TIN TỨC

Lửa và Nước trong một bài thơ tình lạ và hay

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2024-10-07 16:36:40
mail facebook google pos stwis
1755 lượt xem

PGS -TS NGUYỄN ĐỨC HẠNH


Trong chùm thơ 7 bài của Như Bình đăng trên “Viết và Đọc” chuyên đề mùa Hạ có 4 bài về tình yêu đôi lứa, 3 bài về chủ đề khác. Trong 4 bài về chủ đề tình yêu ấy “Ảo giác” ; “Trầm cảm 1” ; “Con thú”; “Viết về cái chết” thì bài thơ “Ảo giác” có sức mạnh ám gợi lạ lùng.

 

ẢO GIÁC

                           (Như Bình)

Anh sẽ nhớ em nhiều đấy
căn phòng ấy sáng nay gió lùa trở lạnh
tiếng ghế gỗ, tiếng mọt kiên trì kêu trong im lặng
ngoài kia sương giá rơi rồi.

Nỗi nhớ sẽ giày vò anh nhiều đấy
trong bủa vây mùi em trên từng nốt rêu ẩm mốc
cốc trà nguội dấu môi em còn ướt
ai hôn lên bóng em.

Ai gói giùm anh hương em
sợi tóc em hôm qua rụng ngời trên ghế
anh sẽ nhớ em nhiều lắm
khi mùa đông lạnh giá đang về.

Anh sẽ nhớ em nhiều đấy
mùa đã qua
những chiếc lá rụng bên thềm xóa bước chân em rất khẽ
nhấn chìm anh những khắc khoải vừa xa

Chúng ta đã tìm nhau, đã rời nhau, đã vắng xa nhau
chúng ta đã hôn lên nỗi cô đơn của nhau
để giờ đây
trong căn phòng chật đầy hương em
anh ngồi ăn kỉ niệm.

 


Nhà văn Như Bình.

Trong chùm thơ 7 bài của Như Bình đăng trên “Viết và Đọc” chuyên đề mùa Hạ có 4 bài về tình yêu đôi lứa, 3 bài về chủ đề khác. Trong 4 bài về chủ đề tình yêu ấy “Ảo giác” ; “Trầm cảm 1” ; “Con thú”; “Viết về cái chết” thì bài thơ “Ảo giác” có sức mạnh ám gợi lạ lùng. Ba bài thơ còn lại đều lạ và hay nhưng “Ảo giác” lạ lùng nhất, như một cuốn phim quay chậm, nhân vật Em trở về ngắm nhìn nhân vật Anh trong một không gian kì lạ. Cô ta độc thoại chậm, lạnh như nước mùa đông trôi trong suối, nhưng thực ra là đối thoại một phía - nói với Anh mà Anh nào có hay?

Dưới dòng suối mùa đông kia có một ngọn núi lửa phun ngầm - có lửa tình yêu cháy trong nước lạnh. Một cách viết lạ ít gặp trong thơ nữ Việt Nam đương đại: Không gào thét kêu đau và nhớ; Không cuống quýt sôi sục yêu và thương... Sao trong giọng điệu lạnh, điểm nhìn nghệ thuật di chuyển chậm, hệ thống thi ảnh trầm mặc, ít sử dụng những tính từ diễn tả cường độ mạnh, mà khi những câu thơ vang lên, chúng ta vẫn cảm nhận được một dòng thác bị “giam cầm" trong câu chữ.

Năm khổ thơ có bốn câu hỏi được điệp lại: “anh sẽ nhớ em nhiều đấy/ anh sẽ nhớ em nhiều lắm …”.

Hình như môtip “Người xuyên không” được sử dụng ở đây!? Hay thủ pháp dịch chuyển điểm nhìn trong không gian đồng hiện của Điện ảnh?! Nhân vật em như trở về một cách vô hình, vô ảnh, một cách siêu thực khi đứng ngoài không gian yêu thương của hai ta mà đăm đắm nhìn vào, mà đăm đắm độc thoại. Rồi bốn lần độc thoại “anh sẽ nhớ em nhiều đấy /lắm!”. Mà làm sao anh có thể không nhớ khi có bao tín hiệu thẩm mĩ thay mặt em hiện diện bên anh, như lướt qua, như hiển diện, cựa quậy, nói thầm, nhắc nhớ anh về em: “mùi em trên từng nốt rêu ẩm mốc”; “dấu môi em còn ướt”; “ai hôn lên bóng em”; “sợi tóc em hôm qua rụng ngời trên ghế”; “lá xóa dấu chân em rất khẽ…”. Tất cả thay em hiện diện trong căn phòng của anh, trước anh và cất tiếng với anh bằng tiếng nói vô thanh.

