TIN TỨC
  • Truyện
  • Đò Phiên – Truyện ngắn Tống Ngọc Hân

Đò Phiên – Truyện ngắn Tống Ngọc Hân

Người đăng : phunghieu
Ngày đăng: 2022-03-11 16:36:31
mail facebook google pos stwis
2742 lượt xem

Cách cầu ba ki lô mét về phía hạ nguồn là bến đò Phiên. Thuở bà nội Chiêu còn sống, bà kể, bên kia sông, có cái chợ phiên sầm uất và đông đúc nhất vùng. Chợ phiên họp vào các ngày hai, ngày bảy âm lịch trong tháng, người bên này sang đông lắm. Nhất là những ngày giáp tết. Và hầu như bến đò này chỉ có người sang sông vào ngày chợ phiên, nên được gọi luôn là đò Phiên.

Nhà văn Tống Ngọc Hân

Lúc Chiêu còn nhỏ, Chiêu cũng hay theo bố mẹ đi chợ bán hoa đào bên đó. Có những chuyến đò chỉ có vài người còn lại đầy hoa đào. Con đò như chiếc nơ hồng rực cài trên mớ tóc dài suôn lấp lánh ánh bình minh. Kể từ khi xuống thành phố học, đi làm rồi lấy chồng, tính ra, đến mười lăm năm rồi, Chiêu không đi đò Phiên. Không biết bên ấy còn phiên chợ không, còn đông đúc không, khi mà siêu thị mọc ra ở khắp mọi nơi và giờ người ta chọn đi cầu cho tiện.

Trong ký ức của Chiêu, đò Phiên gần như bị vùi lấp bởi bao nhiêu kỷ niệm thời sinh viên, bỗng dưng hôm nay, bến đò lại hiện lên rất lạ. Chuyến xe thưa người, ngồi cạnh Chiêu là một người đàn ông ngoài sáu mươi. Khi lái xe hỏi xuống đâu, người đàn ông nói, cho tôi xuống cổng làng Vân Diệu. Chiêu giật mình, nhưng không nói gì. Chiếc khẩu trang che kín khuôn mặt người đàn ông, chỉ hở hai con mắt và một vết sẹo dài trên trán, Chiêu đoán ông ta chỉ là khách của làng Vân Diệu, cho dù ánh mắt nhìn Chiêu rất quen.

Xe dừng gần cổng làng lúc sáu giờ tối, bị chậm hơn mọi khi hai mươi phút. Trời cuối năm, sáu giờ là tối lắm. Ông ta xách chiếc cặp số màu đen xuống trước. Chiêu xách chiếc va ly nhỏ xuống sau. Dù Chiêu cố để đi chậm lại và giữ khoảng cách với người đàn ông thì cũng không tránh được sự tò mò của những người đàn bà đang hái rau muống dưới ruộng ngay sát con đường đi vào làng.

Người đàn ông đi lệch về một bên như thể một bên chân ông ấy làm bằng bê tông, thẳng tuột, còn bên kia thì ngắn như bị rút bớt lại. Ông cố tình đi chậm và hỏi Chiêu bằng cái giọng méo mó:

– Cô cần tôi giúp không?

– Bác về nhà ai trong làng? Chiêu trả lời bằng một câu hỏi.

Người đàn ông vui vẻ trả lời.

– Tôi chỉ ghé qua làng thôi. Tôi ra đò Phiên.

Chiêu ái ngại.

– Giờ này chắc gì đò còn chạy, cháu nghe nói đò chỉ chạy ngày phiên mà. Sáng mai mới mười bảy, nay mười sáu.

Người đàn ông cười bằng mắt.

– Tôi vẫn đi suốt mà. Chắc cô ít về quê thôi.

Chiêu không nói gì. Nếp sống ở thành phố đã ngấm sâu vào cô, nó khiến con bé hay nói hay cười, hay bắt chuyện người lạ khi xưa biến mất khỏi Chiêu không để lại một chút dấu vết. Đến cổng nhà, Chiêu rẽ vào, ông xách cặp số nhìn theo Chiêu, cho đến khi bị Chiêu bất ngờ quay đầu, phát hiện, thì ông ấy mới đi tiếp.

Buổi tối, hai mẹ con ngồi làm măng để sáng mai nấu canh làm cỗ giỗ bà nội, Chiêu hỏi mẹ.

