TIN TỨC

Nguyễn Du bàn về sáng tác văn chương

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2023-12-13 19:28:41
mail facebook google pos stwis
815 lượt xem

VƯƠNG TRỌNG

Từ khi Đại thi hào nguyễn Du qua đời đến đầu thế kỷ 21, chúng ta chỉ biết đến tác phẩm của Cụ để lại gồm có 250 bài thơ chữ Hán cùng Truyện Kiều bất hủ và một số tác phẩm chữ Nôm. Tất cả đều ở dạng sáng tác. Đầu thế kỷ 21, mới phát hiện ra tập “Hoa nguyên thi thảo”, là một tập bình thơ của Đại thi hào, gồm 33 lời bình thật ngắn gọn cho 33 bài thơ. Tuy nhiên, khi chưa tiếp cận tập sách phê bình này, chỉ qua sáng tác, chúng ta cũng biết được một phần về sự đánh giá nhiều tác phẩm, đồng thời thấy rõ quan niệm sáng tác văn chương của Đại thi hào. Đó là nội dung bài viết này.


1- Sinh thời, Nguyễn Du, yêu mến, phục tài nhiều nhà thơ cổ điển Trung Quốc, đặc biệt là Đỗ Phủ. Sự gặp gỡ giữa hai nhà thơ này, ngoài tài thơ ra, cùng có trái tim lớn đau nỗi đau những cuộc đời bất hạnh. Đánh giá nhà thơ Đỗ Phủ và nói lòng yêu mến của mình đối với nhà thơ này, Nguyễn Du viết:

Thiên cổ văn chương thiên cổ si (sư)

Bình sinh bội phục vị thường ly

Nghĩa là: "Văn chương ông lưu truyền thiên cổ, ông là bậc thầy muôn đời. Tôi bình sinh khâm phục ồng, không lúc nào rời thơ ông". Nguyễn Du tôn Đỗ Phủ là người thầy muôn thuở, lấy thơ Đỗ Phủ làm sách gối đầu giường, bởi nhận thấy thơ Đỗ Phủ là thứ văn chương chói sáng về câu chữ và gần gũi với cuộc đời. Nhiều khi đọc thơ Đỗ Phủ, Nguyễn Du khóc một mình bởi thương người sống cách mình hơn ngàn năm trước.

Với Thôi Hiệu, người có bài thơ Hoàng Hạc lâu nổi tiếng đến mức Lý Bạch đến nơi này không dám làm thơ nữa vì đã có thơ Thôi Hiệu rồi, thì Nguyễn Du đánh giá: "Thi thành thảo thụ giai thiên cổ", nghĩa là bài thơ Thôi Hiệu làm xong thì cỏ cây trở thành thiên cổ. Tôi nghĩ rằng, khó tìm được một câu nào đánh giá thơ cao hơn thế! Với Lý Bạch, Nguyễn Du không bình thơ mà nói về quan niệm sống của "ông tiên trong làng rượu" này, rằng "ông coi thường vinh hoa như dép rách". Đó là ba nhà thơ đời Đường mà Nguyễn Du yêu mến nhất. Còn một nhà thơ nữa sống cách Nguyễn Du trên hai ngàn năm. Đó là Khuất Nguyên thời Chiến quốc. Nguyễn Du viết:

Tông quốc tam niên bi phóng trục

Sở từ vạn cổ thiện văn chương

Nghĩa là, ông buồn rầu suốt ba năm bị đày xa tổ quốc, tập Ly tao vẫn là áng văn muôn thủơ tuyệt vời! Nguyễn Du đã dành ba bài thơ nói về Khuất Nguyên, trong đó có bài Phản chiêu hồn quá quen thuộc với đông đảo bạn đọc.

Còn Nguyễn Du nhận định như thế nào về các nhà thơ đương thời? Ông viết:

Tam Đường thiên tải hậu

Tịch mịch cửu vô văn

Nghĩa là, sau đời Đường nghìn năm, thi đàn vắng vẻ, đã lâu không nghe ai nổi tiếng hay thơ nữa! Nếu lời nhận xét này thốt ra từ miệng một nhà thơ bình thường, tôi tin rằng thời đó lắm kẻ đã nổi khùng lên, mắng người nói câu đó là chủ quan, là " mục hạ vô nhân", nhưng Nguyễn Du nói thì có cái lý của thiên tài từ đỉnh cao thi ca nhìn xuống.


