TIN TỨC

Quyền năng biến đổi của Ruth- truyện ngắn Suchen Christine Lim

Người đăng : phunghieu
Ngày đăng: 2023-09-16 23:00:30
mail facebook google pos stwis
490 lượt xem

Suchen Christine Lim sinh năm 1948 ở Malaysia. Bà lớn lên ở cả hai phía của eo biển ngăn cách Malaysia khỏi  Singapore. Bà đến Singapore năm 14 tuổi, học ở  Tu viện của trường Holy Infant Jesus, và sau đó là Đại học Quốc gia Singapore. Bà dạy ở một trường cao đẳng và làm chuyên viên thiết kế chương trình giảng dạy ở Bộ Giáo dục. Suchen nghỉ việc vào năm 2003 để dành toàn thời gian cho viết lách.

Truyện được Trương Thị Mai Hương dịch từ nguyên bản tiếng Anh.

Nhà văn Suchen Christine Lim

Lần đầu tiên để ý đến Ruth trong tu viện, tất cả những gì tôi thấy nằm cuộn tròn như một bào thai trên chiếc bàn lớn bằng ván là một người phụ nữ tóc tối màu, cỡ người như một đứa trẻ 9 tuổi, da bọc xương đã biến dạng nghiêm trọng. Người khoác đồ len dày, cô ở trong trạng thái đông cứng. Cô không thể di chuyển mà cũng không nói được.

“Đây là con gái tôi, Ruth,” Helen, trưởng nhóm thiền của chúng tôi nói.

Năm đó tôi bay tới Denver, Colorado, trong lòng vẫn sôi sục căm giận. Vì nóng lòng muốn quên đi cõi lòng tan nát, tôi quyết định tham gia một khóa tu thiền ẩn dật hai tuần ở Tu viện Benedictine ở Snowmass. Tôi thuê một chiếc xe và lái lên dãy Rocky tới thị trấn Aspen, nằm ở 2400 m trên mực nước biển.

Thật là điên rồ. Tôi chưa từng đi đâu một mình bao giờ. Lawrence sẽ không chấp nhận chuyện đó đâu. Mà tôi cũng chưa bao giờ lái xe lên núi nên tôi chả nghĩ ra được là giữa tháng ba vẫn còn là mùa đông ở Rockies.

Nửa đường lên núi trời bắt đầu đổ tuyết lớn. Sáng hôm sau, Aspen trông như một cảnh lấy ra từ một tấm thiệp Giáng Sinh, toàn bộ đều bao phủ bởi tuyết, còn Helen thì đang chờ để đưa tôi đến tu viện.

“Cô Sarah Verghese phải không?” một người phụ nữ Mỹ mập mạp mặc áo khoác da nâu và mang ủng bắt tay tôi. Cái bắt tay của bà ấy ấm áp và đôi mắt xám của bà ấy cũng vậy.

“Nào, để tôi giúp.”

Với một động tác vung tay khéo léo, bà ấy đã lẳng được cái vali nặng trịch của tôi vào cốp chiếc xe hai cầu của mình rồi. Tôi há hốc, “Cô làm vậy thì sụn lung mất.”

Trông bà ở độ tuổi 60, hơn tôi 20 tuổi, thế mà bà nâng cái vali của tôi lên như thể nó là một túi đồ tạp hóa. “Đừng lo. Tôi quen rồi. Mình đi nhé.”

Tu viện nằm trong một thung lũng cao bao bọc bởi rừng cây và những ngọn đồi tuyết phủ. Có một kí túc xá, một nhà nguyện và vài ngôi nhà tranh nằm tách biệt vốn là nơi ẩn dật dành cho những ai muốn suy ngẫm một mình. 20 người chúng tôi thuộc nhiều độ tuổi và từ khắp nơi trên thế giới sẽ ở trong kí túc xá. Không ai theo đạo hết.

Sau này tôi mới biết được là có vài người theo Hội Giám lí, thuyết Calvin hoặc theo Giáo hội Trưởng lão. Tu viện này chào đón tất cả mọi người, nhưng họ phải tuân theo một nguyên tắc đơn giản – đó là luôn luôn im lặng khi ở trong nhà.