– Đò Phiên giờ còn chạy không mẹ?

Mẹ bảo: Không, đường xuống bến đò, người làng dấp rong lại cho trẻ con không xuống sau ngày cụ Phóng mất. Làng mình không ai chạy đò nữa vì không kinh tế. Sắm con đò máy bao tiền, người qua sông thì ít, họ bỏ, đi cầu xa nhưng lại hóa gần, chờ đò cũng lâu. Mà bến đò giờ sâu như vực, trông sợ lắm.

Rồi Chiêu hỏi mẹ về người đàn ông sách cặp số đi về phía bờ sông. Mẹ ngơ ngác nói:

– Làng này, ngoài bố con, làm gì có ai như thế.

Cả đêm, Chiêu cứ trằn trọc vì nghĩ đến chuyện người đàn ông lạ có ánh mắt rất quen.


Minh họa (Ảnh: Internet)

Dòng sông đoạn đi bên cạnh làng Vân Diệu không rộng nhưng rất sâu. Suốt mấy chục năm, dòng sông chỉ lở phía làng, bờ rất chựng, hoăm hoắm. Những mùa lũ lớn người trong làng đêm nghe tiếng đất lở thùm thùm không ngủ được. Người làng vẫn bảo nhau, nếu không có cách gì đó trị thủy, thì chả mấy mà mất làng. Thì thoảng, những người trong làng vẫn chỉ cho nhau một vết nứt mới trên những mảnh vườn mà mọi người đã ra sức trồng tre gai để kè giữ. Mẹ Chiêu kể, tính từ khi mẹ về làm dâu đất này, làng mất đi cả trăm mẫu đất bãi trồng ngô và trồng hoa đào bán cho thành phố chơi tết. Cứ lở thôi, những vết lở sâu toang hoác cáu đầy bọt nước nom như miệng con thú dữ còn để lại dấu tích của những con mồi nó vừa chén xong. Mỗi khi sông ngàu đỏ, nước ói vào đồng mang theo bọt rác, ấy là lúc đất lại cồn cào lở. Năm nay khuyết lũ. Cả mùa nước không thấy trận lũ nào, cũng không thấy bờ lở, dòng sông hiền lành như cô gái quê mới lớn ôm ấp trong lòng khát vọng đi xa nhưng không dám tỏ bầy với ai. Từ làng Vân Diệu nhìn sang bên kia sông, bãi ngô xanh biếc bạt ngàn, làng bên ấy rất trù phú vì mỗi năm lại được bồ đắp thêm. Bên ấy bồi, bên này lở. Bên ấy, làng như hình chiếc mâm, bên này, làng như hình chiếc liềm. Bồi mấy chục năm liền nên chợ phiên gần bờ sông ngày xưa bây giờ đã thành trung tâm thương mại to đùng giữa thành phố. Trông người lại nghĩ đến ta. Những người mê tín trong làng nói tại phước làng mỏng nên vậy. Trị thủy đâu có dễ, làm không đến đầu đến đũa, thì sẽ bị thủy trị.

