TIN TỨC

‘Mùa xuân’ trong thơ Trần Ngọc Phượng

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2025-01-01 09:57:09
mail facebook google pos stwis
1755 lượt xem

NGUYỄN VĂN HÒA

Trần Ngọc Phượng sinh năm 1945, sinh tại Sài Gòn nhưng thời trẻ sống ở Nam Định. Năm 1962 anh lên đường nhập ngũ vào chiến trường Nam Bộ trên cương vị Đài trưởng Vô tuyến điện. Sau năm 1975, anh chuyển ngành về công tác tại TP. Hồ Chí Minh cho đến ngày nghỉ hưu.

Tính từ bài thơ đầu tay viết ở chiến trường cho đến nay Trần Ngọc Phượng đã có hơn 50 năm làm thơ. Hành trình sáng tạo của Trần Ngọc Phượng có thể chia làm 3 giai đoạn:

Giai đoạn từ khi cầm bút ở chiến trường đến trước 1975: Cảm xúc chân thành, tràn đầy sức trẻ, nhiệt huyết với tinh thần yêu nước, sẵn sàng chiến đấu vì độc lập, tự do cho Tổ quốc.

Giai đoạn từ 1975 đến 2005: Đất nước hòa bình, non sông thu về một mối, Bắc - Nam sum họp một nhà. Trần Ngọc Phượng vui vì mình còn may mắn sống sót để trở về gặp lại gia đình, người thân, bạn bè… nhưng anh mang một nỗi buồn khôn xiết vì biết bao nhiêu những đồng chí, đồng đội của anh đã vĩnh viễn nằm lại ở khắp các chiến trường. Tình cảm ấy vừa riêng tư vừa là tình cảm chung mang tính thời đại.

Ngày thống nhất vỡ òa hạnh phúc/ Khắp phố phường đỏ rợp cờ sao/ Người ôm người khóc cười trong nước mắt/ Nén trong lòng những vết cắt thương đau.

Ngày đất nước thống nhất, đứa con gọi mẹ trong niềm hân hoan bằng lời thông báo: “Con sống rồi mẹ ơi!”. Đọc bài thơ người đọc không khỏi rưng rưng, xúc động với những gì mà đứa con giãi bày. Tiếng gọi mẹ trong niềm vui trào dâng nhưng đằng sau đó cũng là nỗi xót xa khi những người bạn, người đồng chí của mình đã ra đi mãi mãi.

Con sống rồi/ Tưởng không ngày trở lại/ Tưởng như thật như mơ/ Đất nước reo vui đỏ rợp sắc cờ/ Tiếng reo đầu tiên/ Con xin dâng cho Mẹ/ Và có lẽ phía bên kia cũng thế/ Người lính hàng binh./ Vất quân trang vũ khí xuống đường/ Cũng chắp tay gọi Mẹ…// Con gục đầu vào Mẹ/ Mà không dám reo vang/ Bao bà Mẹ mất con/ Bao người vợ mất chồng/ Nước mắt nhòa bảng Tổ quốc ghi công/ Khói nhang bay trên nấm mồ Liệt sĩ/ Ai biết hòa bình/ Bao máu xương phải trả?/ Con của mẹ sống rồi/ Trong đất nước trường sinh!

Đất nước hòa bình, anh tiếp tục cống hiến, góp phần nhỏ bé của mình vào sự phát triển chung của đất nước. Những ngày lễ, các dịp Tết đến, xuân về, các buổi hội họp… làm cho anh càng thương nhớ hơn những người đồng chí, đồng đội của mình năm nào. Chứng kiến những đổi thay, phát triển và cả những mặt trái của đời sống cũng làm cho Trần Ngọc Phượng trăn trở, suy tư. Ở đó vừa thấm đẫm niềm tin, khát vọng vừa có điều gì đó tiếc nuối, xót xa.