Sáng hôm sau chúng tôi bị đánh thức vào 4 giờ 30 bởi tiếng chuông nhẹ. Tới 5 giờ, chúng tôi đi vào phòng thiền được thắp sáng dìu dịu. Helen đã ngồi trên tấm đệm của mình rồi. Trên đường chở tôi tới đây bà đã kể là mình sống trong làng dưới kia cách đây vài dặm. Tôi nghĩ là bà sẽ phải dậy trước 4 giờ rưỡi để lái xe lên dãy núi tối tăm để đến được tu viện trước 5 giờ, và trong cái lạnh cắt da cắt thịt nữa, vì tuyết rơi cả đêm qua.

Chúng tôi ngồi trên đệm trên sàn nhà, người quấn khăn choàng và chăn dày cộp. Một bức tường trong phòng được làm hoàn toàn từ kính từ sàn tới trần, tôi có thể thấy là bên ngoài tối như hũ nút khi Helen rung chuông, và tôi nhắm mắt lại.

Khi tôi lại mở mắt ra trước tiếng chuông thì bầu trời vẫn tối thui. Chúng tôi đứng dậy và chậm rãi đi quanh phòng để giãn chân trước khi ngồi nữa. Vài người tới sau nháo nhào đi vào và chúng tôi lại ngồi thêm nửa giờ nữa tới 6 giờ. Tới lúc đó, một thứ ánh sáng ảm đạm nhàn nhạt đã xuyên qua bức tường kính, còn những bụi cây tuyết phủ bên ngoài ánh hồng. Chúng tôi lặng lẽ lần lượt đi ra khỏi phòng tới nhà bếp kiêm phòng ăn nơi có một cú sốc đang chờ.

Cuộn mình nằm nghiêng ngái ngủ trên chiếc bàn ván ghép là người phụ nữ toàn da bọc xương đó. Chúng tôi ăn sáng với bánh mì mới ra lò trong sự yên lặng khó chịu, đưa mắt yêu cầu người bên cạnh đưa giúp bơ hoặc mứt. Tôi cố gắng tránh không nhìn chiếc bàn.

Sự biến dạng nghiêm trọng của người phụ nữ đó khiến tôi đau đớn. Tôi không chịu nổi khi nhìn cô ấy, và tôi xấu hổ. Xấu hổ về nỗi đau đớn của mình. Tôi liếc nhìn những người khác. Không ai nhìn vào cái bàn hết. Không ai tới gần nó vào sáng hôm đó.

Tối đó, vì không thể chịu đựng nổi sự im lặng nữa nên vài người ra vườn nói chuyện. Một người phụ nữ từng ở ẩn trước kia kể chúng tôi biết là Ruth 36 tuổi, và cô ấy bị điếc. Tôi đi vào nhà. Tôi không muốn nghe nữa. Tôi không muốn nói về con người mang hình hài trẻ thơ bị biến dạng này. Lawrence cứ khăng khăng đòi phá thai khi người ta bảo chúng tôi là bào thai trong bụng tôi mắc phải những khiếm khuyết gen nghiêm trọng. Anh ấy nói không muốn có con.

Tôi không muốn nghĩ về Ruth. Thế nhưng không thể phủ nhận sự tồn tại của cô ấy được. Mỗi ngày cô ấy đều ở đây với chúng tôi, cuộn tròn trên chiếc bàn ván ghép khi chúng tôi dùng bữa và uống cà phê giữa các buổi thiền. Giờ ăn trưa nào chúng tôi cũng nhìn Helen, mẹ cô, bế cô như một đứa trẻ vào một căn phòng riêng để cho ăn và thay tã, còn trái tim chúng tôi tràn ngập nỗi xót thương Helen.

Vào buổi sáng thứ ba, tôi để ý thấy đôi mắt sẫm màu của Ruth dõi theo khi chúng tôi đi loanh quanh phòng ăn. Hôm sau nữa, tôi nghĩ mắt cô ấy nháy với tôi khi tôi đi ngang qua. Điều đó khiến tôi dừng lại. Khi tôi nhìn cô, mắt cô dường như mỉm cười dù không một khối cơ nào nhúc nhích trên khuôn mặt cứng đờ của cô.

