TIN TỨC

Đọc tập thơ ‘Mùa thu nắng khóc’ của Phạm Đức Mạnh

Người đăng : phunghieu
Ngày đăng: 2022-06-21 14:08:54
mail facebook google pos stwis
2021 lượt xem

Châu Thạch

 Nhà thơ Phạm Đức Mạnh quê quán Xuân Trường, Nam Định, là một nhà thơ được ái mộ trên văn thi đàn, đã xuất bản 8 tập thơ.

Nhà thơ Phạm Đức Mạnh và tập thơ “Mùa Thu Nắng Khóc”

“Mùa thu nắng khóc” là một tựa đề hơi khó hiểu, bởi vì một năm nắng có 4 mùa, nắng mùa xuân thì tươi hồng, nắng mùa hè thì chói chang, nắng mùa thu dịu mát, chỉ có nắng mùa đông mới có thể gọi là nắng khóc vì bầu trời thiếu nắng, âm u. Vậy để hiểu vì sao tác giả lấy tựa đề tập thơ là “Mùa thu nắng khóc” thì ta phải đọc qua bài thơ “Mùa thu nắng khóc” in trong tập thơ này, bài thứ 40 trang 62:

Nâng niu làn gió

Hái đóa hương đồng

Cài lên mộ Mẹ

Thơm trời mênh mông

Mẹ nằm trong nhớ

Trái tim tình làng

Mùa thu nắng khóc

Thương chiều lang thang

Con xa quê mãi

Đời cũng bạc rồi

Đường trần nghiệt ngã

Đắng hồn mồ côi…

Cầm tập thơ trên tay, ở trang đầu, hàng chữ “Kính dâng Mẹ Cha tuyển thơ này: MÙA THU NẮNG KHÓC – Con trai Phạm Đức Mạnh” đã cho tôi một cảm mến tự nhiên đến trong tâm hồn. Đọc bài thơ “Mùa Thu Nắng Khóc” lòng tôi thêm ngập tràn cảm xúc, bởi nhà thơ đã hư cấu tiếng khóc của ánh nắng mùa thu để gởi nỗi nhớ Mẹ của mình vào đó. Hôm qua tôi viết về bài “Màu Của Gió” thơ Như Không, hôm nay tôi viết về bài “Múa Thu Nắng Khóc” của Phạm Đức Mạnh, cả hai cụm từ đều khó hiểu nhưng đều đem dến cho tâm hồn tôi sự thăng hoa của một người thấy được ý thơ sâu xa bằng trực giác cúa mình.

Bài thơ “Mùa Thu Nắng Khóc” chỉ có 3 khổ thơ nhỏ mọn, nhưng chỉ ngay ở khổ thơ đầu ta đã thấy mộ Mẹ nằm trên cánh đồng trăng thanh gió mát về đêm, hoa thơm cỏ lạ về ngày và bầu trời mênh mông vô tận như tình yêu của mẹ đã từng gởi cho đời: “Nâng niu làn gió/Hái đóa hương đồng/Cài lên mộ Mẹ/Thơm trời mênh mông”.

Rồi thi khổ thơ thứ hai “Mẹ nằm trong nhớ/ trái tim tình làng/Mùa thu nắng khóc/ thương chiều lang thang” cho ta nhận biết trái tim của Mẹ là trái tim nhân hậu mang đầy đủ hồn quê mộc mạc, hy sinh và yêu thương vô tận. “Mẹ nằm trong nhớ” không phải là mẹ nhớ mà là con nhớ mẹ, người thân nhớ mẹ, xóm làng nhớ mẹ, ngôi nhà thân yêu nhớ mẹ, mãnh vườn, lũy tre nhớ mẹ, cho đến “Mùa Thu Nắng Khóc” nghĩa là mùa thu cũng nhớ mẹ nên ánh nắng buồn như muốn khóc. Mùa thu thì nắng đẹp, cho nên mùa thu nắng có khóc thì cũng khóc dịu dàng êm ái như giọt lệ mỹ nhân. Bởi vậy tác giả cho nắng mùa thu khóc để thơ đầy thi vị của hương, của hoa và của gió trời.