Giai đoạn từ 2005 đến nay: Đây là lúc hồn thơ Trần Ngọc Phượng sâu lắng nhất, mang nặng những suy tư, trăn trở của một con người có nhiều trải nghiệm. Từ lúc nghỉ hưu, anh có thời gian để làm thơ, yêu thơ và sống nhiều hơn với thơ. Nhiều tập thơ của Trần Ngọc Phượng được xuất bản ở giai đoạn này.

Điều đặc biệt, trong hành trình sáng tạo của mình, trong từng giai đoạn Trần Ngọc Phượng có những bài thơ viết về mùa xuân mang nét riêng và gắn với những sự kiện, nhân vật, hình ảnh, con người… với những cảm xúc rất mực chân thành của một trái tim nhạy cảm và da diết yêu thương. Trần Ngọc Phượng có nhiều bài thơ giàu cảm xúc viết về chủ đề mùa xuân như: Lá thư Mậu Thân, Ký ức Mậu Thân, Con sống rồi mẹ ơi, Nắng xuân Sài Gòn, Tiếng xuân, Rượu xuân, Giọt xuân, Con tàu năm mới…

Biểu hiện rõ nét trong thơ Trần Ngọc Phượng nói chung và những bài thơ Xuân nói riêng đó là kiểu kết cấu bài thơ theo dòng cảm xúc, tâm trạng. Tứ thơ thường được xây dựng trên cơ sở những phạm trù đối lập. Đó là sự trăn trở, khắc khoải, suy tư, chao đảo giữa hạnh phúc - khổ đau; vui - buồn; được - mất; bình yên - bão tố; chiến tranh - hòa bình; xuân sắc - tàn phai…

Bài thơ Ký ức Mậu Thân với bao nụ cười và nước mắt, niềm tin yêu, hy vọng vào ngày đất nước hòa bình; ở đó là những hy sinh, mất mát, nỗi day dứt khôn cùng của nhà thơ với những đồng chí, đồng đội đã ngã xuống để bảo vệ mảnh đất quê hương.

Bao máu xương tạo ra bước ngoặt/ Thế tiến công tạo dáng đứng Việt Nam/ bao xương cốt còn trong lòng đất/ Những hố chôn tập thể vẫn đang tìm.

Tâm trạng của người xa quê hương, nhớ về tổ ấm. Có dịp trở lại lòng dậy lên bao nỗi niềm, ký ức thuở nào bỗng trỗi dậy. Bên cạnh niềm vui, sự ấm áp còn là nỗi đau đáu khi: “Bao người bạn cũ đi xa không về” (Rượu xuân).

Diễn tả một cách tự nhiên, chân thật dòng cảm xúc của nhà thơ trước những biến động của đời sống.

... Tiếng xưa chìm nổi đoạn trường/ Tiếng nay ào ạt phố phường vào xuân/ Đời người một kiếp trầm luân/ Bốn mùa mưa nắng cũng ngần ấy thôi/ Mà sao lòng dạ bồi hồi/ Bâng khuâng thời khắc đất trời chuyển giao (Tiếng xuân).

Không gian nghệ thuật trong những bài thơ Xuân của Trần Ngọc Phượng có sự kết hợp của nhiều yếu tố: cảnh sắc thiên nhiên, cảm xúc, rung động của con người…

Nắng xua đi những ưu phiền/ Vui bên con cháu an nhiên cuộc đời/ Bến Thành tấp nập ngược xuôi/ Dòng kênh Nhiêu Lộc, nắng cười gió reo// Đường đi còn lắm cheo leo/ Chuông chùa bái vọng những điều bình an/ Bên nhau lời chúc hân hoan/ Mang bao khát vọng ngập tràn nắng xuân (Nắng xuân Sài Gòn).

Thời gian trong trong thơ anh không chỉ là thời gian diễn ra theo quy luật tuần hoàn của tạo hóa mà sự đan cài, đồng hiện giữa quá khứ - hiện tại - tương lai. Ở tuổi xế chiều của đời mình, trước thềm năm mới Trần Ngọc Phượng lại có những cảm xúc, sự nhìn nhận tinh tế và rất đỗi chân thành.