2- Có một câu hỏi mà chúng ta đã bàn khá nhiều trên báo chí cũng như trong các cuộc hội thảo là làm thế nào để có thơ hay, như cố tìm bí quyết để các nhà thơ không cho ra đời những bài thơ dở. Vấn đề này, cách đây trên hai trăm năm Nguyễn Du đã từng "phát biểu" trong Truyện Kiều:

Ngổn ngang trăm mối bên lòng

Nên câu tuyệt diệu ngụ trong tính tình.

Tôi nghĩ rằng, ở đây Nguyễn Du không chỉ nói chuyện Thuý Kiều ban ngày thăm mộ Đạm Tiên, lòng cám thương, rồi đêm về làm thơ; mà là câu trả lời cho câu hỏi trên kia: Khi lòng ngổn ngang trăm mối là điều kiện cho những câu tuyệt diệu ra đời. Như vậy, thơ hay thường đến với những người có nỗi lòng đau đáu, trăn trở, cám thương, dằn vặt... chứ thơ hay không thể có được với những ai sống đơn giản, dửng dưng, " trơ như đá, vững như đồng" trước nỗi đau và niềm vui của người khác. Thực tế cũng đã kiểm chứng điều này khi chỉ ra rất nhiều nhà thơ có tác phẩm hay nhất của mình vào những năm đời sống khó khăn, nhiều dằn vặt suy nghĩ, còn khi đời sống khấm khá rồi, không phải lo nghĩ gì, thì "nhà càng lộng gió, thơ càng nhạt" (Xuân Sách) là không phải chuyện cá biệt.

Khi lòng ngổn ngang trăm mối thì dễ có thơ hay, nhưng chỉ có thơ hay về điều mình đang dằn vặt suy nghĩ, chứ thật khó làm thơ về đề tài khác. Khi Thúc Sinh mê mẩn Thuý Kiều, chàng có làm một bài thơ Đường luật, muốn Thuý Kiều hoạ lại, nhưng Thuý Kiều đã từ chối:

Lòng còn gởi áng mây hàng

Hoạ vần xin hãy chịu chàng hôm nay

Nghĩa là, lòng Thuý Kiều đang "ngổn ngang trăm mối" về quê hương, gia đình thì không dễ gì làm thơ thù tạc được.

Tuy nhiên, trong Truyện Kiều, Nguyễn Du còn chỉ ra rằng, đối với những người có tài thơ, tâm hồn thơ thường trực, thì có thể làm thơ theo "đơn đặt hàng" của người khác, vẫn có được những bài thơ hay. Đó là trường hợp Thuý Kiều làm bài thơ tứ tuyệt vịnh bức tranh tùng theo yêu cầu của Kim Trọng, hay vịnh cái gông theo yêu cầu của Chánh án "mặt sắt đen sì" ngay trong phiên toà. Thế mà hai bài thơ đặt hàng ấy được "khen tài nhả ngọc phun châu" hoặc "giá đáng Thịnh Đường"! Thế là Nguyễn Du vừa coi trọng hoàn cảnh ra đời của bài thơ, vừa đánh giá cao tài năng thiên bẩm của người làm thơ.

Chất lượng cuộc sống và chất lượng tác phẩm không đồng hành cùng nhau, thậm chí có khi còn ngược nhau. Nguyễn Du đã chỉ ra trường hợp Khuất Nguyên, một nhà thơ nước Sở, thế kỷ thứ IV trước công nguyên. Khuất Nguyên giữ chức Tam lư đại phu (dưới Tể tướng). Lúc đầu Sở Hoài Vương tín nhiệm Khuất Nguyên, bằng lòng thực hiện chủ trương chính trị của ông, nhưng sau bị Thượng quan Ngân Thượng gièm pha, Sở Tương Vương không dùng Hiến lệnh của Khuất Nguyên, đày ông đi Giang Nam. Ông đi qua hồ Động Đình, theo dòng sông Nguyên đến Thần Dương, Tư Phố rồi theo dòng sông Tương đến Mịch La và ngày 5 táng 5 ông trẫm mình tại đó. Đối với Khuất Nguyên, việc Hiến lệnh của ông không được dùng là một tai hoạ, dẫn đến lưu đày và cái chết, nhưng đối với thơ cổ điển Trung Quốc, thì đó là điều may mắn, bởi nhờ cuộc lưu đày đó mà có được Ly tao, một tuyệt tác. Nguyễn Du viết:

Trực giao Hiến lệnh hành thiên hạ

Hà hữu Ly tao kế Quốc phong?

