TIN TỨC

Có một con sông Hiền Lương chảy qua mỗi số phận...

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2023-11-02 16:30:01
mail facebook google pos stwis
688 lượt xem

CHÂU LA VIỆT
 

“Hoài, đứa con trai đầu lòng yêu quý của Ba.

“Chối bỏ”? Từ ngữ ấy không hề có trong từ điển đời ba. Hoặc có chăng đi nữa, thì ba chưa bao giờ dùng nó. Ba chưa bao giờ chối bỏ con. Suốt 35 năm trời nay, con luôn ở trong ký ức của ba, trong trái tim của ba, trong tâm hồn của ba….”

Cho đến năm 1987- nghĩa là 12 năm sau ngày Sài Gòn giải phóng, tôi mới nhận được lá thư đầu tiên ấy của ba tôi, nhạc sĩ Hoàng Thi Thơ từ Mỹ gửi về.

“Năm 1956, Ba đã từ Sài Gòn ra Đà Nẵng thăm ngoại con khi ba nghe tin mẹ con “đi thêm bước nữa”. Thăm ngoại thì ít, nhưng cốt để hỏi thăm con thì nhiều.

Năm 1958, ba đẻ em Thi Thi. Chính lúc đó, Ba nghĩ tới con nhiều nhất. Ba đã dùng cái tên “Thi” để đặt tên cho em con, cái tên đầy kỷ niệm mà ngày xưa ba và mẹ con đã rất yêu và đã hứa với nhau sẽ dùng để đặt cho đứa con đầu lòng của ba và mẹ con, là con. Và từ ngày đó, mỗi lần gọi tên em Thi của con là riêng ba, ba nhớ tới con. Nhớ cho tới khi nào ba không còn trên trần gian này nữa để gọi tên Thi.

Năm 1964, trong một hoàn cảnh vô cùng éo le, ba đã bỏ nước trốn sang Nam Vang. Những ngày lén lút đó, biết rằng mẹ con đến đó trình diễn, ba đã bất chấp hiểm nguy để liên lạc với mẹ con, với mục đích duy nhất là biết đươc chút tin tức về con và mẹ con. Và ba còn nhớ rõ, nếu lúc ấy mẹ con không quá dè dặt và không quá cứng rắn, ba đã trở lại nơi ba phải giã từ mẹ con… Và có cơ hội sống bên con từ 1964!

Năm 1970, khi ba soạn phim “Người cô đơn”, ba đã hoàn toàn nghĩ tới con, dựng lên một nhân vật bé bỏng, nhân vật mang tên bé Tâm, một nhân vật suốt đời cô đơn rất tội nghiệp, một nhân vật mà vào đó, ba đã gửi hết nỗi niềm tâm sự của ba. Nhân vật đó, người cô đơn đó, đứa bé cô đơn đó, chính là con, chính là Hoài, chính là cái kỷ niệm quý đẹp nhất của một người nghệ sĩ họ Hoàng và một người nghệ sĩ họ Trương… Con chớ giật mình, con nhé, con chớ ngạc nhiên, con nhé! Ba xác nhận một lần nữa, “người cô đơn” chính là con, chính là Hoài, chính là người con đã tưởng rằng cha mình đã chối bỏ mình.

“Suốt 35 năm trời, ba hằng tự hào về một điểm: Đời ba, trong đó có con và mẹ con, sao giống như một pho tiểu thuyết. Mà tiểu thuyết nào mà lại không có nhiều tình tiết éo le, phải không con? Thôi chúng ta, ba + mẹ + con , dù gặp những éo le, gập ghềnh, buồn sầu thì cũng cho đó là số phận của những người có cuộc đời giống như tiểu thuyết…

Hoài con, nếu theo con, “con đã mất ba nửa cuộc đời rồi” thì chắc chắn nửa cuộc đời còn lại, con sẽ có ba hàng ngày, hàng tháng, hàng năm… Còn đối với ba đã 35 năm nay, dù chưa một lần được gặp, ba chưa bao giờ mất con và mẹ con một ngày một tháng một năm nào. Vì không một ngày một tháng một năm nào, ba không có con và mẹ con trong lòng ba, trong tâm hồn ba…