Mặc thân già rệu rã tuổi hoàng hôn/ Theo con tàu bước vào năm mới/ Vẫn náo nức những chân trời vẫy gọi/ Tiếng còi tàu thôi thúc những sân ga// Tàu băng qua những đồng lúa bao la/ Những thảm cỏ ta ngã mình ngày trước/ Những ngọn núi chon von ta đã trèo lên được/ Và dòng sông thác đổ những đêm mưa.// Mỗi ngày qua đi, thay đổi đến không ngờ/ Những thành phố nguy nga, những công trình đồ sộ/ Tàu lướt qua bao mặt người rạng rỡ/ Nụ cười tươi trong sắc nắng bình minh.// Cảm ơn người cho đất nước bình yên/ Trong thế giới giết nhau bằng pháo, bom tọa độ/ ta gắng chạy theo thời công nghệ số/ Để cháu con vùng vẫy bay cao// Những đau buồn hãy để lại phía sau/ Còn trăn trở lúc nào chẳng có/ cứ anh nhiên, con đường, ai cũng đi tới đó/ Ta bước vào năm mới thế rồng bay (Con tàu năm mới).

Có dịp du xuân ở Đà Lạt vào dịp Tết Canh Tý - 2020, Trần Ngọc Phượng có ngay bài Tết Đà Lạt: Tết đi chơi Đà Lạt/ Tìm suối hát, thông reo/ Người kéo về dày đặc/ Kẹt xe đến chân đèo/… / Đà Lạt đang trẻ lại/ Còn ta đã già đi/ Đời sóng xô, thác nhảy/ Đừng ngẩn ngơ làm gì.

Trần Ngọc Phượng ý thức sâu sắc về sự trôi chảy của thời gian, anh trân trọng thời gian mình được sống, được yêu. Nhất là những tháng năm được ở bên em, vượt qua bao thăng trầm, buồn vui của cuộc sống. Những cung bậc yêu thương da diết, sâu lắng, đầy niềm tin và sự khát vọng của nhân vật trữ tình.

Giọt xuân lóng lánh sắc màu/ Lung linh năm tháng bên nhau đến giờ/ Đọng trên mái tóc bạc phơ/ Giọt xuân ấm mãi bên bờ vai em/ Lúc sóng gió, lúc dịu êm/ Buồn vui chia sẻ nỗi niềm tâm giao/ Tinh khôi như thuở ban đầu/ Càng dài năm tháng càng sâu nghĩa tình (Giọt xuân).

Nhà thơ hồi tưởng, tìm về những năm tháng tuổi trẻ, những năm tháng ác liệt ở chiến trường. Thời gian qua đi, kéo theo sự thay đổi của vạn vật, những địa danh năm nào gắn với bao nhiêu trận đánh, bao chiến công hiển hách cùng với đó là những người đồng chí, đồng đội của anh đã ngã xuống… Giờ đây, những nơi đó đã đổi khác. Nơi cửa ngõ anh nằm (viết nhân kỷ niệm 3 năm thành lập Thành phố Thủ Đức) là một trong số những bài thơ đầy xúc động, gợi nhắc về quá khứ đã qua và thực tại cuộc sống hôm nay.