Nghĩa là: Giá như Hiến lệnh ông thảo ra được ban hành khắp thiên hạ, thì thơ ca Trung Quốc làm gì có Ly tao kế tiếp Kinh thi? Qua trường hợp Khuất Nguyên, phải chăng, Nguyễn Du muốn nói rằng, có khi điều bất hạnh trong cuộc sống, lại là điều may mắn trong sáng tác thi ca?

Trong thơ chữ Hán, Nguyễn Du nói nhiều về quan hệ giữa tuổi tác và sáng tác thơ văn, hay nói chính xác hơn là ông nêu những hạn chế, nhược điểm trong sáng tác do tuổi tác mang lại. Nguyễn Du là người về hình thức già trước tuổi, đầu bạc ở tuổi ba mươi và là một nhà thơ có nhiều câu thơ nói về tóc bạc nhất trong tất cả các nhà thơ mà tôi được đọc. Chỉ sáu mươi bài thơ đầu tiên trong Thanh Hiên thi tâp, thì có đến 22 lần ông nhắc đến tóc bạc, lúc thì lô đầu, bạch đầu lúc thì bạch phát, tiêu tiêu bạch phát...Còn trong hai tập Nam trung tạp ngâm và Bắc hành tạp lục, tóc bạc trù mật khắp nơi. Có người nói rằng, tuổi càng cao, có từng trải và chiêm nghiệm, thơ viết càng sâu sắc, nhưng với Nguyễn Du thì ngược lại. Ông nói: "Lão khứ văn chương diệc tị nhân", nghĩa là, "già rồi văn vẻ cũng xa lánh người". Đồng hành với sự già đi của thân thể là sự chai lỳ của cảm xúc, thưa vắng sự sửng sốt trước con người và cảnh vật, lòng hiếm khi "ngổn ngang trăm mối", tất nhiên ít có điều kiện cho thơ ra đời. Khi đó nhà thơ phải sáng tác theo ý thức và trách nhiệm, chứ không phải do sự thúc giục của nội tâm. Chất lượng của những tác phẩm đó sẽ như thế nào? Nguyễn Du nói:"Văn chương tàn tức nhược như ti", nghĩa là, khi sức mình đã tàn thì văn chương chỉ mong manh như sợi tơ, dễ đứt lắm! Không chỉ đối với các nhà thơ "thường thường bậc trung" mà ngay đối với Đại thi hào, thì cũng trở nên bất lực trong sáng tác khi tuổi già đến nơi. Nguyễn Du thừa nhận rằng:

Tráng niên ngã diệc vi tài giả

Bạch phát thu phong không tự ta

nghĩa là, thuở trẻ ta cũng là kẻ tài ba, nay đầu đã bạc, chỉ còn than thở trước gió thu mà thôi! Vẫn làn gió thu ngàn năm ấy, với tuổi trẻ, có thể thành thơ, với tuổi già chỉ còn lời than thở suông, chẳng làm được gì. Hai câu thơ này tác giả viết trong chuyến đi sứ, vô hình trung góp phần phản bác lập luận của những ai bảo rằng Nguyễn Du sáng tác Truyện Kiều sau chuyến đi sứ, tức là từ năm 1814 đến 1820.