Bố Chiêu là ông già cổ lỗ sỹ nhất làng Vân Diệu. Hễ ai đó nói chuyện sông nước, ông lại thao thao kể về trận đại hồng thủy ngày xưa, khi ông còn là cậu bé mười lăm tuổi. Ông nói, năm ấy, chính ông cụ sinh ra ông là người đem công văn hỏa tốc từ tỉnh về huyện, yêu cầu phá đê để cứu thủ đô. Cả năm sáu xã vùng hạ huyện, nước sông phăng phăng lao vào từ chỗ đê bị phá làm ngập lụt mất bao nhiêu hoa màu, gia súc, gia cầm, chỉ người dân do được lệnh sơ tán chạy lên đồi cao là không ai thiệt mạng cả. Với chiếc thuyền nhỏ, ông bơi lần lượt từ gò này sang gò khác để phát thuốc tiêu chảy cho bà con vì toàn bộ các giếng nước đã bị ngập hết. Bố bảo, “quen mui bén mùi ăn mãi”. Nước đã được rước vào đồng như thế một lần, thì từ sau, nó vẫn nhớ lối cũ mà vào thôi. Làng Vân Diệu là cửa ngõ của nước nên không tránh khỏi. Giờ sông không còn lũ to như xưa, nhưng cứ đến mùa, nước vẫn thúc vào sườn làng Vân Diệu, tạo thành những vết thương đỏ ối, gớm ghiếc. Mỗi lần bố nói, mẹ Chiêu đều gạt đi. Ông lẩm cẩm rồi. Ông rành về nước thế thì tại sao không chiêm luôn một quả gò mà làm nhà cho cao ráo lại cứ bám mạn sông làm gì để vợ con cả đời thấp thỏm. Mỗi lần bố mẹ có dấu hiệu căng thẳng là mấy anh em Chiêu lại bắt đầu can ngăn. Anh trai sẽ bênh mẹ. Đúng đấy, mẹ nói có lý. Ở bờ sông tổn thọ vì lo lắng. Còn chị gái Chiêu sẽ bênh bố. Ai mà cũng bỏ làng đi vì sợ thì bây giờ, chỗ này thành giữa sông rồi. Mấy lại, mới chỉ lở mất bãi làm hoa màu, chứ đã lở nhà ai bao giờ đâu. Làng mình xưa giờ không ai làm lúa, chỉ làm ngô, làm hoa nên mới đổ thừa cho nước. Người trong đê bỏ hoang ruộng đầy kìa, muốn làm lúa thì vào mượn, có sao đâu.

Đêm thứ hai ở nhà mẹ sau hơn nửa năm không về, Chiêu ngủ ngon, bù cho hôm trước. Khoảng gần sáng, Chiêu nghe thấy tiếng gọi đò rất rõ vọng từ bến vào. Đò ơi, ơi đò ơi, có ai đò không? Chiêu nhỏm dậy, xỏ dép, bật điện, đi ra giường ngoài, thấy mẹ nằm quay mặt vào trong, không thấy bố đâu cả. Chiêu ngạc nhiên xen lẫn lo lắng.

– Khuya khoắt như này bố đi đâu rồi?

Chiêu lay mẹ. Mẹ ơi, mẹ…

Mẹ Chiêu tỉnh giấc.

– Ơ hay, con bé này, ngủ đi, sao lại gọi mẹ giờ này?

– Mẹ à, con vừa nghe tiếng gọi đò.

– Ôi giời, cứ nghe vớ nghe vẩn. Làm gì có ai gọi. Tôi chả nghe thấy gì sất.

– Thôi, con vào buồng con. Mà bố đi đâu thế mẹ? Khuya thế này.

– Ơ hay nhỉ cái con bé này. Con mày lên mấy rồi, mày biết không? Bảo ngủ ngoài đây thì cứ chui vào trong ấy, kêu muốn ngủ phòng cũ. Chăn gối lâu không ai nằm hôi mù. Tôi thì bận không mở mắt ra được.

Lúc này thì Chiêu mới tỉnh hẳn. Cô như người mộng du trong ký ức của mình. Rất nhiều lần, trở về nhà, Chiêu hỏi, bố con đâu hả mẹ. Rất nhiều lần gọi điện thoại, Chiêu nói mẹ cho con nói chuyện với bố tí. Trong ký ức của Chiêu không có sự ra đi đột ngột của bố. Không có bất cứ sự khuyết vắng nào trong căn nhà cô từng sinh ra, lớn lên. Bố mẹ cô và những người làng Vân Diệu cả đời lam lũ cặm cụi bám đất bám làng kiếm sống và sống một cuộc đời thanh đạm. Lứa của Chiêu, những đứa đi xa quê thì phần lớn ít trở về. Đứa lấy chồng thành phố, đứa lấy vợ rồi ở lại thành phố, nơi sinh ra lớn lên, nghiễm nhiên trở thành quê cũ, thành cố hương mà câu hát “quê hương là chùm khế ngọt” lâu lắm mới lảng vảng trong đầu một lần.

***

Tuần thứ ba mươi bảy của thai kỳ, bác sỹ nói ối vẩn và cạn quá mức cho phép dù mỗi ngày Chiêu uống đến ba trái dừa tươi. Bác sỹ trưởng khoa quyết định mổ bắt con sau khi tự tay ông siêu âm và xem hình ảnh. Đây là đứa con trai đầu lòng của Chiêu nên đứa bé nhận được rất nhiều sự quan tâm yêu thương của cả gia đình hai bên nội ngoại. Sau liều gây tê vùng, bác sỹ véo vào bụng Chiêu, cô kêu ầm lên. “Đau quá”. Bác sỹ gây tê lẩm bẩm… “ngày nay là ngày gì không biết, đây là ca gây tê thứ ba không thành”. Chiêu bị gây mê toàn thân.