Nơi cửa ngõ anh nằm/ Cầu Rạch Chiếc, Ngã ba Cát Lái/ Đường tiến quân xưa/ Dòng đời vẫn chảy/ Sông Sài Gòn hối hả, ngược xuôi// Anh nằm đây/ Trẻ mãi tuổi hai mươi!/ Cách đích đến chỉ vài gang tấc/ Máu xương anh tan vào lòng đất/ Kết tụ thành Linh khí Quốc gia// Đồi không tên xưa/ Thành Nghĩa trang Liệt sĩ*/ Các Anh về quây quần/ Quanh Mẹ Việt Nam/ Đường sắt trên cao như dải lụa vắt ngang/ Đây Đại học Quốc gia* căng tràn sức trẻ/ Kia Khu Công nghệ cao tinh hoa trí tuệ/ Viết tiếp thay anh/ Những ước mơ dang dở/ Cuộc sống chuyển mình/ Công nghệ số tương lai// Nơi anh nằm/ Bãi cỏ hoang mọc lên/ Những tòa nhà hiện đại nguy nga/ Ánh đèn đêm như vạn ánh sao sa/ Cầu Ba Son* giương cánh buồm khao khát/ Thủ Thiêm* như cô gái bao năm giấu mặt/ Nay hiện dần vóc dáng tươi xinh!// Hương khói bay.../ Khu Tưởng niệm Vua Hùng*// Về bên mộ anh/ Muôn vàn thương nhớ/ Nửa thế kỷ đi qua/ Mỗi bước đi, bao ngọt bùi cay đắng/ Chậm hay nhanh?/ Dài hay ngắn?/ Vẫn chưa hết đâu những tham nhũng bất công/ Nhưng niềm tin như sắc nắng ửng hồng/ Như tiếng trẻ reo vui/ Bên Suối Tiên* thác đổ/ Thủ Đức chợ hoa, mai vàng rực rỡ/ Nơi cửa ngõ anh nằm/ Thành phố mới** vào xuân!

Điều dễ nhận thấy trong các bài thơ xuân của Trần Ngọc Phượng là dù viết về điều gì bao giờ anh cũng có sự nuối tiếc về thời gian - khi mình đã không còn trẻ nữa, niềm tin tưởng vào tương lai của đất nước. Tự thức sâu sắc điều này nên anh đã sống và làm theo cách của riêng anh bằng tinh thần trách nhiệm của một công dân trước thời cuộc. Nhà thơ đi sâu vào thể hiện những chủ đề, khía cạnh khác nhau bằng cảm xúc trữ tình của thời đại mình đã và đang sống. Những sự kiện lịch sử, những biến cố thời đại, những cảnh đời dâu bể… qua sự thẩm định, trải nghiệm, giàu suy tư và khát vọng làm cho tiếng thơ đau đáu và nhân bản hơn. Những kỷ nguyên đất nước là một trong số những bài thơ hay của anh. Bởi ở đó, Trần Ngọc Phượng đã giãi bày được rất nhiều điều mà trong hành trình sống, chiến đấu, làm việc đến khi nghỉ hưu   và cả những năm tháng tuổi già này anh đúc rút được. Cái đau đáu nhất với anh vẫn là làm thế nào để cho dân được sống trong no ấm, văn minh, hòa bình và nhân văn nhất có thể...

Cả đời ta tắm mình trong kỷ nguyên đất nước/ Khi Bác Hồ đọc Tuyên ngôn Độc lập/ Đất nước đứng lên phá vỡ xiềng gông/ Ba mươi năm chinh chiến bão giông/ Bao thế hệ hy sinh, bao máu xương đã đổ/ Để Tháng Tư về rợp trời cờ đỏ/ Người ôm nhau nước mắt vỡ òa// Khi non sông đã thuộc về ta/ Cái đói cái nghèo cứ bám theo dai dẳng/ Đổi mới ra đời từ khát vọng vươn lên/ Những lý luận giáo điều vứt sang một bên/ Thi nhau làm dân giầu nước mạnh/ Các tỷ phú ra đời, các công trình đồ sộ/ Hàng Việt Nam rạng rỡ bốn phương/ Kinh tế thị trường đủ thứ bán buôn/ Người tốt nhiều và kẻ gian cũng lắm/ Bán lương tâm mua quan bán chức/ Quan triều đình cũng rơi rụng như sung/ Chỉ có tình dân rộng mở đến vô cùng/ Chở che nhau qua bão giông lũ lụt// Đất nước nay/ Chuyển mình vào công nghệ số/ Trong trái đất mong manh như quả cầu dễ vỡ/ Giữa thời thế đảo diên /Giết nhau bằng pháo bom siêu thanh tọa độ/ Ta quý sao đất nước bình yên/ Chọn con đường vươn lên giầu có/ Chọn cơ hội, xin đừng bỏ lỡ/ Kinh tế xanh, kinh tế sạch tuần hoàn/ Tương lai như quả ngọt trên cành/ Cho dân mình nhân ái thông minh./.