Bắc hành tạp lục là tập thơ cuối cùng của Nguyễn Du viết trong chuyến đi sứ nhà Thanh, gồm 132 bài mà bài cuối cùng viết cuối năm 1813. Thế là từ năm 1814 đến khi mất, năm 1820, Nguyễn Du không để lại một bài thơ chữ Hán nào, còn Truyện Kiều, theo các nhà nghiên cứu có uy tín thì được sáng tác trước năm 1802. Phải chăng những năm cuối đời, văn chương đã xa lánh nhà thơ như ông đã nói, và ông không muốn sáng tác nữa, vì biết rằng, có viết ra thì " văn chương tuổi lão mảnh như tơ" là điều ông không bao giờ muốn đem đến cho bạn đọc. Nếu vậy, đó là thái độ tôn trọng người đọc của Đại thi hào.

Bài viết liên quan

Xem thêm
Nhà văn Phương Huyền: Khuyến đọc cũng là một phần trách nhiệm của nhà văn
Trong khuôn khổ Ngày Sách và Văn hóa đọc năm 2024, Sở TT-TT TPHCM đã công bố 10 Đại sứ Văn hóa đọc TPHCM nhiệm kỳ 2024-2025, trong đó có nhà văn Phương Huyền - người có nhiều hoạt động khuyến đọc trong thời gian qua. Báo Sài Gòn Giải Phóng đã có cuộc trò chuyện cùng chị.
Xem thêm
Một bút pháp mới lạ qua truyện ngắn Khai khẩu
Nguồn: Báo Văn nghệ Hội Nhà văn Việt Nam
Xem thêm
GS Mai Quốc Liên – Người đất Quảng cương trực
Tôi gặp GS-TS Mai Quốc Liên tại nhiều sự kiện của Hội Nhà văn Việt Nam và Hội đồng Lý luận, Phê bình văn học nghệ thuật Trung ương. Trong các cuộc họp, mỗi khi đăng đàn, ông sang sảng chất giọng Quảng đậm đà, khảng khái, thẳng thắn, thậm chí có lúc tranh luận khá gay gắt, chẳng cần rào trước đón sau, mà cũng chẳng ngại va chạm, có thể hơi làm “nghịch nhĩ” ai đó, nhưng tư duy logic, liên tưởng, liên kết các vấn đề mạch lạc. 
Xem thêm
Để thơ không “thất lạc nhau” nữa
Nguồn: Tuần báo Văn nghệ số 9/2024
Xem thêm
Nhà thơ Nguyễn Quang Thiều: 350.000 tỉ đồng chấn hưng văn hóa vẫn là con số rất ít
Chiều 29.02 phát biểu tại buổi gặp mặt giữa Chủ tịch nước Võ Văn Thưởng cùng lãnh đạo Đảng, Nhà nước với trí thức, nhà khoa học, văn nghệ xuân Giáp Thìn 2024, Chủ tịch Hội Nhà văn Nguyễn Quang Thiều đã dành thời gian nói về vấn đề xây dựng văn hóa.
Xem thêm
Quyển sách là chữ nghĩa...
Quyển sách là chữ nghĩa. Mà chữ nghĩa của một quyển sách phải kết hợp vừa từ trí tuệ vừa từ trái tim.
Xem thêm
Nhà thơ Từ Quốc Hoài để lại “Khu vườn kí ức”
Từ Quốc Hoài, đến với thơ ca khá sớm. Ông là nhà thơ cùng thời với những tên tuổi quen thuộc: Trần Vũ Mai, Thanh Quế, Thanh Thảo, Phạm Tiến Duật, Hữu Thỉnh… cũng từng vào chiến trường khói lửa. Nhưng với con đường thơ ca, ông bước chậm, thận trọng, dè dặt. Cho tới tuổi hơn 80 ông chỉ cho ra mắt độc giả sáu tập thơ. Tập thơ thứ 5, “Sóng và khoảng lặng” (2010) đoạt giải thưởng văn học của Hội Nhà văn Việt Nam. Kỹ tính, khó tính (trong thơ và có lẽ cả trong cuộc sống), trăn trở, tìm tòi nên thơ Từ Quốc Hoài không lẫn, tự do, phóng khoáng, lần dò khám phá chiều sâu nội tâm.
Xem thêm
Im lặng- ngôn ngữ đặc biệt của văn chương
Nhà văn đoạt giải Nobel Văn chương 2023 – Jon Fosse vừa có một buổi gặp gỡ và đọc diễn từ của mình tại Oslo