Cô mở mắt ra trong căn phòng sáng choang, nhìn quanh ngơ ngác. Cô khẽ gọi:

– Anh Quang ơi.

Chồng cô từ ngoài bước vào nhìn cô ân cần. “Em đau lắm phải không!? Chiêu lắc đầu. Quang lại hỏi. “Làm sao em khóc? Anh thấy em khóc à?”

– Con đâu anh?

– Ừ, anh vào hai lần, em chưa tỉnh nhưng nước mắt cứ chảy quanh, anh biết là em khóc. Để anh đưa em về phòng hậu phẫu nhé. Con ngoan lắm. Bà nội đang bế.

Phòng hậu phẫu có sáu sản phụ mổ sinh, Chiêu ít tuổi nhất và là người tỉnh dậy sau cùng. Ai cũng bảo họ tỉnh ngay sau khi sinh con vài chục phút, chỉ có Chiêu mê man suốt năm giờ đồng hồ. Chiêu nghiêng người nhìn về phía con trai đỏ hỏn, bé tí. Mẹ chồng cô đặt đứa trẻ vào cạnh cô và nựng cháu.

– Nằm cho có hơi mẹ thôi, chứ mẹ chưa có sữa đâu nhá.

Chiêu không ngừng đưa mắt tìm kiếm khắp căn phòng. Nhưng Chiêu không hỏi. Chỉ tủi thân ứa nước mắt. Thuốc gây mê đưa Chiêu vào cơn mê lạ lùng. Chiêu chạy giữa một triền sông đầy hoa cải vàng để đuổi theo hai con bướm trắng. Đến khi cô ra sát bờ sông thì đất bất ngờ lở xuống, cô rơi xuống sông và chới với giữa dòng tuyệt vọng. Nước cuốn cô đi rất xa. Chiêu mắc vào một chiếc vó bè rất lớn và một ông già kéo cô lên. Ông hỏi cô người đâu, cô nói người làng Vân Diệu. Ông già bảo tôi sống gần hết đời người ở bến sông này mà không nghe tên làng Vân Diệu bao giờ. Và Chiêu bật khóc nức nở.

Chiêu được chuyển về phòng riêng theo yêu cầu của gia đình. Lúc ấy đã mười giờ đêm, nhà cô thì không gần bệnh viện lắm. Nhưng khi cô chuẩn bị lên bàn mổ, chính bố gọi điện thoại bảo bố mẹ đang trên đường đến bệnh viện cơ mà? Sao giờ không thấy ai? Cả các anh chị nữa?

Mười giờ ba mươi phút đêm. Có tiếng bước chân người đi vào phòng. Chiêu quay cổ nhìn ra. Là bố chồng cô. Ông mang theo một bình sữa nóng và nói cô uống cho lại sức và sữa chóng về.

Khuya, lại có tiếng bước chân, Chiêu nhìn ra. Là ông trưởng khoa. Ông ân cần hỏi han và xem mắt thằng bé rất kỹ.

– Vàng da sơ sinh thôi. Ba bảy tuần mà hai cân bảy là ngon lành rồi, khi nào có sữa phải cho cháu bú ngay nhé.

Gần sáng lại có tiếng bước chân, Chiêu nhìn ra cửa. Không có ai cả, có lẽ là cơn gió thốc từ đầu hồi dọc hành lang, va phải cánh cửa phòng nào đó không khép thôi. Đêm dài thế không biết. Không nhịn được nữa. Chiêu hỏi chồng.

– Sao bố mẹ em không tới, cả chị dâu và chị gái đâu? Mọi người đâu cả rồi? Hay em vẫn đang mơ?

Chồng Chiêu mỉm cười.

– Mọi người ngồi ngoài kia, không ai được vào đâu? Vân cãi.

– Sao ông bà nội vào được?

– À, do ông bà đến sớm và đăng kí từ trước. Tiêu chuẩn chỉ có hai người thôi mà.