Bài viết liên quan

Xem thêm
Chất liệu dân gian trong ca khúc Việt Nam hiện đại
Bài viết này xin phép được tiếp tục trình bày một xu hướng vận động chủ đạo của âm nhạc dân gian truyền thống Việt Nam sau 1975: dân tộc hóa ca khúc Việt Nam.
Xem thêm
Đọc thơ Thiên Di
Dường như là một giấc mơ chậm rãi, dịu dàng, vẫn đọng lại dư âm của cô đơn, khao khát và hy vọng. Tác giả sử dụng nhịp điệu từ những chi tiết nhỏ – mưa rả rích, ánh mắt, cánh hoa – để cảm xúc lan tỏa, khiến độc giả không cần lạm dụng từ ngữ hoa mỹ vẫn cảm nhận được sự mềm mại, tinh tế và ám ảnh.
Xem thêm
Triệu Kim Loan - Khúc độc thoại xanh của hồng gai
Bài viết sâu sắc dưới đây của nhà văn Kao Sơn dành cho buổi ra mắt sách Chữ gọi mùa trăng - Tập thơ thứ 7 đánh dấu chặng đường chín muồi của nhà thơ Triệu Kim Loan
Xem thêm
Quan niệm của Xuân Diệu về thơ từ những câu chuyện đời thường
Sinh thời, theo thống kê của Mã Giáng Lân, thi sĩ Xuân Diệu đã có hơn 500 buổi bình thơ trước công chúng. Đây là hoạt động nghệ thuật mà hiếm có nhà thơ, nhà văn nào ở Việt Nam và cả trên thế giới có thể sánh được. Không chỉ trong nước, chính “ông Hoàng thơ tình” Xuân Diệu đã có công quảng bá thi ca Việt Nam ra thế giới, giúp độc giả nước ngoài biết đến Nguyễn Du, Nguyễn Trãi, Tú Xương, Hồ Xuân Hương…
Xem thêm
Hành trình nước - Bước chuyển mình của kẻ sĩ chu du
Với Hành trình nước, Vũ Mai Phong cho phép người đọc thám hiểm một cõi tâm hồn mình, để chiêm nghiệm, để cảm nhận sự chuyển hóa kỳ diệu của nước - từ giọt sương nhỏ bé hóa thành đại dương bao la, từ tâm hồn cá nhân hòa vào tính thiêng của Tổ quốc.
Xem thêm
Gió Phương Nam 4 - Những lời thơ chân thực
Trang thơ “Gió Phương Nam 4” dễ dàng gợi lại những bước chân đồng đội năm xưa – bước chân thời chiến, bước chân thời bình, mang theo niềm vui, nỗi nhớ và cả những nỗi buồn sâu lắng.
Xem thêm
“Bến nước kinh Cùng” - Bến đợi của ký ức và tình người…
“Giữa bao vội vã, còn mấy ai lắng lòng với những phận người quê mộc mạc?” - Chính từ trăn trở ấy, “Bến nước kinh Cùng” của nhà văn Nguyễn Lập Em được tìm đến như một lời nhắc nhở tha thiết, đưa ta trở về với đất và người Nam Bộ, nơi tình quê và tình người thấm đẫm trong từng trang viết.
Xem thêm
Người thơ xứ Quảng: “Ảo hương lãng đãng bên trời cũ”
Nhà thơ Xuân Trường - tên thật Nguyễn Trường - là một tâm hồn phiêu bạt. Ông sinh ngày 12/12/1949 (theo giấy khai sinh) nhưng thực tế là năm 1945 (tuổi Ất Dậu), tại xã Đại Phong, huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam.
Xem thêm
Nước sông Sa Lung chưng cất bầu rượu thơ