Ca sĩ Tân Nhân và nhạc sĩ Hoàng Thi Thơ thời kháng chiến chống Pháp

Nhắc đến mối tình đầu của mẹ con mà con viết: “Tưởng hết sức đẹp đẽ” ba hãnh diện xác nhận với con một lần là, cho đến bây giờ mối tình đó, đối với ba cũng như một số người đã biết mối tình đó, là mối tình đẹp nhất trần gian. Ba không đại ngôn, không phóng đại khi ba nói như vậy. Ba và mẹ con sẽ tìm thấy dần để hiểu thấu dần. Đối với ba, suốt đời, mẹ con là tuyệt vời, Tân Nhân là tuyệt vời. Lại một dẫn chứng nữa, một chứng dẫn nữa. Năm 1956, thời gian ba soạn sách, ba soạn cuốn Để sáng tác một bài nhạc phổ thông, trang đầu của cuốn sách, ba in dòng chữ Thân yêu tặng Tân Nhân. Mặc dù ba biết mẹ con “đã đi thêm bước nữa”. Ba yêu mẹ con là thế, từ những năm 49-50-51 đến 56, đến cả bây giờ 87, thì không có lý nào ba lại không yêu con và yêu ít hơn? Điều này chắc con không biết, nhưng điều này ba tin mẹ con biết. Có lẽ vì một hoàn cảnh bắt buộc nào đó, vì gia đình, vì chính trị, mẹ con biết nhưng chẳng hề nói ra cho con hay…

Thôi, dù biết hay chưa biết, với thời gian, với những tác phẩm của ba mà rồi đây con và mẹ con sẽ dần dà tìm thấy, mẹ con và con có ngày sẽ hiểu được lòng ba và tình ba. Sự muộn màng nào, hiểu nhau muộn cũng đau thương, nhưng sự muộn mằn nào cũng đẹp. Đó là sự muộn màng trong tiểu thuyết, sự muộn màng trong cuộc đời tiểu thuyết của chúng ta…

*

Ba tôi đã nói vậy về mối tình của ba tôi và mẹ tôi. Nhưng ba tôi không biết rằng, đó chính cũng là mối tình khổ đau nhất của mẹ tôi, người đã trao cho ba tôi tất cả tuổi thanh xuân của mình. Hồi tưởng lại mối tình ấy, mẹ tôi đã viết trong hồi ký:

“Cuối năm đệ nhất Huỳnh Thúc Kháng (Một trường học kháng chiến ở khu Tư thời kháng Pháp), cùng với đợt ồ ạt vào Lục quân khu 4, ra Việt Bắc nhận công tác của các anh các chị, tôi gia nhập Đoàn văn công mặt trận Bình Trị Thiên và Trung Lào do hai anh Đình Quang và Bửu Tiến lãnh đạo vào chiến trường phục vụ bộ đội. Đó là thời kỳ gian khổ nhất của chiến trường Bình Trị Thiên.

Hiệu quả hoạt động của đoàn hạn chế. Địch luôn rình rập càn lên chiến khu. Một lần, chúng tôi bị bao vây tứ phía, trên trời máy bay, dưới sông ca nô, trên bộ địch vây quanh… Quá bất ngờ, chúng tôi từng tốp theo hướng núi xanh mà chạy.Nhóm tôi có 6 người, 4 đứa là con gái chui vào rừng sâu, đứt liên lạc với đơn vị…

Tin đồn về trường Huỳnh Thúc Kháng là Tân Nhân đã bị chết trong trận càn. Một người bạn học cùng quê - Nhạc sĩ Hoàng Thi Thơ đã truy điệu tôi bằng bài hát Xuân chết trong lòng tôi. Cả trường đã hát, đã khóc, đã xót thương tôi ra đi qúa trẻ…

Xuân ơi xuân/ chim xa đàn/ xuân ơi xuân/ ngỡ đâu xuân chết trong lòng tôi…”

Nhưng tôi đâu đã chết. Một thời gian sau, Bộ chỉ huy cho một số ít chúng tôi trở về trường cũ Huỳnh Thúc Kháng học tập. Trên chuyến đò dọc Châu Phong - Bạch Ngọc, một bạn gái lớp dưới đã hát cho tôi nghe Xuân chết trong lòng tôi, với lời bình: “Phải có một tình yêu sâu sắc lắm, anh ấy mới như điên như dại khi hay tin chị chết, đã lang thang cầm roi quất ngang quất dọc trên các nẻo đường Bạch Ngọc mà khóc mà viết nên bài ca ấy”

Ôi chim xa cành, bướm lìa hoa, trùng phùng xa lắm…”