Mẹ chồng cô nhắc con trai: “Vợ đã hay nhìn ra cửa, mày còn cứ lượn ra lượn vào”.

Ngày thứ hai, cơn đau co tử cung và đau từ hai vết rạch khiến Chiêu tái mặt. Nhưng Chiêu không ngừng thắc mắc và chồng cô tìm cách dối quanh. Đến ngày thứ ba thì chồng cô buộc phải nói thật. Bố cô bị tai nạn trên đường đến bệnh viện do một chiếc ô tô mất lái đâm vào. Cả hai người và chiếc xe bị văng ra xa nhưng mẹ cô chỉ thương nhẹ.

Chiêu cắn răng vào chiếc khăn tay chặt đến nhức nhối, đến mức tự cô không lấy cái khăn ra được. Máu tươi từ vết mổ rỉ ra, thướm qua băng gạc ngấm vào chiếc tã chéo màu hồng mẹ chồng cô buộc ngang bụng cô làm hèm. Chiêu khóc bằng hai bàn tay nắm chặt vào nép giường và nước mắt cô chảy ướt mái tóc dày xổ ra, màu đen chảy lai láng trên nền đất khiến mẹ chồng cố cứ lát lại gom tóc con dâu để lên giường. Tóc cô bết lại như một dải rêu bị người ta vớt lên khỏi nước và vắt lên tảng đá hong nắng. Nếu cô không sinh con ngày hôm nay, thì bố cô có bị tai nạn không? Nếu cô chịu khó uống thêm hai trái dừa nữa một ngày. Nếu cô bảo bố mẹ đừng đến, mẹ chồng con ở đây rồi. Nếu cô đừng lấy chồng xa. Nếu cô đừng sợ dòng sông chỉ lở mà không bồi. Nếu…

Chiêu tự dằn vặt đến mụ mị. Mẹ chồng cô ngồi tựa vào tường bất lực nhìn con dâu vật vã trong cơn đau đớn mà đời bà sáu lần sinh nở không bao giờ phải chịu như thế. Chồng cô nói như van nài.

– Em cố gắng bình tĩnh đi. Con đang cần sữa mà. Em nhìn này, sữa em trong như nước mắt ấy.

Chiêu cũng không hiểu tại sao nước mắt mình lại đi ra bằng con đường ấy. Chả phải mọi người không muốn cô khóc hay sao? Hay là mắt cô đã mờ mịt rồi?!

Ngày Chiêu ra viện về nhà. Bố cô chìa tay đón cháu ở cửa, nhưng cô không đưa.

– Ông sẽ làm ngã cháu đấy.

Không hiểu sao Chiêu lại nói thế. Bố cô có vẻ giận. Ông bỏ đi. Ông bỏ đi khỏi Chiêu và giấc mơ của cô đến tận bây giờ. Giá như bố biết, cháu trai của bố giờ đã năm tuổi, thông minh, nghịch ngợm nhưng rất biết vâng lời.

Mẹ đến bế cháu ngoại đúng vào chiều ba mươi tết. Mẹ hỏi Chiêu:

Có nên hóa cái cặp số đen cùng toàn bộ đơn từ của bố con không? Nhìn thấy nó, mẹ mất ăn mất ngủ.

– Đơn gì hả mẹ?

– Ô hay, mẹ tưởng mẹ đã kể cho con nghe rồi. Bố con kiện kẻ đã làm lở đất làng mình ấy.

– Là ai hả mẹ? Con tưởng do trời thôi chứ.

– Không. Là do con người. Những cái tàu hút cát sỏi phía chân cầu ấy. Chính bọn họ làm dòng sông trở nên hung ác dữ tợn như thế. Bố con cứ xách cặp tài liệu đơn từ đi khắp nơi, gặp hết người này người khác, xin chữ ký khắp lượt người trong làng. Cái xe đâm vào bố mẹ gây tai nạn rồi bỏ chạy ấy, để lại trên áo bố con rất nhiều cát. Mẹ nhận ra những hạt cát làng mình.

Chiêu vội vàng.

– Theo con, mẹ nên hóa cho bố, để bố tiếp tục thực hiện những tâm nguyện dang dở.

