- Lý luận - Phê bình
- Đọc thơ của một luật sư
Đọc thơ của một luật sư
BÙI VIỆT MỸ*
(Vanchuongthanhphohochiminh.vn) - Tôi đã được đọc tập thơ đầu tay của Thái Hưng với cái tên rất thơ: ĐI QUA MÙA THU - Nxb Hội Nhà văn 2024; Rồi một số bài in chung trong tập: Bằng lăng tím lối Mễ Trì cùng với nhiều tác giả khác, lại đôi khi thấy thơ anh trên báo, chí, đậm nhất là tờ Thời báo Văn học nghệ thuật giới thiệu chân dung tác giả. Đọc qua, chợt có cảm nhận nhẹ nhàng, song ngẫm ngợi, thấy chất nhân tình thấm đẫm, cuốn hút. Chắc chắn phải là giọng của người đã từng đi qua nhiều mùa thu xao xác lá...

Nhà thơ Thái Hưng
Nguyễn Thái Hưng nguyên là sinh viên Khoa Văn - Đại học Tổng hợp Hà Nội, sau anh còn học Luật, làm Kiểm sát viên lâu năm. Là Luật sư, nên chất thơ mang mạch nguồn của những quan hệ cuộc sống đa chiều. Đôi khi anh nhặt ra quãng ngơi nghỉ chọn lọc lấy chất lãng mạn của hiện tượng và sự việc mà suy tưởng sâu, thành lời.
Còn nhớ ở ngay tập đầu tay, Thái Hưng đã quan niệm về thơ khá sâu nặng. “Thơ tìm ta trú ngụ”, mà ta thì nghèo, xót xa đến trắng ngọn cỏ, người có thể chết còn thơ thì không. Điều này với Thái Hưng cũng chỉ được rút ra, cô đặc lại từ kinh nghiệm xương máu của người cha:
Con ơi!
Thơ không tắt thở
Thơ không cần vuốt mắt như bố
Thơ hóa thạch ở lòng người!
Thơ vận người. Nhưng người - đến lúc nào đó - nhất định rồi sẽ nhắm mắt, từ giã thế gian, còn thơ thì vẫn cứ thức chong chong cùng tuế nguyệt.
Bạn đọc ngày nay - nhiều người rất thích lối sáng tác thiên về bố cục và coi đó như một cách đổi mới, bứt phá. Thái Hưng nằm trong trường hợp ấy, ham chất chứa nội dung mà nhẹ đi độ bóng bảy cần thiết? Câu thơ hàm xúc, đầy đặn một tâm trạng, Tâm trạng đến từ lòng chân thành. Chúng ta đọc, thực sự thấy có một sức hấp dẫn tự nhiên - như thơ tự bản năng vậy.
LÁ THAY MÙA là tập thơ thứ hai của anh. Vẫn một cái tên thơ nhè nhẹ như thế. Qua Thu, sang Đông rồi mùa Xuân sẽ đến. Và quả nhiên ta gặp một tập thơ mới này với tiết khí ấm áp, dịu êm hơn. Hay nói cách khác, nếu ở tập thơ trước, hồ nước thiếu vẻ xanh trong còn nguyên đấy thì hôm nay nó mượn gió mà bay dần lên. Giống như phận quả, vắt lấy từ khô khát mà thơm.

Tập thơ Lá thay mùa của nhà thơ Thái Hưng
Chúng ta dễ nhận được ở đây một nỗi buồn man mác phận người. Nỗi buồn ấy như nó được chọn làm tư tưởng chủ đạo theo dọc tập thơ. Đó như là quê bây giờ, là lá và chim, là đất và đá, là sông và suối, là gió và nắng là ngày và đêm, và hơn thế nữa, là bồng lai và trần đời, là nỗi đau và sự mòn mỏi...cứ thế, nó đan xen vào nhau, nó bỡn cợt và giận dỗi. Tuy vậy, Thái Hưng không buông bỏ theo những quan niệm đã cũ mà nhìn về mối quan hệ gốc theo một hướng lạc quan, như anh nói với rau Răm khi Cải đã bay về trời:
...Lời ru ngọt ánh trăng gieo
Cũng thôi! Mặc với trời cao, gió ngàn
Lệ buồn thở ấy chứa chan
Làm sương đầu núi mát sang lá gầy
Giữ cho mình chút đắng cay
Có cay, cay hết kiếp này - Thôi em!