Với nỗi xúc động thơ trẻ chứa chan, tôi thầm nghĩ “Biết mình chết rồi mà vẫn yêu thương tiếc nuối, phải chăng đó là tình yêu chân thật”. Xót xa thay, mối tình chân thật ấy lại là một mối tình bất hạnh: Trong chuyến về thăm nhà vùng tạm chiếm, anh Hoàng Thi Thơ bị mắc kẹt, và từ đó chúng tôi mãi mãi cách chia. Cháu Hoài, kết quả của mối tình mà chúng tôi tưởng rằng rất đẹp đẽ ấy, hơn nửa cuộc đời mới biết mặt cha, và bao năm sống trên đất Bắc phải mang trong lý lịch của mình là con một Nhạc sĩ Ngụy…

*

Con sinh ra là một giọt lệ đau

Giọt lệ ấy chẳng đủ soi lòng mẹ

Đừng giận con mẹ ơi vì thơ bé

Con nào đã hiểu hết nổi cuộc đời...

Con là vật kỷ niệm lúc chia phôi

Mẹ muốn quên dáng người đi tội lỗi

Con lại mang khuôn mặt người cha ấy

Vì có con mẹ chẳng thể quên cha…

15 tuổi, khi còn là học sinh phổ thông ở Hà Nội, không biết vì một nỗi tủi thân nào đấy, tôi đã viết bài thơ tâm sự trên và định gửi tặng mẹ. Nhưng rồi tôi đã không dám gửi, mà chỉ để trong nhật ký. 17 tuổi tốt nghiệp phổ thông, tôi làm đơn tinh nguyện lên đường nhập ngũ và đi chiến đấu ở mặt trận Trường Sơn và mặt trận Lào. Chính nơi lửa đạn ấy đã tôi luyện tôi trở thành một người lính dạn dày, và trở thành một cây bút trẻ (Bút danh Châu La Việt). Những cha chú trong văn chương khen trong tôi có gien văn nghệ của Tân Nhân và Hoàng Thi Thơ …

Năm 1976 lần đầu tôi vào Sài Gòn. Khi này miền Nam đã giải phóng. Me tôi mong tôi có dịp gặp ba tôi, người mà từ khi chào đời, tôi chưa một lần biết mặt. Nhưng ông đã ra đi từ trước giải phóng. Cho đến mãi năm 1987, cha con mới liên lạc đựợc với nhau qua lá thư đầy xúc động trên. Đến năm 1994 thì ba tôi lần đầu về nước, và lần đầu cha con được gặp nhau, được những đêm nằm bên nhau thổ lộ hết tâm can…

Tôi nhớ ở đêm đầu tiên gặp gỡ, có cả con trai tôi Hưng Việt, ba tôi bộc bạch tâm sự với tôi rằng: “Bao năm xa con rồi, ba biết con rất khổ. Giờ đây con muốn gì ở ba, con yêu cầu gì ở ba?”. Tôi đã lặng đi vì điều quan tâm ấy, và thưa với ba hai nguyện vọng: Một là lúc này bà ngoại của tôi đang nằm ở bệnh viện Nguyễn Trãi, thập tử nhất sinh, tôi nói với ba tôi rằng: Ngày xưa bà ngoại từng yêu quý ba lắm, nếu được sáng mai xin ba hãy vào thăm bà, cũng là để bày tỏ ân tình với mẹ của con. Và điều thứ hai là, là con lớn lên được như hôm nay là nhờ ở đất nước, nhân dân và bè bạn đã nuôi dưỡng, khi ba đẻ con ra nhưng không có điều kiện nuôi con (ba tôi đã ra đi khi mẹ tôi còn mang thai tôi giữa một cánh rừng kháng chiến), con muốn nhân dịp này, ba tổ chức một bữa liên hoan với tất cả bạn bè của con để ba tôi nói những lời từ trái tim mình những lời cám ơn họ…

Ngay sáng hôm sau, ba cùng tôi và cháu Hưng Việt vào bệnh viện Nguyễn Trãi thăm bà ngoại của tôi, đang những giây phút cuối của cuộc đời. Cũng chính ở đây, ba tôi đã xúc động gặp lại mẹ tôi sau 45 năm xa cách (Mẹ tôi đã bay từ Hà Nội vào trước đó một thời gian để săn sóc bà ngoại tôi…). Rồi ít ngày hôm sau, tại nhà hàng Thanh Niên, một bữa tiệc do chính ba tổ chức. Bạn bè tôi đến nhiều lắm, dù còn thiếu biết bao người hoặc ở xa, hoặc là những đồng đội của tôi đã nằm xuống... Ba tôi đã nghẹn ngào xúc động đứng lên cám ơn tất cả bè bạn của tôi, nhiều năm tháng qua đã đùm bọc, cưu mang, giúp đỡ cho con trai mình nên người. “khi tôi là cha mà sinh con ra đã không nuôi được con”… Những ly rựơu nâng lên, có cả nụ cười và cũng có rất nhiều dòng nước mắt...