Sáng hôm sau, tôi đứng ở chỗ cái bàn ván và cử động miệng nói ‘xin chào.’ Mắt cô dường như sáng lên khi nhìn thấy, và tôi thấy rất vui. Vào ngày thứ năm, tôi cúi xuống chỗ cô và thì thầm, “Xin chào, tôi đến từ Singapore.”

Từ đó trở đi, tôi quyết tâm dừng lại bên chiếc bàn như người khác để nói vài lời với Ruth dù người ta đã nói là cô ấy bị điếc.

“Tôi thấy một chú chim ngoài cửa sổ đấy,” tôi bảo cô vào một buổi sáng và chạm vào lòng bàn tay cô. Cảm giác động chạm đó làm tôi sốc và tôi rụt tay lại ngay. Những ngón tay gầy guộc của cô cứng đờ và cong lại như vuốt một con chim đã chết. Dù Ruth không thể nào nhìn thấy mặt tôi vì cô không quay đầu được, nhưng tôi vẫn cảm thấy mình phải xin lỗi.

“Xin lỗi Ruth,” tôi thì thầm, “tôi không quen chạm vào xương.” Tôi cố rặn ra một nụ cười vì nghe sướt mướt quá. Thế nhưng khi nhìn vào mắt Ruth, tôi biết là cô ấy hiểu lời xin lỗi vụng về này.

Mấy ngày tiếp theo tôi để ý thấy những người khác trong nhóm ngày càng quen thuộc với Ruth hơn. Cũng như tôi, họ nắm tay cô, vỗ lên người cô và khẽ cười với cô như thể họ nói chuyện với nhau vậy. Vào buổi sáng thứ chín, trong khi đang thì thầm điều gì đó với Ruth, tôi giật mình nhận ra mình đã không còn coi cô là một con người tàn phế dặt dẹo xấu xí nữa.

“Có thứ gì đó đã biến đổi trong tôi,” tôi thì thầm với cô. “Tôi không còn muốn lao tới thọc dao vào tim chồng mình nữa. Không muốn khiến anh ta cũng đau đớn như đã gây ra cho tôi. Tôi vẫn đau khổ, nhưng tôi không còn muốn trả thù nữa.”

Tới lúc đó, tôi cảm thấy rằng cái cơ thể vặn vẹo nằm trên bàn kia thực sự chứa lòng trắc ẩn đầy thông hiểu. Mỗi ngày tôi lại nhận ra là mình dừng lại lâu hơn một chút trước cái bàn. Có thể là lúc đó tôi đang nói cho mình nghe, thế nhưng khi nhìn vào đôi mắt sẫm màu của Ruth, chúng dường như ánh lên sự thấu hiểu. Thực tế thì trông Ruth có vẻ ít biến dạng hơn, không còn phải nhận lòng thương hại nữa. Tôi không tài nào miêu tả cô ấy là một bào thai người lớn da bọc xương được nữa. Cô ấy là một con người. Như tôi thôi.

Nghĩ lại mấy ngày câm lặng trong phòng ăn ở tu viện, tôi tin rằng sự hiện diện lặng lẽ của Ruth mỗi ngày ở đó buộc tôi phải nhìn nhận mọi thứ vượt qua mức thể xác thông thường. Mỗi ngày tôi đều nhìn thấy Helen mang cô con gái 36 tuổi như một đứa trẻ vào phòng riêng để cho ăn và thay tã trong nhặng xị ra sao như thể đó là một việc bình thường vậy. Sự tận tụy của Helen khiến tôi nhận ra được bản chất của tình yêu không điều kiện ràng buộc. Vào ngày cuối cùng ở đó, tôi thu hết can đảm hỏi Helen về Ruth, và đây là câu chuyện của họ.

Gia đình Ruth có sáu người. Helen là người nấu ăn trong tu viện trước khi trở thành trưởng nhóm thiền. Cha bà là thợ mộc. Khi các tu sĩ lần đầu tiên mời Helen tới tham gia nhóm lãnh đạo thiền ở tu viện, bà từ chối vì không thể để Ruth ở nhà cả ngày được. Các tu sĩ bảo bà là cứ mang Ruth tới tu viện luôn.