Nói xong, Chiêu mới thấy mình vô lý. Mấy chục năm, bố đi khắp đây khắp đó, tìm cách, tìm nơi cứu làng, cứu dòng sông mà chưa đâu vào đâu. Tất cả chỉ là lời hứa hẹn. Bố đã gõ bao nhiêu cánh cửa, đến bao nhiêu cuộc họp. Thậm chí, bố còn nhảy lên xuồng cát, cãi nhau tay đôi với bọn phá hoại, nhưng rút cục, bố đã đạt được điều gì? Giờ về bên kia, nếu muốn bố an nghỉ, thì nhẽ ra không nên hóa đi chiếc cặp số. Nhưng để lại thì mẹ sẽ mãi bị ám ảnh.

Chiêu xuống xe ở bến chính. Chồng cô đợi sẵn. Trên đường về, cô thủ thỉ.

– Tết này vợ chồng mình đưa con về ngoại ăn tết nhé.

Ngồi sau xe, Chiêu đưa mắt nhìn khắp phố xá hối hả những dòng người. Bỗng chồng cô bảo:

– Nhìn cái ông kia kìa, giống bố thế.

Giật mình nhìn theo tay chồng chỉ, Chiêu thấy người đàn ông vác một cành đào rất to chi chít hoa đang trôi trên phố như chuyến đò hoa làng Vân Diệu ngày xưa. Chiêu nói như người ngủ mê.

– Bố vứt cái cặp đi rồi hả bố? Hoa đào làng mình đẹp nhất bố nhỉ!

T.N.H

 