Cũng xin được nói thêm rằng, buổi tiệc ấy không hiểu sao vòng trong vòng ngoài rất đông người. Thì hóa ra nhiều người hằng biết mặt ba tôi ở Sài Gòn trước đây, buổi ấy vô tình nhìn thấy ba tôi vào nhà hàng, với họ như một sự kiện lớn vì như thế là nhạc sĩ họ ngưỡng mộ là Hoàng Thi Thơ đã về nước, đã về Sài Gòn, và người nọ thông báo người kia cùng kéo đến nhà hàng nhìn tận mặt Hoàng Thi Thơ. Và họ vô tình được chứng kiến những tâm sự của ba tôi, những dòng nước mắt của ba tôi, những dòng nước mắt của họ cũng trào ra trên má. Họ mới hiểu thêm tình sử của người nhạc sĩ “Thi ơi Thi ơi Thi Thi biết biết không Thi…”, hiểu thêm sự éo le, bi kịch trong cuộc đời ông, và cũng hiểu thêm tấm lòng nhân ái cùng tình thương con thăm thẳm của ông…

 Và họ cũng hiểu rằng, cuộc trùng phùng của cha con nhạc sĩ Hoàng Thi Thơ sau 42 năm xa cách, người Bắc kẻ Nam, người khoác áo chiến trận, người mải miết với những bản tình ca trên đồng lúa vàng, có lẽ là cuộc trùng phùng lạ kỳ, ân tình nhất của đất nước sau hàng chục năm cách chia, mà mỗi số phận đứng một bên chiến tuyến, MỖI SỐ PHẬN ĐỀU CÓ MỘT CON SÔNG HIỀN LƯƠNG CHẢY QUA...