Sau đó, khi các tu sĩ khám phá ra là sự hiện diện của Ruth có tác động tích cực lên những người tới đây tu tập thì họ để Ruth trở thành một phần của nhóm lãnh đạo thiền và trả lương tháng cho cô luôn. Cha trưởng tu viện nói là Ruth có những bài học có thể dạy chúng ta.

Nhiều năm sau đó tôi đã tự hỏi là, chúng tôi đã học được bài học gì từ Ruth, một con người hoàn toàn không thể tự lo liệu cho bản thân và phụ thuộc vào người khác như một đứa trẻ sơ sinh, vậy mà vẫn có tác động biển đổi lớn lao đến người khác đến vậy.

Như một đứa trẻ sơ sinh.

Nguồn: digestablewords.wordpress.com

 

Bài viết liên quan

Xem thêm
Giới thiệu thơ Maria Teresa Liuzzo (Italia)
Khâu những vạt áoMột dòng nước phun tràoRằng gió thắt nútBước đi của một đứa trẻ
Xem thêm
Quá trình trưởng thành đầy sóng gió của nhà thơ đoạt giải TS Eliot
Lớn lên ở Jamaica, từng nghĩ bà ngoại là mẹ mình, khi bà đã dạy anh học chữ viết trên hiên nhà với bảng đen. Bây giờ Jason Allen-Paisant dự định bay tới Ethiopia để gặp cha lần đầu tiên.
Xem thêm
Chùm thơ Oleg Ananyev (Cộng hòa Belarus)
Nhà thơ Ananyev Oleg Valentinovich, sinh ngày 12/9/1955, tại thị trấn Mordovo, vùng Tambov (Nga). Sống tại thành phố Gomel (thành phố lớn thứ hai của Belarus) từ năm 1957. Ông tốt nghiệp khoa Ngữ văn, trường đại học tổng hợp Francysk Skaryna, Gomel. Oleg Ananyev từng là nhà thiết kế đồ họa, người đề xướng trong Hội Tri thức Belarus, giáo viên văn hóa nghệ thuật, mỹ thuật thế giới, giám đốc phòng trưng bày nghệ thuật của BSH, phó giám đốc Thư viện khu vực Gomel. Ông là hội viên Hội Nhà văn Belarus, Hội Nghệ sĩ Belarus, Liên đoàn Nhà văn và Nghệ sĩ quốc tế; đồng thời là nhà phê bình nghệ thuật, nhà văn, nhà báo, nhà viết kịch, nhà sử học địa phương. Oleg Ananyev là tác giả của một số tập thơ, người khởi xướng và tuyển chọn cuốn sách Исповедь в красках (tạm dịch: “Lời thú nhận trong màu sắc”, gồm 86 chương viết về các nghệ sĩ ở thành phố Gomel), Золотые купола (tạm dịch: Những mái vòm vàng. Viết về các nhà thờ ở Gomel); người khởi xướng và đồng tác giả dự án văn học nghệ thuật của Thư viện khu vực Gomel nhân kỷ niệm 70 năm Chiến thắng vĩ đại Живая память моей семьи (tạm dịch: “Ký ức sống động của gia đình tôi”), đồng tác giả của tuyển tập vở kịch Последователи Макаёнка (tạm dịch: “Những người theo dõi Makayonka”). Đạt giải trong hơn 10 cuộc thi văn học ở các hạng mục “thơ” và “văn xuôi” (trong đó có hai lần mang tên Kirill Turovsky – “báo chí”). Ông đã được Bộ Văn hóa Cộng hòa Belarus trao tặng Huy hiệu Danh dự “Vì những đóng góp cho sự phát triển văn hóa Belarus”.
Xem thêm
Giới thiệu thơ Tetyana Hrytsan-Chonka (Ucraina)