Bài viết liên quan

Xem thêm
Người giữ mùa gió – Truyện Chu Phương Thảo
Con đường làng mùa hạ vẫn bụi mờ và khét nắng như thuở nào. Giữa cánh đồng khô cháy, một cậu bé gầy gò đang lom khom mò cá trong mương nước đục. Chiếc quần vá, đôi chân trần rớm máu vì gai cỏ nhưng ánh mắt sáng, kiên cường như muốn nuốt trọn cả chân trời nắng gắt.“Vũ ơi, về đi con, trưa rồi! Mẹ nấu cơm xong hết rồi đó!” Tiếng người phụ nữ gầy yếu gọi vọng từ xa, lạc giữa gió Lào bỏng rát. Cậu bé quay lại, cười toe toét:“Con bắt thêm con cá nữa thôi mẹ ơi! Tối nay mình có canh cá ăn nha!”
Xem thêm
“Quyền năng của người lớn” – Truyện ngắn Nguyễn Bình An
Giấc ngủ trưa của tôi bị phá tan bằng một thứ âm thanh làm tôi giật thót mình - tiếng mẹ chửi con.Mày đi khỏi nhà tao! Tại sao mày uống ca cà phê mà không dẹp? Đợi tao dẹp ha gì? Tao là mẹ mày hay ở đợ cho mày? Nội dung câu chửi cũng không đến mức khủng khiếp. Nhưng cái giọng chửi thì đáng kinh. Nó the thé, hoằm hoặm. Đó là tiếng chửi mà Bích trút xuống đứa con trai mới tám tuổi của mình - thằng Long. Long ngồi thu mình lại sát góc nhà. Hai tay như đang cố bịt tai. Hai chân dạng, lưng ngả ra sau tìm điểm tựa nơi vách nhà. Mắt mở thao láo, vô hồn. Dù cây cần nước để sống. Nhưng Long như một cây non quằn quại dưới làn nước mạnh liên tục dội tạt vào. Nó oặt mình đi. Bà mẹ trẻ đang dạy con hay đang trút hằn học trong người? Dũng - chồng Bích - đi làm gần hai tháng nay chưa thấy gửi tiền về. Những cuộc điện thoại của Bích gọi đi trong nước mắt nhưng Dũng luôn đáp lại bằng sự hững hờ.
Xem thêm
Nước cuốn bông tràm – truyện ngắn Chinh Văn
Lý do trở về cửa biển nầy của chị là gì?. Mỏi gối chồn chân hay hương tàn sắc nhạt?, nhớ cố hương hay lương tâm lên tiếng?, chính chị cũng không trả lời thỏa đáng. Cũng có thể là tất cả những cái đó thôi thúc chị về quê. Chỉ biết rằng sau những đau khổ chất chồng, sau những tháng ngày bon chen ở đất Sài Gòn, nay chị về vùng U Minh Hạ nầy nương nhờ nhà vợ chồng đứa cháu để sống qua ngày với nghề buôn bán cá khô.
Xem thêm
Cánh ngỗng đỏ bay qua giếng ngọc - Truyện lịch sử Nguyễn Thị Việt Nga
Chiều ở Loa Thành lặng như tờ giấy đã ố màu. Không tiếng người. Không bóng ai. Chỉ gió thổi cỏ lau nghiêng ngả, cuốn theo mùi đất xưa lẫn với mùi tro tàn cổ tích.
Xem thêm
Lời hứa - Truyện cực ngắn của Lê Thanh Huyền
Nguồn: Diễn đàn Văn nghệ Việt Nam số 41 tháng 10/2025.
Xem thêm
Ký ức tuổi thơ tôi – Truyện ngắn Vũ Mạnh Định
Có một miền quê nằm bên dòng Hoàng Long lặng lẽ, nơi triền bãi xanh mướt ôm lấy con nước hiền hòa, nơi mỗi chiều vang lên tiếng chuông chùa Thông Linh Tự và mỗi mùa hội đình lại rộn ràng cờ hoa rợp ngõ. Ấy là quê tôi - thôn Thần Thiệu nhỏ bé nhưng chan chứa tình người, nơi đã nuôi dưỡng tuổi thơ tôi bằng tiếng trống hội, bằng mùi khói rơm chiều và những câu chuyện lịch sử vọng về từ ngàn xưa.
Xem thêm
Máu đỏ da vàng – truyện ngắn của Lại Văn Long
“Máu đỏ da vàng” – truyện ngắn của Lại Văn Long không chỉ là bi kịch của một người đàn bà trong vòng xoáy hậu chiến, mà còn là bản hòa ca của lòng nhân và tinh thần hòa giải dân tộc.
Xem thêm
Trạm xá - Truyện Võ Đào Phương Trâm
Đồng hồ bước qua 7 giờ tối, bên ngoài khuôn viên Trạm xá tối om như mực, bác sĩ Nguyên vẫn còn miệt mài với chồng hồ sơ bệnh án, thỉnh thoảng, anh khẽ ngước mặt nhìn ra khung cửa, từng đợt gió thổi nhẹ mang theo chút mùi hương hoa rừng.
Xem thêm
Bông hoa của bản – Truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Trang
Tiếng khóc thút thít của Mai vọng từ phía buồng lại, xóa tan sự tĩnh lặng của đêm. Páo ngồi bên bếp, nồi nước đang sôi ùng ục bốc khói, tay Páo cầm thanh củi cời những viên than hồng rực, ánh mắt vô định nhìn những ngọn lửa bập bùng cháy cũng như lòng Páo lúc này đang không yên. Páo muốn đi vào trong phòng Mai, nói với Mai rằng hãy đứng dậy và bỏ đi cùng anh. Hãy bỏ lại tất cả cuộc sống hiện tại để đến một nơi khác bắt đầu cuộc sống mới như đôi chim cu tự xây tổ mới cho mình, như đôi hoẵng chạy vào rừng sâu sống cuộc sống yên bình... Từ nhỏ Páo đã chứng kiến Mai khổ quá rồi, giờ nếu tiếp tục để Mai chịu khổ hơn nữa anh thấy mình càng vô dụng như khúc gỗ dưới sàn nhà, như cây lá han trong rừng.