Nguồn Văn nghệ số 17+18/2023

Bài viết liên quan

Xem thêm
Trong màu xanh Vàm Cỏ
Nhà văn Hào Vũ, sinh năm 1950. Quê quán: An Hải, Hải Phòng. Dân tộc: Kinh. Hiện thường trú tại 6/3 Cư xá phường 3, thành phố Tân An, tỉnh Long An. Vào Hội Nhà văn Việt Nam năm 1984.
Xem thêm
Đỗ Thành Đồng và chuyển động đường thơ
Sau gần 15 năm đắm say đến điên cuồng với thi ca, nhà thơ Đỗ Thành Đồng, hội viên Hội Văn học Nghệ thuật Quảng Bình, hội viên Hội Nhà văn Việt Nam đã xuất bản 7 tập thơ.
Xem thêm
Chuyện tình khó quên của Trịnh Công Sơn
Bài viết của nhà thơ Lê Thiếu Nhơn
Xem thêm
Nhà văn Di Li: Tôi bị hấp dẫn bởi người đàn ông nhân văn, tử tế
Tôi nghĩ rằng, là người văn minh thì phải chấp nhận sống chung với sự khác biệt, tuy nhiên, sự khác biệt đó nếu không tốt, muốn người ta thay đổi thì mình sẽ góp ý. Và cách góp ý của mình cũng khá hài hước nên người nghe không mấy khi khó chịu.
Xem thêm
Người tốt trại Vân Hồ
Nhà văn Trung Trung Đỉnh, Giải A cuộc thi tiểu thuyết Hội Nhà văn, 1998 – 2000) với tiểu thuyết Lạc rừng. Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật năm 2007.
Xem thêm
Nhớ nhà báo Phú Bằng
Đọc bác Phú Bằng từ lâu, khi tôi còn trực tiếp cầm súng ở Trung đoàn 174 Sư đoàn 5 thời chống Mỹ. Lúc ấy bác Phạm Phú Bằng là phóng viên báo QĐND được tăng cường cho báo Quân Giải phóng Miền Nam.
Xem thêm
Nhà văn - dịch giả Trần Như Luận với tác phẩm “Tuyển tập 12 truyện ngắn Anh - Mỹ kinh điển, lừng danh”
Tháng Sáu 2022, trên Báo Thanh Niên rồi Tạp chí Văn nghệ Hội Nhà văn Việt Nam, nhà báo Hà Tùng Sơn và nhà phê bình văn học Vân Phi giới thiệu tác phẩm thứ 7 của nhà văn Trần Như Luận (TNL): tiểu thuyết Gương Mặt Loài Homo Sapiens. Trước đó, anh từng gây tiếng vang nhờ giá trị đáng kể của bộ tiểu thuyết Thầy Gotama và 8000 Đệ Tử dày tới 1.200 trang, trình làng năm 2014. Chúng tôi cũng biết tới cả trăm tác phẩm dịch của anh, cả thơ và truyện, xuất hiện trên các tạp chí Văn nghệ Hội Nhà văn TP Hồ Chí Minh, Văn nghệ Quân đội, Non Nước, Sông Hương, v.v… Xuân Giáp Thìn 2024, nhà văn ra mắt một “dịch phẩm” hoàn toàn mới: Tuyển tập 12 truyện ngắn Anh – Mỹ kinh điển, lừng danh. Sách dày 320 trang, bìa bắt mắt. Sách được Liên hiệp các Hội Văn học-nghệ thuật Việt Nam thẩm định chất lượng và hỗ trợ kinh phí; NXB Hội Nhà văn cấp phép. Nhân một cuộc hẹn thú vị tại Quận 7, TP Hồ Chí Minh, trong một quán cà phê tao nhã, không bỏ lỡ cơ hội, tôi đã thực hiện cuộc phỏng vấn này.
Xem thêm
Nhớ anh Mai Quốc Liên
Bài viết của nhà thơ Trần Đăng Khoa, Phó Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam
Xem thêm
Nhà văn Trầm Hương: Sứ mạng nhà văn là đi tìm những ẩn số
Hàng chục năm nay, nhà văn Trầm Hương (Phó Chủ tịch Hội Nhà văn TP.HCM) vẫn âm thầm theo dấu chân những anh hùng, người lính, mẹ liệt sĩ… để tìm nhân vật cho những trang sách của mình. Chị ghi dấu ấn đậm nét trong dòng văn học cách mạng hiện nay.
Xem thêm
Thương nhớ anh Duy
Tôi viết ra đây mấy lời tâm sự như thắp một nén nhang kính nhớ thương tiễn anh Duy về trời cùng đàn anh Lê Văn Thảo...
Xem thêm
Nhà văn Ann Patchett: Thời gian tuyệt vời nhất là ở trên máy chạy bộ và viết sách
Ann Patchett là nhà văn Mĩ, tác giả của 9 cuốn tiểu thuyết, 4 cuốn sách phi hư cấu và 2 cuốn sách dành cho trẻ em. Trong văn nghiệp, bà từng giành giải Orange cho Bel Canto, cũng như lọt vào danh sách chung khảo giải Pulitzer 2020 với cuốn Ngôi nhà của người Hà Lan. Gần đây bà đã cho ra mắt cuốn tiểu thuyết mới mang tên Tom Lake, và điều đặc biệt là nó được viết trên bàn đặt trên máy chạy bộ và lời khuyên về năng suất từ ​​Elizabeth Gilbert.
Xem thêm
Lê Minh Quốc và cuộc hành trình chữ nghĩa
Bài của nhà thơ Ngô Xuân Hội trên báo Văn nghệ.
Xem thêm
Nhà thơ Nguyễn Thành Phong: Với chữ nghĩa, tôi như người đang yêu
Gọi Nguyễn Thành Phong là nhà thơ, nhà văn, biên kịch hay cái danh mà mang nhiều nghiệp nợ nhất là nhà báo, thì viết gì, dù là kiếm sống, anh cũng phải cố ở mức tốt nhất theo ý mình thì mới cho là được. Với chữ nghĩa, Nguyễn Thành Phong ví anh như người đang yêu, càng bị “ruồng rẫy”, càng thấy không thể bỏ cuộc.
Xem thêm
Vũ Cao - “Núi Đôi mãi mãi vẫn là Núi Đôi”
Nói đến nhà thơ Vũ Cao không thể không nói tới bài thơ Núi Đôi.
Xem thêm