Bởi vì, với cải thì nên là: Về giời, gió rủ thì đi? Nhân gian ở nữa, lỡ thì đấy em! Theo cái lôgic này, chúng ta thấy có một hướng luận đề khá thú vị, rằng phận gái cần chọn lấy cơ hội để “trao thân gửi phận”, chứ kén chọn mãi rồi sẽ lại ‘lỡ thì” …mất thôi!
Có nhiều chiều hướng khác nhau, song loạt bài nặng về thân phận là trội nhất trong thơ Thái Hưng. Có lẽ trong đời sống xã hội muôn màu muôn vẻ thì tích lại trong tâm thức anh chính là những mảnh đời gian nan, oan khuất, đau thương…Hiểu để đồng cảm, hay là chính bản thân Luật sư cũng sống trong hoàn cảnh đó thì mới tìm ra lối thoát cho từng mảnh vỡ khác nhau. Vậy nên, Thái Hưng - dù viết về điều gì hay viết như thế nào thì rốt cuộc vẫn cứ phảng phất cái thân phận khốn khó của con người. Tôi cũng đồng nhất với nhận định của Nhà thơ, nhà phê bình văn học Phạm Đình Ân là: “thơ Thái Hưng có tình yêu thuần phác nam - nữ, có tình quê hương thôn dã, có hình ảnh người mẹ, có thế sự đời thường và cả tầm quốc gia”. Bạn đọc không thể không tập trung sự chú ý đến bốn bài về mẹ đậm đà, sâu lắng tình yêu thương, ba bài về người chị mến thương ngày đêm, xót xa về người chồng là liệt sĩ - cùng những bài khác đề cập thân phận người phụ nữ. Bài Mẹ tôi có những khổ thơ xúc động:..Nào buồng cau, cơi trầu hay mớ lạc/ Nhịp hải hà quay quắt rổ nan tre./Gió nồm nam võng trĩu cả trưa hè/ Buổi chợ muộn nắng hong vàng nón lá/ Đêm bão giật nhà không còn mái nữa/ Chái bếp nghèo mẹ ấp ủ che con”.
Thái Hưng khá tinh tế trong việc sử dụng hình ảnh và nhịp điệu để làm mềm hóa những cụm từ gồ ghề. Có lẽ ở đây không có sự cố ý nào trong cách sắp đặt mà tự nó cứ dồn nén và bộc lộ tự nhiên như người gieo trồng có nghề thôi. Những câu, những đoạn thơ hay, lấp lánh ở khá nhiều bài như:
Nhóm bài tình quê hương, đất nước:
… Ừ quê đấy, mấy mùa chưa về nữa
Mới mơ thôi, sóng lúa đã quanh nhà
Và cây táo vãi trời hoa xuống ngõ
Bạc đầu rồi con nhớ lắm…quê xưa.
(Là Quê đấy)
Mùa thu để lá bơ vơ
Câu thơ che mãi vẫn chưa kín người
Xin đừng rơi nữa lá ơi
Buồn thu không lá …sầu người lỡ yêu.
(Lá rơi).
Trăm năm trăng khuyết, núi mòn
Lúa đồng mẹ hát như còn ngậm sương.