Khổ thơ thứ 3 là lời tạ lỗi với mẹ của tác giả, người con ở xa ngàn dặm, đã từng như Trần Trung Đạo “Mười năm tóc mẹ màu tang trắng/ Trắng cả lòng con lúc nghĩ về” để rồi muốn “Đổi cả thiên thu tiếng mẹ cười” mà nào đâu đổi được! Nhà thơ Trần Trung Đao hạnh phúc hơn, còn nghe được tiếng mẹ để thốt lên “Tiếng ai như tiếng lá thu rơi”, còn nhà thơ Phạm Đức Mạnh thì xót xa hơn: “Con xa quê mãi/Đời cũng bạc rồi/Đường trần nghiệt ngã/Đắng hồn mồ côi…” nghĩa là chẳng bao giờ còn được nghe “Tiếng ai như tiếng lá thu rơi” như Trần Trung Đạo nứa.

“Mùa Thu Nắng Khóc”, môt bài thơ mang linh hồn của cả tập thơ, và cả tập thơ mở rộng chủ đề của “Mùa Thu Nắng Khóc”. Tập thơ gồm có 102 bài thơ trong đó nhiều bài thơ mang biết bao nỗi niềm, với biết bao tiếng nấc yêu quê hương, thương cha và nhớ mẹ.

Ta hãy đọc một khổ thơ nỗi niềm:

Nghẹn ngào uống cả thu say

Gạn từ cơn khát tháng ngày chờ mong

Nghiêng nghiêng trở giấc mơ hồng

Một thời vùng vẫy gãy dòng sông tương

(Nỗi Niềm)

Ta hãy đọc thêm một nỗi lo của tác giả, một nỗi lo làm cho trống rỗng cả không gian:

Nếu một mai mẹ đi… đi… đi mãi

Hoa hồng đổi màu, bông nào cho mẹ bao dung

Thế gian với con là khoảng trồn vô cùng…

(Nếu Mai Không Còn Mẹ)

Rồi ta hãy đọc không phải chỉ nắng khóc vì nhớ mẹ, mà cho đến thơ cũng đã dành nhà thơ để khóc:

Đêm đêm tôi ngồi nhớ mẹ

Tiếng lòng ướp ngọt sông quê

Sắc hương ngát thơm kỷ niệm

Lời ru dắt lối say về

Cầu làng thôi buồn hóa đá

Chuông tâm chùa lại ngân vang

Mùa chay hương sen thiền tịnh

Nam mô Phật đãi cả làng

Về quê ùa lên nhà mẹ

Lặng ngồi tước lệ sầu cay

Bốn mùa miên man gió hát

Cha cười gảy nhớ vàng bay

(Câu Thơ Dành Khóc)

Tôi nghĩ không cần viết chi thêm gì nữa, vì chỉ hai bài thơ “Mùa Thu Nắng Khóc” và “Câu Thơ Dành Khóc” đã làm toát yếu được cho cả tập thơ. Cả tập thơ là tiếng thổn thức của người con lìa quê hương dài năm tháng. Tiếng thơ là tiếng khóc không u uất, không tràn lan giọt lệ, mà như tiếng nước mây đồng vọng, mà như tiếng gió trong nắng mùa thu. “Mùa Thu Nắng Khóc” có tiếng thơ như “tiếng lòng ướp ngọt sông quê”, như “Bốn mùa miên man gió hát”, để cho người đi xa nhớ “Sắc hương ngát thơ kỷ niệm” mà theo “Lời ru dắt lối say về”. Hãy đọc “Mùa Thu Nắng Khóc” của Phạm Đức Mạnh vì đó là “Lời ru dắt lối ta về” với song thân ta, với quê hương ta và với muôn vàn kỷ niệm mà ta nhớ ta thương.