Tetyana Vasylivna Hrytsan-Chonka - là nhà văn, nhà giáo dục người Ukraina. Bà sinh ngày 29 tháng 4 năm 1964 tại làng Vilkhivtsi, hiện đang cư trú tại Zakarpattia, phía tây nam của Ukraina. Bà là hội viên của Liên minh Nhà văn quốc gia Ukraina, thành viên Học viện Văn học, Nghệ thuật và Truyền thông quốc tế Gloria (Đức) và Tổ chức Công cộng Ukraina Kobzar. Tác giả của 12 tập thơ, tiểu thuyết và tiểu luận Những cánh cửa sống, hay tôi là quả táo mù của nhiều thế kỷ. Tôi là đàn bà.... Là đồng tác giả của 77 tuyển tập và niên giám, cả ấn phẩm của Ukraina và quốc tế, bao gồm Article - Tel Aviv, Soul (tuyển thơ Nhật Bản), Brzegi ognia I Wody (niên lịch Ba Lan), tạp chí văn học nghệ thuật TextOver; tuyển tập thơ quốc tế Lili Marleen (tiếng Hy Lạp); tuyển tập thơ Trung Quốc Thơ thế giới; có mặt trong tuyển tập thơ chống chiến tranh bằng tiếng Anh Những bài thơ cho nhân dân Ukraina; đồng tác giả cuốn sách giáo khoa dành cho học sinh Ukraina lớp 5 & 7 “Văn học hiện đại quê hương”. Là tác giả của tập thơ Azerbaijan-Ukraina Quả táo vàng, cùng những tập thơ khác. Các tác phẩm của bà đã được dịch sang tiếng Ba Lan, tiếng Nhật, tiếng Trung, tiếng Ý, Thổ Nhĩ Kỳ, Hy Lạp, tiếng Anh, tiếng Azerbaijan và các ngôn ngữ khác. Bà là người Ukraina duy nhất tham gia tuyển tập Anatolian Wind IV - International Anthology (xuất bản ở Thổ Nhĩ Kỳ). Là người duy nhất tham gia dự án Tạp chí quốc tế “Thần đồng” (Hoa Kỳ) tháng 10 năm 2023 trong chu kỳ “Thức tỉnh. Bà là người giữ kỷ lục, người tham gia tuyển tập quốc tế “HYPERPOEM” với 2000 người tham gia, đã được ghi vào kỷ lục của sách Guinness. Là đồng tác giả văn học thế giới trên báo quốc tế “Quốc gia toàn cầu” (Bangladesh). Các tác phẩm của bà được xuất bản trên các ấn phẩm quốc tế. Bà tham gia vào nhiều diễn đàn quốc tế Các nhà thơ của thế giới vì hòa bình ở Ukraina ở Ý, Đức, Anh, Trung Quốc, Canada, Mỹ, Bangladesh và Đức. Giải thưởng Văn học Hòa bình quốc tế (Đức-Ukraina). Là người đoạt các giải thưởng quốc tế và Ukraina, đồng thời là người chiến thắng trong nhiều cuộc thi, trong đó, đoạt Giải thưởng Văn học và Nghệ thuật quốc tế mang tên Panteleimon Kulish (2020) cho cuốn sách văn xuôi Những cánh cửa sống, hay tôi là một quả táo mù của nhiều thế kỷ. Tôi là phụ nữ, đoạt giải Franz Kafka quốc tế (Frankfurt-Vienna-Prague), đoạt giải Chiếc lông vàng quốc tế tại Azerbaijan, được trao bằng tốt nghiệp của Cộng đồng Nhân vật Văn học và Nghệ thuật Gloria, và được liệt kê trong bảng xếp hạng năm 2022 Người sáng tạo và Người giám hộ. Bà còn đoạt Giải thưởng Văn học Nghệ thuật quốc tế danh dự mang tên Heinrich Böll (2022); đoạt giải Cuộc thi Văn học Nghệ thuật quốc tế Ernest Hemingway tại Đức năm 2022, đoạt giải “Ngoại giao Văn hóa” quốc tế; được trao tặng danh hiệu Trật tự thế giới “Sao vàng ngoại giao văn hóa” (2023); đoạt Giải Văn học quốc tế mang tên Robert Burns (Scotland-Mỹ, Los Angeles) năm 2023; đoạt Giải Văn học Nghệ thuật mang tên Vasyl Yuhymovych (2023); được tờ báo nổi tiếng