Xem thêm
Quyền lực thơ ca và quyền uy thi sĩ
Bài đăng báo Văn nghệ của nhà văn Bích Ngân; Thơ và ảnh của nhà thơ Nguyên Hùng...
Xem thêm
Nhớ Nguyễn Đình Thi: “Một chút trắng hồng dào dạt vàng”
Bài viết của nhà báo Nguyễn Thế Khoa nhân 99 năm ngày sinh nhà văn hóa lớn Nguyễn Đình Thi ,20/12/1924-20/12/2023
Xem thêm
Thử nêu cách chữa “chứng lười đọc sách” – Tác giả: Nhà văn Nguyễn Khắc Phê
“Dạy con từ thuở còn thơ”; “Uốn cây phải uốn khi non”… là những điều ai cũng biết, nhưng đã có những thời đoạn do bận rộn mưu sinh và vô số sự xô đẩy, lôi kéo khác nữa, nên rất nhiều người và gia đình đã quên hoặc sao nhãng bài học giản dị và chí lý đã có tự cổ xưa. Có phải những biểu hiện tha hóa trong xã hội hiện nay chủ yếu bắt nguồn từ đó? Thiết nghĩ, cuộc vận động sáng tác văn học hướng đến lớp trẻ và thiếu nhi do Hội Nhà văn Việt Nam phát động đầu năm 2022 là một hoạt động thiết thực của văn giới nhằm góp phần chấn hưng đạo đức xã hội nói chung và góp phần bồi đắp tâm hồn cho lớp trẻ nói riêng.
Xem thêm
Làm mới cải lương – con dao hai lưỡi
Gần đây, cải lương được đưa lên mạng với một số hình thức mới: kết hợp rap, trang phục ma mị… Nhiều người cho rằng cải lương cần phải được “làm mới” để phù hợp với thời đại, với lớp trẻ. Nhưng làm mới cách nào để không bị mất chất, để người xem vẫn còn “nhìn ra” cải lương là câu hỏi không dễ giải đáp.
Xem thêm
“Vua phóng sự” Vũ Trọng Phụng làm gì khi cuốn sách về gái điếm bị đá vào xó tường?
Nguyễn Vỹ lặng lẽ đưa mũi giày đá luôn quyển “Lục Xì” vào trong xó tường. Quyển sách vừa xuất bản, hãy còn mới tinh, nằm xơ xác bên chân tủ.
Xem thêm
Văn học dân gian Đồng Nai trong bối cảnh văn học dân gian Nam Bộ từ 1945 đến nay
Công tác sưu tầm và in ấn các tuyển tập văn học dân gian Việt Nam nói chung đã được các nhà Nho thực hiện từ cuối thế kỷ XVIII với các sưu tập bằng chữ Nôm, chữ Hán. Sang đến cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX, cùng với sự phổ biến của chữ quốc ngữ thì các sưu tập văn học dân gian được phát hành phổ biến nhiều hơn nữa. Tuy nhiên trong giai đoạn này phần lớn vẫn là các sưu tập miền Bắc hay ở một số tỉnh thành miền Trung, ở Nam Bộ việc sưu tầm và phổ biến văn học dân gian dưới dạng các tuyển tập in ấn vẫn còn chưa được coi trọng đúng mức, do vậy không gian nghiên cứu văn học dân gian vùng miền cũng đồng thời bị bỏ ngỏ.
Xem thêm
Nhà thơ thì chơi với ai?
Nguồn: Website Hội Nhà văn Việt Nam
Xem thêm
Bộ phim Đất rừng phương Nam: Một số điều “lấn cấn” về nội dung và nghệ thuật cùng với phản hồi của cục điện ảnh
“Đất rừng phương Nam” của đạo diễn Nguyễn Quang Dũng là một bộ phim đang gây ra nhiều dư luận sôi nổi. Bộ phim nhận được nhiều lời khen ngợi, nhưng cũng có không ít tiếng chê. Dĩ nhiên với tư cách là một sản phẩm nghệ thuật, những thành công của phim rất đáng ghi nhận, song khi xem xong bộ phim, đọng lại cũng là không ít điều “lấn cấn” trong lòng một khán giả như tôi.
Xem thêm