwari (Qatar)
Tác giả là Cố vấn Văn hóa tại Bộ Văn hóa Qatar Điều phối viên Phong trào Thơ Quốc tế tại Qatar
Xem thêm
Chùm thơ Khasanboy Kholmirzaevich Gayubov (Cộng hòa Tajikistan)
Gốc cây thuở ấy lắng ngheNơi tôi thường vẫn đi về ngày xưaVà em, chuyện thật như đùaBây giờ chỉ đến trong mơ một lần.
Xem thêm
Du khách kiên định trong vũ trụ thi ca
Đó là cách người ta nói về Rodica Marian – tác giả cuốn thơ “Khoảnh khắc can đảm”.
Xem thêm
Chùm thơ Rida K Liamsi
Nhà thơ Rida K Liamsi sinh ngày 17/7/1943 tại Dabosingkep, thuộc quần đảo Lingga, tỉnh Đảo Riau, Cộng hòa Indonesia. Ông đã xuất bản 6 tập thơ: ODEX (1971), Tempuling (2003), Kelekatu (2007), ROSE (2003), Secangkir Kopi Sekanak (2017) và Sungai Rindu (2020). Thơ của ông được in trong nhiều tuyển tập cùng với các nhà văn, nhà thơ khác. Cuốn sách có tựa ROSE đã nhận được giải thưởng của Viện Ngôn ngữ quốc gia Indonesia năm 2018. Rida cũng là tiểu thuyết gia, đã xuất bản một số cuốn sách: Bulang Cahaya (2007), Megat (2016)...
Xem thêm
Chùm thơ Abdukakhor Kosim (Cộng hòa Tajikistan)
Nhà thơ Abdukakhor Kosim (tên đầy đủ: Abdukakhor Sattorovich Kosimov), sinh ngày 27/1/1965, tại trang trại bang Kuibyshev, thuộc vùng Vakhsh, Cộng hòa Tajikistan, trong một gia đình làm nghề thợ rèn. Ông đồng thời là nhạc sĩ, nhà báo uy tín của Tajikistan.
Xem thêm
Yevgeny Chigrin (LB Nga) - Mai Văn Phấn dịch từ tiếng Nga
Yevgeny Chigrin là một trong những nhà thơ đương đại uy tín của LB Nga
Xem thêm
Chùm thơ của Mahmoud Drwwish, nhà thơ lớn của Palestine
Mahmoud Darwish là một nhà thơ người Palestine và là một trong những nghệ sĩ hàng đầu của thế giới Ả Rậ
Xem thêm
Vẫn đắm chìm trong nỗi buồn khao khát | Chùm thơ của một thời đã xa
Chùm thơ Nga do Đinh Nho Tuấn chueyển ngữ
Xem thêm
Chùm thơ Rodica Marian (Rumani)
Là một tiến sĩ Ngôn ngữ học, thành viên của Hiệp hội Nhà văn Romania, bà là cộng tác viên khoa học cấp cao của Viện Ngôn ngữ học và Lịch sử Văn học Sextil Pușcariu ở Cluj Napoca.
Xem thêm
Chùm thơ của Yang Geum-Hee’s – Hàn Quốc
Nữ sĩ Yang Geum-Hee sinh năm 1967 tại Jeju, Hàn Quốc
Xem thêm
Chùm thơ Aminur Rahman (Bangladesh)
AMINUR RAHMAN được coi là một trong những nhà thơ nổi tiếng nhất ở nước ngoài đến từ Bangladesh.
Xem thêm
Chùm thơ Chad Norman (Canada)
Nhà thơ Chad Norman là một thành viên của Liên đoàn các nhà thơ Canada.
Xem thêm