Đó là một thủ pháp độc lạ, rất lạ của Như Bình, chị làm người đọc ám thị, nổi da gà, ám ảnh bởi tiếng thổn thức của tình yêu vẫn ở lại, đập khắc khoải trong căn phòng, quấn quýt lấy người đàn ông mình yêu, nhưng hồn vẫn còn đó là thân đã phách lạc, cái thân xác cụ thể hiện thực đã không còn hiển diện nơi đây. Một không gian vắng Em mà vẫn đầy Em, vương mùi em, hương em, và tiếng nói vô thanh của em. Rồi yếu tố ngoại cảnh như gió thổi, than hồng càng thổi bùng nỗi nhớ trong anh mấy lần bùng cháy: “ngoài kia sương giá rơi rồi”; “mùa đông lạnh giá đang về”; “gió lùa trở lạnh…”. Như Bình lạnh, thản nhiên, điềm tĩnh quan sát hồn chị trong những thi ảnh vương vất nơi chị vừa ra đi, hoặc chị đã bỏ đi và chắc chắn một điều người ở lại sẽ không yên ổn dù chị đã xa ngái.
 

Không có một bản năng thi sĩ mãnh liệt kết hợp cùng Thiên tính Nữ, sẽ không viết được bốn câu thơ này:

Mùa đã qua
những chiếc lá rụng bên thềm xóa bước chân em rất khẽ
cầu thang cũ ngoài kia run lên rất nhẹ
nhấn chìm anh những khắc khoải vừa xa

“Thi trung hữu hoạ”. Thơ Như Bình luôn thế, chị vẽ bằng ngôn từ cả cái hữu hình và vô hình của thế giới, của lòng người. Trong bốn câu thơ trên, sợi tóc em vừa ngời sáng như làm bằng tia nắng trên ghế hôm qua, vậy mà chỉ cần em bước ra khỏi phòng, “Mùa đã qua”! Chao ôi! Bước chuyển của thời gian nghệ thuật: ở trong phòng và bước ra ngoài đã là hai thế giới CÓ ANH và KHÔNG ANH, ấm áp và lạnh lẽo khác nhau đến chừng nào?!

Chả thế mà “những chiếc lá rụng xóa bước chân em rất khẽ”. Anh có nghe thấy “Cầu thang cũ ngoài kia run lên rất nhẹ”?. Hỏi người cũng là hỏi mình. Tôi là người bình thơ cũng cùng cầu thang cũ run lên trong khoảnh khắc chia biệt. Càng nói thầm nhẹ bao nhiêu càng sâu xoáy bấy nhiêu. Khi cảm xúc tình cảm còn ở mức dịu nhẹ thì hay tìm đến ngôn từ ồn ào to tát để bù vào sự nhạt, và ngược lại. Tôi như đã nếm được độ mặn chát đến tột cùng của những câu thơ “ngoài đạm trong nồng” như người xưa từng nói.


Bến sông trăng - Tranh Như Bình.

Đến khổ thơ thứ 5, người đọc giật mình thêm một lần nữa:- câu thơ thứ nhất cắt nhịp 5/3/4, đánh dấu ba khúc đoạn trong đoạn đường đã chạy quanh kỉ niệm bằng 3 động từ TÌM - RỜI - VẮNG. Chỉ một câu thơ đã vẽ lên những bước chạy thập thõm, hơi thở gấp, lời độc thoại cũng đứt làm ba khúc. Lần đầu tiên từ “Chúng ta” xuất hiện trong bài thơ mà đến mấy lần bị chia cắt: “đã tìm nhau”, “đã rời nhau”, “đã vắng xa nhau”. Nụ hôn xuất hiện ở câu 2 tưởng như môt sự bù đắp sau bao chia li? Không! Đó là nụ hôn lạ và đau nhất trong các bài thơ tình tôi từng đọc, của Việt Nam và của thế giới: “chúng ta đã hôn lên nỗi cô đơn của nhau”…. Chỉ một từ “đã” mà dĩ vãng dằng dặc tìm về. Chắc chắn có cả ngọt ngào và chua xót.