C.T

Bài viết liên quan

Xem thêm
Nguyễn Thanh Quang - Giọng thơ trầm lắng từ miền sông nước An Giang
Trong bản đồ văn học đương đại Việt Nam, mỗi vùng đất đều mang trong mình một mạch nguồn riêng, âm thầm mà bền bỉ, lặng lẽ mà dai dẳng như chính nhịp sống của con người nơi đó. Và trong không gian thi ca rộng lớn ấy, An Giang như một miền phù sa bồi đắp bởi nhánh sông Hậu, bởi dãy Thất Sơn thâm u, bởi những cánh đồng lúa bát ngát, bởi mênh mang sóng biển và bởi những phận người chất phác, luôn có một sắc thái thi ca rất riêng. Đó là vẻ đẹp của sự hiền hòa xen chút sắc bén, của nỗi lặng thầm pha chút đa đoan, của những suy tư tưởng như bình dị mà lại chứa cả thẳm sâu nhân thế.
Xem thêm
Thơ Thảo Vi và cội nguồn ánh sáng yêu thương
Giọng thơ trầm bổng, khoan nhặt. Thi ảnh chân phương mà thật gợi cảm và tinh tế. Có lúc ta cảm nhận được những man mác ngậm ngùi, nỗi hối tiếc đan xen niềm hoài vọng, mơ tưởng. Thơ Thảo Vi có sự hòa phối các biện pháp nghệ thuật với dụng ý làm nổi bật nội dung, tư tưởng cốt lõi. Đó là tâm thức cội nguồn, chạm đến đỉnh điểm của tình cảm thương yêu, thấu hiểu với cõi lòng của đấng sinh thành. Thơ Thảo Vi là tiếng gọi đầy trìu mến, sâu lắng dư âm từ những thi hứng đậm cảm xúc trữ tình.
Xem thêm
Những chấn thương nội tâm trong “Mã độc báo thù”
“Mã độc báo thù” là tiểu thuyết mới nhất của nhà văn Nguyễn Văn Học, vừa được NXB Công an nhân dân phát hành. Đây là một trong vài tiểu thuyết đầu tiên viết về đề tài tội phạm công nghệ cao ở Việt Nam. Tuy nhiên, nhà văn không chỉ nói về tội phạm, mà còn xoáy sâu về những tổn thương của con người trong thời đại số.
Xem thêm
Huệ Triệu, một nhà giáo, nhà thơ
Cả hai tư cách, nhà giáo và thi nhân, Huệ Triệu là một gương mặt sáng giá.
Xem thêm
Chúng ta có thực sự tự do trong chính tác phẩm của mình?
Văn học, cũng như các lĩnh vực khác, theo tôi đều có những dòng chảy nối tiếp âm thầm, tạo nên nhiều sự giao thoa, đan cài giữa cũ và mới, quen thuộc và khác lạ
Xem thêm
Biểu tượng nước trong thơ Vũ Mai Phong
“Nước” trong văn hóa phương Đông là thủy – khởi nguyên của sự sống, mang phẩm chất mềm mại – bền bỉ – linh hoạt biến hóa của triết lý nhu thắng cương. Trong thi ca Việt Nam, “nước” gắn với dòng chảy thời gian tâm thức dân tộc, văn hóa lịch sử và tâm linh
Xem thêm
“Hư Thực” của Phùng Văn Khai: Tiếng nói Hậu Hiện Đại và Dấu Ấn Văn Chương Đương Đại Việt Nam
Văn học luôn là tấm gương phản chiếu xã hội, là nơi ghi lại những biến chuyển của thời đại và tâm hồn con người. Trong lịch sử văn học Việt Nam, mỗi thời kỳ đều có những tác phẩm tiêu biểu, vừa mang dấu ấn thời đại, vừa để lại những giá trị trường tồn cho đời sau. Tuy nhiên, khi thế giới bước vào kỷ nguyên toàn cầu hóa và đa dạng văn hóa, các giá trị truyền thống gặp nhiều thử thách. Đặc biệt, với sự bùng nổ thông tin và biến động xã hội, con người ngày nay không còn sống trong một thế giới đơn giản, rạch ròi mà là một thế giới đa chiều, hỗn loạn và khó đoán định.
Xem thêm
Thế giới kỳ vĩ của thơ
Thế giới của thơ, với thi sỹ là bến đậu của tâm hồn, là cánh đồng gieo trồng cảm xúc và chữ nghĩa, là bầu trời để cất cánh ước mơ và thả hồn phiêu lãng; với đọc giả là nhịp cầu kết nối con tim, là dòng sông soi rọi, tắm táp tâm hồn để được nâng đỡ và bay cao.
Xem thêm
Văn học dịch và những tác động đến đời sống văn học Việt Nam những năm đầu thế kỉ XXI