thế giới The Daily Global Nation Independent, Dhaka, Bangladesh vinh danh “Đại sứ hòa bình quốc tế” (Đức-Mỹ, 2023); giải “Cây cầu vàng” của Quỹ Văn học quốc tế ở Kyrgyzstan, đoạt giải thưởng quốc tế mang tên Dka de Rishelle ở hạng mục “Sách của năm” cho cuốn sách “Thời đại khác nhau” (Đức-Ukraina, 2023); giải thưởng của Quỹ Rahim Karimov (2023) ); Chủ tịch Quỹ Văn học quốc tế; đoạt Giải thưởng Văn học quốc tế mang tên Theodore Dreiser (Art Marathon, Bồ Đào Nha, 2023) và một số giải thưởng khác.
Xem thêm
Cuộc đời vẫn đẹp
Buổi sáng tôi thường dậy sớm để đi làm. Tôi thích nghe tiếng chim hót nên trên đường hay ngước mắt dõi theo những cánh chim dang rộng bay đi bắt côn trùng. Những chú chim sẻ ấy là các bạn đồng hành, giúp tôi thư giãn trước khi đến quảng trường nơi có thư viện mà tôi làm việc.
Xem thêm
Chùm thơ Trương Chí
Nhà thơ Trương Chí (张智, tên tiếng Anh: Zhang Zhi), sinh năm 1965 tại thị trấn Phượng Hoàng, huyện Đan Ba thuộc Châu tự trị dân tộc Tạng Cam Tư, tỉnh Tứ Xuyên, Trung Quốc. Ông là nhà thơ, nhà phê bình văn học, nhà xuất bản, dịch giả uy tín của văn học Trung Quốc đương đại. Trương Chí là tiến sĩ văn học. Hiện là chủ tịch Trung tâm Nghiên cứu và Dịch thuật quốc tế. Tổng biên tập Tạp chí Xuất bản Thơ quốc tế hàng quý (đa ngôn ngữ) và ấn bản tiếng Anh của Niên giám Thơ thế giới, đồng thời là cố vấn cho Trung tâm Toàn cầu hóa Thơ Trung Quốc bằng các ngôn ngữ quốc tế. Từ năm 1986, ông bắt đầu công bố tác phẩm văn học và dịch thuật của mình. Tác phẩm của ông đã được dịch ra hơn 40 thứ tiếng quốc tế. Trương Chí từng đoạt giải thưởng Văn học của Hy Lạp, Brazil, Mỹ, Israel, Pháp, Ấn Độ, Ý, Áo, Lebanon, Macedonia, Nga, Nhật Bản, Ai Cập, Bỉ, Armenia và Kyrgyzstan. Các tác phẩm chính của ông bao gồm các tuyển tập thơ: Receita (tạm dịch: Mùa thu hoạch - Tiếng Bồ Đào Nha-Anh-Trung), Selected Poems of Diablo (tạm dịch: Những bài thơ chọn lọc của Diablo - Tiếng Anh), Poetry by Zhang Zhi (tạm dịch: Thơ Trương Chí - Tiếng Đức-Anh-Bồ Đào Nha), Những bài thơ chọn lọc của Diablo (tiếng Trung-Anh), A Jigsaw Picture of the World (tạm dịch Bức tranh ghép hình thế giới - Tiếng Albania), Feu Follet On Paper (tạm dịch: Làm yêu tinh trên giấy - Tiếng Ả Rập), Poison (tạm dịch: Chất độc - Tiếng Ả Rập) và The Mirror Image of Ghost City (tạm dịch: Hình phản chiếu của thành phố ma - Tiếng Serbia), Tuyển tập phê bình thơ có tựa đề Loạt bài tiểu luận về các nhà thơ Trung Quốc tiên phong, và bản dịch thơ A & 1 is the Founder (tạm dịch: A & 1 người sáng lập - Tiếng Anh-Trung), Tuyển tập các bài thơ của Tareq Samin (tiếng Anh-Trung), My Secret Lover, You (tạm dịch: Em, người tình bí mật của anh - Tiếng Trung), và dịch tiểu thuyết Назови имя бога của Savitskaya Svetlana Vasilievna, LB Nga (tạm dịch: Xưng danh Thiên Chúa - Tiếng Nga-Trung), v.v. Ngoài ra, ông còn biên tập cuốn sách Thơ chọn lọc của các nhà thơ quốc tế đương đại (tiếng Anh-Trung), Thơ Trung Quốc chọn lọc thế kỷ 20 (tiếng Trung-Anh), Từ điển các nhà thơ quốc tế đương đại (đa ngôn ngữ), Sách giáo khoa Trung-Anh: 300 bài thơ Trung Quốc đổi mới (1917 - 2012), và Kinh điển thế kỷ: 300 bài thơ Trung Quốc đổi mới (1917 - 2016), v.v.