Mơ rồi phải tỉnh. Em trở về hiện tại, lặng ngắm nhìn một hình ảnh lạ và buồn bã vô cùng:

Trong căn phòng chật đầy hương em
Anh ngồi ăn kỉ niệm.

Kĩ thuật của hội hoạ, của điện ảnh hòa quyện để khắc họa hai nhân vật trữ tình Em và Anh trong đối thoại một phía của em, trong dòng chảy thời gian thay đổi, chồng lấp, đồng hiện qua một không gian: “căn phòng chật đầy hương em”. Động tác “ăn kỉ niệm” của nhân vật Anh khiến người đọc giật mình nhưng cũng khiến cho nỗi buồn ngời sáng lạc quan. Anh không dửng dưng vô tình thì buồn xa cách không bao giờ chuyển thành tuyệt vọng. Anh vẫn “ăn” hương em, kỷ niệm của em như một món ăn tinh thần không thể thiếu để sống tiếp, để đi qua những chông chênh của cõi lòng. Người truyền thống có thể sẽ phản đối chị dùng động từ “ăn kỷ niệm”, nghe nó thô quá chăng? Tôi lại thấy Như Bình sâu sắc. Chị có chủ ý khi chắt lọc ngôn ngữ mạnh, đa nghĩa để đặt đúng chỗ. “Ăn” đau đớn và sâu hơn nhiều, phồn thực hơn nhiều so với hít, ngửi, nhớ. Ăn kỷ niệm đau sâu và đa nghĩa hơn vạn lần “anh ngồi nhớ thương kỷ niệm”.

Thơ Như Bình luôn thế, không bi quan gục ngã, một sức mạnh tinh thần luôn nâng đỡ để thi sĩ vượt lên thử thách, mỉm cười khi trái tim đang chảy máu.

Có lửa cháy ngầm trong nước lạnh và trong. Có hồi quang kỉ niệm trong "Ảo giác". Thành thực và trong veo đến tột cùng trong nội dung. Mới và đẹp cũng đến tột cùng trong hình thức biểu đạt nghệ thuật. Viết cho mình mà đâu còn riêng mình bởi tôi tin khi đọc bài thơ này, có biết bao người phụ nữ tìm thấy cuộc đời và tâm trạng mình trong đó. Đấy là thơ của Như Bình!

Nguồn:

Bài viết liên quan

Xem thêm
Tượng đài một anh hùng
Trường ca Tiếng chim rừng và đất lửa Tây Ninh (NXB Quân đội nhân dân, 2025) của tác giả Châu La Việt đã kiến tạo thành công nhiều biểu tượng về cuộc kháng chiến chống Mỹ một cách hệ thống, đa dạng về cấu trúc, sâu sắc về ý nghĩa, giàu có về tín hiệu thẩm mỹ.
Xem thêm
Cô gái Quảng Trị với nồng cay tiêu Cùa
Đọc 14 bài bút ký của nữ nhà báo Đào Khoa Thư, trong tập bút ký “Mùa bình thường” in chung với nhà báo Đào Tâm Thanh, do Nxb Thuận Hóa ấn hành tháng 7 năm 2025, tôi thật sự khâm phục cách viết khoáng hoạt của cô gái trẻ. Không gian được đề cập là mảnh đất quê nhà thân thương và những đất nước mà cô đặt chân đến để học tập, công tác, giao lưu, trải nghiệm. Lời văn tươi mới tràn đầy cảm xúc, lối viết chân thực, cởi mở, ngắn gọn cho ta thấy bao điều mới mẻ. Đọc lần lượt từng bài bút ký, thật thích thú với bao điều hấp dẫn qua từng câu chuyện kể về cuộc sống đời thường và các sự kiện diễn ra rất bổ ích.
Xem thêm
Đọc thơ Phương Viên – Ba khúc tình, rụng và gặp gỡ
Bằng giọng văn tinh tế, giàu cảm xúc và với kiến văn sâu rộng, tác giả đã khẳng định: thơ Phương Viên là nơi “chữ rụng mà hồn nở hoa”, một giọng thơ biết lặng đi để người đọc còn nghe tiếng của yêu thương và hồi sinh. Văn chương TP. Hồ Chí Minh xin giới thiệu bài viết này tới bạn đọc.
Xem thêm
Hạt bụi lênh đênh – Từ đất Ý hóa kiếp thân thương dưới trời nam
Rơi ra từ căn phòng bài trí trang trọng của một tòa lâu đài cổ kính. “HẠT BỤI” kia đã chọn kiếp “LÊNH ĐÊNH” để rồi một ngày lưu dấu hồn trần nơi “quê người đất khách”. Hẳn là trong sự lựa chọn “nghịch thường” đó, hàm chứa một điều lớn lao địa cửu thiên trường nơi thân mệnh mong manh cánh chuồn. HẠT BỤI LÊNH ĐÊNH – ngay từ nhan đề… đã cho thấy sắc tính Á Đông thông dụng. Điều đặc biệt ở đây. Nó được viết bởi ELENA PUCILLO TRƯƠNG một nhà văn, một nhà Khoa học/ học giả Ngữ Văn của Tây Phương – Ý.
Xem thêm
Hoài niệm quê hương trong thơ Nguyễn Quang Thuyên
Nguyễn Quang Thuyên vốn là “dân xây dựng” - Giám đốc Vinaconex 3 Phú Thọ , quê Tam Nông, Phú Thọ. Ai từng gặp anh thời điểm hiện tại sẽ có thiện cảm bởi nụ cười có duyên, thân thiện. Ấy là Nguyễn Quang Thuyên của hôm nay, hay chí ít cũng là cảm nhận của tôi, rằng nhiều năm trước, gặp anh sẽ ngỡ anh khó tính, có sự bụi bặm phong trần của nghề nghiệp, có vẻ lạnh lùng và cảm giác khó gần. Anh là “dân ngoại đạo” nhưng đã 10 tập thơ được xuất bản. Tập thơ “Đưa em về quê nội”, NXB Hội Nhà văn 2024 của anh vừa đạt giải A của Hội Liên hiệp văn học nghệ thuật Phú Thọ (Giải thưởng hàng năm, năm 2024).
Xem thêm
Khoảng trống trong thơ đương đại
Sang giai đoạn thơ hiện đại, đặc biệt từ thời kỳ Đổi Mới (1986) đến nay, dưới ảnh hưởng của thơ tự do, thơ thị giác, thơ hậu hiện đại,… khoảng trống được vận dụng đa dạng hơn: là dấu hiệu cấu trúc, chiến lược gợi mở ý nghĩa, cũng là phương tiện giải cấu trúc câu chữ. Việc nhận diện, phân loại và giải thích cơ chế thẩm mỹ của khoảng trống vì vậy cần được đặt trong dòng chảy lịch sử rộng hơn – từ các quy phạm cổ điển đến những cách tân hiện đại – nhằm làm rõ lý do và cơ chế khiến “sự im lặng” trở thành tiếng nói quan trọng trong thơ.
Xem thêm
Triệu Kim Loan – nỗi mình bộc bạch cùng trăng
Một bài viết chân thành, giàu rung cảm của Ngô Minh Oanh về tập thơ Chữ gọi mùa trăng của Triệu Kim Loan.
Xem thêm
Phan Nhật Tiến - Thời cầm bút nói về thời cầm súng