Nhà thơ Nguyễn Hữu Thắng lớn lên bên dòng sông Sa Lung xanh trong. Có phải dòng sông Sa Lung là dòng sông thơ ca của đất Rồng - Vĩnh Long?. Tuổi thơ anh vô tư ngụp lặn vẫy vùng bơi lội tắm mát trong dòng sông ấy, nên anh rất yêu thơ, tập tành sáng tác thơ và thành công thơ khá sớm.
Xem thêm
Cung ngà xưa – Tiếng vọng ký ức trong miền tiếp nhận hôm nay
Đặt trong bối cảnh văn hóa, “cung ngà” còn gợi đến truyền thống âm nhạc dân tộc, nơi tiếng đàn, tiếng sáo từng là phương tiện gắn kết cộng đồng. Người miền Trung – đặc biệt là Huế và xứ Quảng – vốn sống trong không gian khắc nghiệt, thường tìm đến âm nhạc như một nơi trú ngụ tinh thần. Vì vậy, bài thơ không chỉ là ký ức cá nhân, mà còn mang dấu vết của ký ức tập thể.
Xem thêm
“Công chúa Ngọc Anh – bể khổ kiếp nhân sinh”
Văn học lịch sử vốn được xem là mảng khó viết bởi vừa đảm bảo tính chính xác vừa phải tạo được tính hấp dẫn lôi cuốn. Người viết văn học lịch sử không thể xuyên tạc, tô vẽ hay làm méo mó đi nội dung câu chuyện. Chính vì khó viết nên văn học lịch sử luôn là đề tài thu hút nhiều người đọc, bởi đó là cơ hội để người đọc và người sáng tác chiêm nghiệm lại quá khứ, suy ngẫm về tương lai, trăn trở về những hưng thịnh của thời đại, là một dòng chảy làm tái sinh những giai thoại dựa trên sự kiện lịch sử. Người viết văn học lịch sử là người phục dựng lại những bí ẩn còn chìm sâu trong bức màn thời gian, làm sáng tỏ những giá trị nghệ thuật mang tính truyền thống hay tín ngưỡng.
Xem thêm
Nhẹ nhàng bài ca cuộc sống nơi “Những cơn mưa thu” của Thanh Tám
Thanh Tám, Hội viên Hội Văn học nghệ thuật Lai Châu là cây viết truyện ngắn khá quen thuộc với bạn đọc. Một số truyện ngắn của Thanh Tám đã được đăng tải trên các trang báo sang trọng Báo Văn nghệ, Trang báo điện tử Vanvn.vn của Hội Nhà văn Việt Nam. Một trong những truyện ngắn của em, tôi tin rằng nhiều người thiện cảm, đó là truyện ngắn Những cơn mưa thu. Một câu chuyện gọn gàng, xinh xắn, gợi trong lòng độc giả những ấm áp, yêu thương như giọng văn nhẹ nhàng, truyền cảm của tác giả vậy.
Xem thêm
Tượng đài một anh hùng
Trường ca Tiếng chim rừng và đất lửa Tây Ninh (NXB Quân đội nhân dân, 2025) của tác giả Châu La Việt đã kiến tạo thành công nhiều biểu tượng về cuộc kháng chiến chống Mỹ một cách hệ thống, đa dạng về cấu trúc, sâu sắc về ý nghĩa, giàu có về tín hiệu thẩm mỹ.
Xem thêm
Cô gái Quảng Trị với nồng cay tiêu Cùa