Xem thêm
Mở vòng tay tình yêu | Chùm thơ Bill Wolak (Mỹ)
Bill Wolak là nhà thơ, nghệ sĩ tranh cắt dán kiêm nhiếp ảnh gia. Ông sinh sống tại New Jersey (Mỹ) và đã xuất bản 18 tập thơ.
Xem thêm
Thơ Isaac Cohen (Israel)
Nhà thơ quốc tế, người Israel.
Xem thêm
Luận về thơ của Yi-Soo Byeon (Hàn Quốc)
Thơ là điều gì đó xảy ra ngay khi bạn thức dậy sau giấc ngủ. Giống như việc bạn mở mắt ra, đi trên mặt nước và ném mình vào một thứ gì đó.
Xem thêm
Gió rì rào trò chuyện - chùm thơ Soad Al-Kuwari (Qatar)
Tác giả là Cố vấn Văn hóa tại Bộ Văn hóa Qatar Điều phối viên Phong trào Thơ Quốc tế tại Qatar
Xem thêm
Chùm thơ Khasanboy Kholmirzaevich Gayubov (Cộng hòa Tajikistan)
Gốc cây thuở ấy lắng ngheNơi tôi thường vẫn đi về ngày xưaVà em, chuyện thật như đùaBây giờ chỉ đến trong mơ một lần.
Xem thêm
Du khách kiên định trong vũ trụ thi ca
Đó là cách người ta nói về Rodica Marian – tác giả cuốn thơ “Khoảnh khắc can đảm”.
Xem thêm
Chùm thơ Rida K Liamsi
Nhà thơ Rida K Liamsi sinh ngày 17/7/1943 tại Dabosingkep, thuộc quần đảo Lingga, tỉnh Đảo Riau, Cộng hòa Indonesia. Ông đã xuất bản 6 tập thơ: ODEX (1971), Tempuling (2003), Kelekatu (2007), ROSE (2003), Secangkir Kopi Sekanak (2017) và Sungai Rindu (2020). Thơ của ông được in trong nhiều tuyển tập cùng với các nhà văn, nhà thơ khác. Cuốn sách có tựa ROSE đã nhận được giải thưởng của Viện Ngôn ngữ quốc gia Indonesia năm 2018. Rida cũng là tiểu thuyết gia, đã xuất bản một số cuốn sách: Bulang Cahaya (2007), Megat (2016)...
Xem thêm
Chùm thơ Abdukakhor Kosim (Cộng hòa Tajikistan)
Nhà thơ Abdukakhor Kosim (tên đầy đủ: Abdukakhor Sattorovich Kosimov), sinh ngày 27/1/1965, tại trang trại bang Kuibyshev, thuộc vùng Vakhsh, Cộng hòa Tajikistan, trong một gia đình làm nghề thợ rèn. Ông đồng thời là nhạc sĩ, nhà báo uy tín của Tajikistan.
Xem thêm
Yevgeny Chigrin (LB Nga) - Mai Văn Phấn dịch từ tiếng Nga
Yevgeny Chigrin là một trong những nhà thơ đương đại uy tín của LB Nga
Xem thêm
Chùm thơ của Mahmoud Drwwish, nhà thơ lớn của Palestine
Mahmoud Darwish là một nhà thơ người Palestine và là một trong những nghệ sĩ hàng đầu của thế giới Ả Rậ
Xem thêm
Chùm thơ Rodica Marian (Rumani)
Là một tiến sĩ Ngôn ngữ học, thành viên của Hiệp hội Nhà văn Romania, bà là cộng tác viên khoa học cấp cao của Viện Ngôn ngữ học và Lịch sử Văn học Sextil Pușcariu ở Cluj Napoca.
Xem thêm
Chùm thơ của Yang Geum-Hee’s – Hàn Quốc
Nữ sĩ Yang Geum-Hee sinh năm 1967 tại Jeju, Hàn Quốc
Xem thêm