Bài viết của Trần Hóa về tập thơ mới của Phan Nhật Tiến
Xem thêm
Nắng xanh pha hương giọt mật đầy
Văn Chương TP.HCM xin giới thiệu bài của Tuấn Trần.
Xem thêm
Cảm nhận tác phẩm “Mật ngữ đen trắng”
Bài viết của nhà thơ Huỳnh Tấn Bảo từ Bà Rịa - Vũng Tàu
Xem thêm
Nặng tình qua những miền quê
Bài viết tạo được chân dung “lữ khách thi ca” Vũ Trọng Thái
Xem thêm
Thế giới nữ tính đằm thắm và điệu nhạc tình yêu trong thơ Võ Thị Như Mai
“Nhớ anh nhiều bao nhiêu / Như thế nào là nhiều…” – những câu thơ giản dị mà đằm thắm ấy chính là nhịp điệu riêng của Võ Thị Như Mai.
Xem thêm
Bùi Minh Vũ - Buông neo hồn thơ vào biển đảo
Sau 2 tập thơ Lão ngư Kỳ Tân (2014), Biển và quê hương (2020) Bùi Minh Vũ cho ra mắt tập thơ Buông neo của (NXB Hội Nhà văn, 2024) gồm 113 bài thơ viết về đề tài biển đảo. Cảm hứng chung của tập thơ là tình cảm mến yêu, cảm phục, trăn trở và gắn bó tâm hồn với với biển đảo, với Trường Sa, Hoàng Sa, với những người lính đảo và người dân bám biển. Những tập thơ trước, Bùi Minh Vũ viết từ cảm xúc của một công dân yêu nước hướng về biển đảo với sự ngưỡng vọng. Ở tập thơ này, sau những chuyến vượt sóng ra Trường Sa, thăm đảo chìm đảo nổi, nhà thơ đã “Buông neo” hồn thơ vào biển đảo của Tổ quốc. Bài đầu của tập thơ đã thể hiện điều đó: Sóng ngọt như hoa trái lững lờ thè chiếc lưỡi/Bình minh trườn qua con chữ/Bài thơ quyết liệt buông neo/Như cột mốc đứng thẳng (Buông neo).
Xem thêm
“Chữ gọi mùa trăng” – Những thao thức của người đàn bà yêu chữ
Tại buổi ra mắt tập thơ Chữ gọi mùa trăng (23/9/2025), nhà thơ Hương Thu không có mặt, nhưng sau đó đã gửi đến một bài viết nhiều cảm xúc.
Xem thêm
Nỗi buồn đẹp qua ca khúc “Bài Thánh ca buồn”
Bài Thánh ca buồn nhưng không buồn theo lẽ thường, nỗi buồn ấy đẹp và chẳng hề mong manh, rất có thể khi nghe câu này, nhiều người không đồng cảm. Vâng, đó cũng là lẽ bình thường vì tiếp nhận văn học lý giải chuyện cảm nhận tác phẩm văn học hoặc nghệ thuật còn phụ thuộc nhiều yếu tố, trong đó có yếu tố sở thích. Và, tôi yêu thích Bài Thánh ca buồn, cả lời thơ (ca từ) cùng nhạc điệu.
Xem thêm
Viết cho “Khúc nhen chiều”– vệt khói dĩ vãng đậm màu thực tại
Khúc nhen chiều không chỉ là tập thơ đẫm màu khói sương mà còn là cuộc “truy vấn” không ngừng của Vũ Xuân Hương với chính mình và đời sống.
Xem thêm
Nguyễn Thị Thúy Hạnh - Hành trình chữ đến thế giới thơ
Hành trình thơ của Nguyễn Thị Thúy Hạnh trước hết khẳng định một tinh thần hiện sinh rõ nét. Ở đó, con người – đặc biệt là người nữ – luôn hiện diện trong trạng thái bất an, tổn thương, đồng thời mang khát vọng vượt thoát và kiếm tìm hạnh phúc. Chữ trở thành nơi lưu trú của nỗi cô đơn, đồng thời là phương tiện giúp nhân vật trữ tình phục sinh và tiếp tục hiện hữu trong một thế giới nhiều biến động, đổ vỡ.
Xem thêm
Lòng Mẹ - Mạch nguồn của “Chữ gọi mùa trăng”
Bằng trái tim giàu cảm thông, nhà thơ Phan Thanh Tâm – tác giả của 7 tập truyện ngắn và thơ thiếu nhi – đã tìm thấy ở Chữ gọi mùa trăng hình tượng người Mẹ vừa đời thường, vừa thiêng liêng.
Xem thêm
“Lời ru bão giông” – Từ cảm nhận đến vần thơ tri âm
Tập thơ Lời ru bão giông của Trần Hóa mở ra 59 câu chuyện đời đầy mất mát nhưng vẫn chan chứa ánh sáng nhân văn, niềm tin và tình yêu thương.
Xem thêm
Đến với bài thơ hay: “Chiều Ải Bắc tìm em”
Anh vẫn như nghe trong đá núi/ Âm vang rầm rập bước quân hành/ Anh vẫn như nhận ra nụ cười em/ Trong sắc hoa đào xứ sở…
Xem thêm