Xem thêm
Vùng đất hứa -Truyện Đông Sơn Lữ Khách
Vùng đất hứa – giấc mơ của biết bao người ở một phương trời xa xôi. Nhưng để chạm tới giấc mơ ấy, họ phải đánh đổi bằng mồ hôi, nước mắt, thậm chí cả máu và sinh mạng. Câu chuyện này được viết để nhắc rằng: Hạnh phúc thật sự không nằm nơi đất khách, mà ở chính quê hương, nơi có tình thân và vòng tay chờ đợi.
Xem thêm
Kịch bản hoàn hảo – Truyện Miên Tình
Đây rồi, cung điện Potala hiện ra như một huyền thoại hóa đá, đứng sững trên đỉnh núi Hồng Sơn, giống như một bài thơ viết bằng gió, bằng tuyết và bằng máu của thời gian. Mái ngói đỏ sậm, tường trắng ngà, tầng tầng lớp lớp như những lớp ký ức quyện vào nhau không thể bóc tách. Cô bước chậm từng bậc thang lên, mỗi bước như dấn thêm vào một thế giới không dành cho người vội vã, từng phút giây đều như chờ đợi giống như cô. Trái tim đập chậm lại, chẳng phải vì độ cao, mà vì một cảm giác vô danh của sự u buồn thánh thiện.
Xem thêm
Như là giấc mơ - Truyện ngắn Huỳnh Ngọc Lan
Nguyên nhà giáo, nhà văn Huỳnh Ngọc Lan sinh năm 1952 quê quán ở Huế nhưng sinh ra và lớn lên ở Vinh, bởi ba chị đi tập kết gặp mẹ chị ở Nghệ An. Thời kỳ Đế quốc Mỹ ném bom khốc liệt bất kể ngày đêm từ Vĩnh Linh đến Quảng Bình rồi Hà Tĩnh và Nghệ An. Lúc này chị đang theo học Trường đại học Tổng hợp Hà Nội, chuyên ngành hóa. Thật đau thương khôn xiết, khi Mẹ và ba người em của chị chết trong một trận bom vùi giữa đêm khuya; sau ngày đất nước thống nhất, chị theo ba về ở Huế quê nội.
Xem thêm
Dưới bóng núi – Truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Trang
Mùa mưa ở vùng biên như một lời thách thức của thiên nhiên. Những con đường mòn dẫn vào bản bỗng hóa thành dải bùn đặc quánh, trơn như mỡ. Mây sà xuống tận mặt người, núi rừng hùng vĩ, hoang dại, đẹp đến nghẹt thở nhưng cũng dữ dằn không kém. Con đường này Khương đã thuộc đến từng khúc cua, từng con dốc và anh biết chỉ cần lỡ tay là sẽ lao xuống vực sâu hun hút. Vượt qua những khó khăn ấy, bản Khe Nặm hiện ra như nốt nhạc bình yên giữa bản giao hưởng dữ dội của núi rừng.
Xem thêm
Bàn tay vịn - Truyện ngắn của Hội An
Truyện ngắn in ở số 153 tạp chí Văn nghệ TP. HCM
Xem thêm
Bố vợ - truyện cực ngắn của Lê Thanh Huệ
Nguồn: Diễn đàn Văn nghệ Việt Nam số 40 tháng 9 năm 2025.
Xem thêm
Chuông chùa Chân Giáo – Truyện lịch sử Nguyễn Thị Việt Nga
Mùa đông năm ấy đến sớm. Mới cuối tháng mười âm lịch mà gió bấc đã rít lên từng đợt, khí lạnh xuyên da thịt. Gió quất nghiêng những ngọn cây bồ đề và gốc đại quanh chùa Chân Giáo. Không khí buốt giá và ảm đạm, sương đọng đầy trên cành khô, thấm cả vào đá, vào gạch, vào những pho tượng Phật im lặng như thời gian đã đông cứng lại, đóng khung vào những hình hài cụ thể.
Xem thêm
Giấc mơ hoa cúc vàng - Truyện ngắn của Tàn Tuyết
Tàn Tuyết tên thật là Đặng Tiểu Hoa, sinh năm 1953, là một nhà văn và phê bình văn học tiên phong của Trung Quốc. Những năm gần đây, Tàn Tuyết liên tục được đề cử trao giải Nobel văn học. Một số tác phẩm của bà đã được xuất bản ở Việt Nam như: Hoàng Nê phố, Bảng lảng trời xanh, Đào nguyên ngoài cõi thế, Những chuyện tình thế kỉ mới, Phố Ngũ Hương…
Xem thêm
Hoàng hôn trên bờ sông Main - Truyện ngắn của Trần Thủy
Tôi gặp em vào buổi chiều hôm ấy. Khi ánh mặt trời thoắt vàng như mật choàng ngập trên từng ngôi nhà rồi bất chợt lóng lánh màu hổ phách, đổ sang sắc rượu chát thành một vệt dài trầm mặc phủ kín đôi bờ sông Main.
Xem thêm
Mái tranh nghèo của mẹ - Truyện ngắn Đặng Chương Ngạn
Truyện ngắn được Giải Nhì (không có giải nhất) Giải thưởng Quỹ nhà văn Lê Lựu 2018-2020
Xem thêm