(Cõng Mẹ đi chơi)
Theo lẽ thường, Thái Hưng tất nhiên dịch chuyển trạng thái đúng bản ngã của mình. Anh nhìn sâu vào từng ý nghĩ với sự chuyển động của nó. Cái hồn ở bên trong một thực thể sẽ trôi về phía nào, tìm chỗ trú ngụ nào là tùy theo ý thức của mỗi con người chứ không phải “vật tự nó” đặt không đúng chỗ. Ví như với một phù điêu thiếu nữ đơn lẻ kiểu “nữ thần” ở biển thì: Hải Tiến chiều thu biển vắng/ Sóng xô bờ đá vô hồi/ Thiếu nữ mình trần vẫn đứng/ Bên bờ vời vợi đơn côi. Và để rồi: Lại sắp thêm mùa đông nữa/ Vắng người, biển bỏ ra khơi/ Thiếu nữ mình trần vẫn đứng/ Gió thương u ú… về trời. Có phải cái “u ú” kia là ý thức của nhà thơ trước không gian thiếu nữ ấy? cái u ú vô tích sự của trời đất được tạo ra để gắn với cái gọi là niềm thương! Tưởng chừng đều vô hồn cả, nhưng rồi, một điều tích cực của thân phận đã cứu rỗi:
Đó là em gác canh hay chờ đợi
Đó là tôi tìm đến hay bỏ đi
Ngôi sao đỏ cháy bùng trên mặt cỏ
Ngọn đèn em, hoa lửa đỡ tim mình.
Chỉ có điều, những muốn như thế mà nào được thế! Trong tôi bỗng hiện lên câu thơ Thái Hưng viết về chính chị dâu mình là vợ liệt sĩ: Trái tim thương chín cả trời/ Khát khao như lửa mà đời biết đâu/ Một mình cằm cặm đêm thâu/ Câu thơ như tượng Mị Châu cụt đầu…Và nhẽ ấy, cuối cùng, như bao người đời vậy, anh tìm đến một miền xa hơn - nơi có tiếng chuông và bóng Bồ đề - cho dù anh cũng không muốn đưa nhân vật của mình đến đó. Có người từng đợi mà hóa đá/ Đâu phải chờ người dóng - mới ngân nga!- câu thơ tượng hình, tượng thanh, viết thế mới khéo.
Sau tất cả, tất cả cảm thông, nhường nhịn cho gia đình, anh em, bạn bè, cho quê hương đất nước, Thái Hưng muốn nhận về cho mình một phần, dù chỉ là chút hy vọng nhỏ thôi:
Đêm No-en
Anh không được cùng em
Cũng chẳng cần Cha rửa tội
Vì tình yêu không bao giờ có lỗi
Dù em lỡ hẹn nhiều… như đêm No-en!..
Một lối viết giàu suy tưởng bằng cách sử dụng kết hợp tính ước lệ cao. Nhiều như đêm No-en - những đêm cuối năm chờ đợi ấy, năm nào cũng lỡ hẹn cả hay là chỉ có một, hai lần thôi nghĩ cũng đã nhiều lắm rồi.
Và, có một ngoại lệ rằng, tập LÁ THAY MÙA được in ra vào những ngày tháng đầu của quê hương hòa nhập theo địa giới hành chính mới. Những kỷ niệm xưa đan xen với hy vọng nhịp sống mới. Có chút vương vấn, man mác về nơi gắn bó máu thịt của mình - âu cũng là cái lẽ của thơ:
Ừ vẫn thế quê ơi, xanh vẫn lúa
Biển Đồng Châu lồng lộng ráng mây hồng
…
Lại tha thiết tự hào - đây phố Hiến
Với nhãn lồng, sông Luộc, bến Triều Dương…
Những vần thơ mà chúng tôi trích dẫn trên đây, có lẽ bạn đọc cũng tự đánh giá, nhìn nhận về những gì làm nên nghệ thuật thơ Thái Hưng trong dòng mạch tư tưởng đầy chất nhân văn ấy. Chúng ta hãy cùng đọc ở thơ anh trong tập này.
Đầu Thu, 8/2025.
B.V.M
* Nhà thơ Bùi Việt Mỹ - Phó Chủ tịch Hội Nhà văn Hà Nội
* Nguyễn Thái Hưng
-Nhà văn Hà Nội
-Luật sư-TW Hội luật gia Việt Nam
-Tác phẩm đã xuất bản:
+ Đi qua mùa thu- NXB Hội Nhà văn -2024
+ Bằng lăng tím lối Mễ Trì -NXB Hội Nhà văn-2024 (In chung nhiều tác giả);