Nói đến văn học dịch những thập niên đầu thế kỉ 21, có lẽ, trước hết, phải nhắc tới việc rất nhiều tác phẩm thuộc hàng “tinh hoa”, “kinh điển”, hay các tác phẩm đạt được các giải thưởng văn chương danh giá (Nobel, Pulitzer, Man Booker...) đã được chú trọng chuyển ngữ trong giai đoạn này.
Xem thêm
Vài nhận thức về trường ca “Lò mổ” của Nguyễn Quang Thiều
Tôi hỏi nhiều nhà thơ và văn, rằng họ thấy trường ca “Lò mổ” của Nguyễn Quang Thiều như thế nào và đặng họ có thể khai sáng chút gì cho tôi nhưng không ai có câu trả lời khiến tôi thỏa mãn, đa phần đều nói “Ái chà, Lò mổ của Nguyễn Quang Thiều hả, bọn tớ cũng chỉ nghe dư luận ồn ào trên mạng thôi chứ có sách đọc đâu!”.
Xem thêm
Nguyễn Duy – Vịn thi ca vượt thác thời gian...
Bài đăng Văn nghệ Công an số ra ngày 13/11/2025
Xem thêm
Thơ có nghĩa là “thương” - Tiếng thơ Đặng Nguyệt Anh
Một bài viết thấm đẫm nhân tình của Tuấn Trần – người trẻ viết về Đặng Nguyệt Anh, “ngoại” của thơ và của lòng nhân hậu. Từ câu chữ đến cảm xúc, bài viết là một lời tri ân chân thành dành cho thế hệ cầm bút đã “đem trái tim yêu thương gánh ghì số phận chung”, để hôm nay, thơ của họ vẫn còn làm dịu đi những cơn bão đời người.
Xem thêm
Chất liệu dân gian trong ca khúc Việt Nam hiện đại
Bài viết này xin phép được tiếp tục trình bày một xu hướng vận động chủ đạo của âm nhạc dân gian truyền thống Việt Nam sau 1975: dân tộc hóa ca khúc Việt Nam.
Xem thêm
Đọc thơ Thiên Di
Dường như là một giấc mơ chậm rãi, dịu dàng, vẫn đọng lại dư âm của cô đơn, khao khát và hy vọng. Tác giả sử dụng nhịp điệu từ những chi tiết nhỏ – mưa rả rích, ánh mắt, cánh hoa – để cảm xúc lan tỏa, khiến độc giả không cần lạm dụng từ ngữ hoa mỹ vẫn cảm nhận được sự mềm mại, tinh tế và ám ảnh.
Xem thêm
Nguyễn Khuyến “thâm nho” giữa đời thường
Nguyễn Khuyến (Nguyễn Thắng, 1835-1909) hiệu Quế Sơn, tự Miễn Chi. Người đời gọi ông là Tam Nguyên Yên Đổ, do lấy địa danh là xã (làng) Yên Đổ (huyện Bình Lục, Hà Nam trước đây) ghép với việc ông thi đỗ đầu (giải nguyên) cả ba kỳ thi hương, hội và đình. Nhưng việc này thì chính Nguyễn Khuyến cũng chẳng tự hào cho lắm, ông viết: “Học chẳng có rằng hay chi cả/ Cưỡi đầu người kể đã ba phen”.
Xem thêm
Triệu Kim Loan - Khúc độc thoại xanh của hồng gai
Bài viết sâu sắc dưới đây của nhà văn Kao Sơn dành cho buổi ra mắt sách Chữ gọi mùa trăng - Tập thơ thứ 7 đánh dấu chặng đường chín muồi của nhà thơ Triệu Kim Loan
Xem thêm
Quan niệm của Xuân Diệu về thơ từ những câu chuyện đời thường
Sinh thời, theo thống kê của Mã Giáng Lân, thi sĩ Xuân Diệu đã có hơn 500 buổi bình thơ trước công chúng. Đây là hoạt động nghệ thuật mà hiếm có nhà thơ, nhà văn nào ở Việt Nam và cả trên thế giới có thể sánh được. Không chỉ trong nước, chính “ông Hoàng thơ tình” Xuân Diệu đã có công quảng bá thi ca Việt Nam ra thế giới, giúp độc giả nước ngoài biết đến Nguyễn Du, Nguyễn Trãi, Tú Xương, Hồ Xuân Hương…
Xem thêm
Hành trình nước - Bước chuyển mình của kẻ sĩ chu du
Với Hành trình nước, Vũ Mai Phong cho phép người đọc thám hiểm một cõi tâm hồn mình, để chiêm nghiệm, để cảm nhận sự chuyển hóa kỳ diệu của nước - từ giọt sương nhỏ bé hóa thành đại dương bao la, từ tâm hồn cá nhân hòa vào tính thiêng của Tổ quốc.
Xem thêm
Gió Phương Nam 4 - Những lời thơ chân thực
Trang thơ “Gió Phương Nam 4” dễ dàng gợi lại những bước chân đồng đội năm xưa – bước chân thời chiến, bước chân thời bình, mang theo niềm vui, nỗi nhớ và cả những nỗi buồn sâu lắng.
Xem thêm