Đọc 14 bài bút ký của nữ nhà báo Đào Khoa Thư, trong tập bút ký “Mùa bình thường” in chung với nhà báo Đào Tâm Thanh, do Nxb Thuận Hóa ấn hành tháng 7 năm 2025, tôi thật sự khâm phục cách viết khoáng hoạt của cô gái trẻ. Không gian được đề cập là mảnh đất quê nhà thân thương và những đất nước mà cô đặt chân đến để học tập, công tác, giao lưu, trải nghiệm. Lời văn tươi mới tràn đầy cảm xúc, lối viết chân thực, cởi mở, ngắn gọn cho ta thấy bao điều mới mẻ. Đọc lần lượt từng bài bút ký, thật thích thú với bao điều hấp dẫn qua từng câu chuyện kể về cuộc sống đời thường và các sự kiện diễn ra rất bổ ích.
Xem thêm
Đọc thơ Phương Viên – Ba khúc tình, rụng và gặp gỡ
Bằng giọng văn tinh tế, giàu cảm xúc và với kiến văn sâu rộng, tác giả đã khẳng định: thơ Phương Viên là nơi “chữ rụng mà hồn nở hoa”, một giọng thơ biết lặng đi để người đọc còn nghe tiếng của yêu thương và hồi sinh. Văn chương TP. Hồ Chí Minh xin giới thiệu bài viết này tới bạn đọc.
Xem thêm
Hạt bụi lênh đênh – Từ đất Ý hóa kiếp thân thương dưới trời nam
Rơi ra từ căn phòng bài trí trang trọng của một tòa lâu đài cổ kính. “HẠT BỤI” kia đã chọn kiếp “LÊNH ĐÊNH” để rồi một ngày lưu dấu hồn trần nơi “quê người đất khách”. Hẳn là trong sự lựa chọn “nghịch thường” đó, hàm chứa một điều lớn lao địa cửu thiên trường nơi thân mệnh mong manh cánh chuồn. HẠT BỤI LÊNH ĐÊNH – ngay từ nhan đề… đã cho thấy sắc tính Á Đông thông dụng. Điều đặc biệt ở đây. Nó được viết bởi ELENA PUCILLO TRƯƠNG một nhà văn, một nhà Khoa học/ học giả Ngữ Văn của Tây Phương – Ý.
Xem thêm
Hoài niệm quê hương trong thơ Nguyễn Quang Thuyên
Nguyễn Quang Thuyên vốn là “dân xây dựng” - Giám đốc Vinaconex 3 Phú Thọ , quê Tam Nông, Phú Thọ. Ai từng gặp anh thời điểm hiện tại sẽ có thiện cảm bởi nụ cười có duyên, thân thiện. Ấy là Nguyễn Quang Thuyên của hôm nay, hay chí ít cũng là cảm nhận của tôi, rằng nhiều năm trước, gặp anh sẽ ngỡ anh khó tính, có sự bụi bặm phong trần của nghề nghiệp, có vẻ lạnh lùng và cảm giác khó gần. Anh là “dân ngoại đạo” nhưng đã 10 tập thơ được xuất bản. Tập thơ “Đưa em về quê nội”, NXB Hội Nhà văn 2024 của anh vừa đạt giải A của Hội Liên hiệp văn học nghệ thuật Phú Thọ (Giải thưởng hàng năm, năm 2024).
Xem thêm
Khoảng trống trong thơ đương đại
Sang giai đoạn thơ hiện đại, đặc biệt từ thời kỳ Đổi Mới (1986) đến nay, dưới ảnh hưởng của thơ tự do, thơ thị giác, thơ hậu hiện đại,… khoảng trống được vận dụng đa dạng hơn: là dấu hiệu cấu trúc, chiến lược gợi mở ý nghĩa, cũng là phương tiện giải cấu trúc câu chữ. Việc nhận diện, phân loại và giải thích cơ chế thẩm mỹ của khoảng trống vì vậy cần được đặt trong dòng chảy lịch sử rộng hơn – từ các quy phạm cổ điển đến những cách tân hiện đại – nhằm làm rõ lý do và cơ chế khiến “sự im lặng” trở thành tiếng nói quan trọng trong thơ.
Xem thêm