TIN TỨC

Chúng ta có thực sự tự do trong chính tác phẩm của mình?

Người đăng : phunghieu
Ngày đăng: 2025-11-19 08:26:43
mail facebook google pos stwis
12 lượt xem

Văn học, cũng như các lĩnh vực khác, theo tôi đều có những dòng chảy nối tiếp âm thầm, tạo nên nhiều sự giao thoa, đan cài giữa cũ và mới, quen thuộc và khác lạ.

50 năm văn học Việt Nam từ năm 1975 đến nay, cũng đã và đang tạo nên một bộ mặt văn chương đất nước từ những sự giao thoa. Trong tầm hiểu biết hạn hẹp của mình, với tư cách là một độc giả và cũng là một người viết trẻ, tôi được kế thừa rất nhiều từ thế hệ các nhà văn đi trước. Từ giai đoạn Đổi mới năm 1986, đến giai đoạn Hội nhập mở cửa năm 1995, văn học cũng vận động theo tiến trình lịch sử của đất nước. Tôi đã được nghe, được đọc các tên tuổi, tác phẩm như Đứng trước biển, Cù lao Tràm của Nguyễn Mạnh Tuấn, Thời xa vắng của Lê Lựu, Bến quê của Nguyễn Minh Châu, Tướng về hưu của Nguyễn Huy Thiệp, Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh, Bến không chồng của Dương Hướng…

Tiếp tục là những sự giao thoa sang giai đoạn hội nhập với nhiều tên tuổi lớn trên văn đàn mà tôi thật sự ngưỡng mộ tài năng của họ. Tất cả dường như đều có một địa hạt văn chương riêng, với sự phát triển trong cả chủ đề, bút pháp, nhằm không chỉ kế thừa mà còn tự vẽ ra cho mình một con đường riêng, một phong cách riêng, trong công việc sáng tạo mà tự mỗi nhà văn đều ý thức rất rõ những sự thôi thúc, dồn nén bắt nguồn từ thời đại họ đang sống, từ thân phận con người.

 

Tác giả Trần Văn Thiên phát biểu tại Tọa đàm “50 năm văn học Việt Nam từ sau năm 1975: Góc nhìn của những người viết văn trẻ”.

 

Tài năng của họ được thể hiện rất rõ trong những tác phẩm mà tôi có điều kiện được tiếp xúc từ nhỏ, chính là một trong những yếu tố thôi thúc tôi dấn thân vào con đường văn chương, mặc dù tôi là dân tự nhiên chính hiệu, từ thời học cấp III đến nghề nghiệp hiện tại. Với bản thân tôi, ngoài những trải nghiệm trong cuộc sống cá nhân, thì việc đọc và học hỏi từ thế hệ cầm bút đi trước, đã đem lại nguồn cảm hứng và động lực âm thầm để tôi sẵn sàng cất lên tiếng nói qua con chữ của mình. Và tôi nghĩ không chỉ riêng tôi mà thời đại nào cũng vậy, thế hệ sau luôn có tính kế thừa thế hệ trước, nhưng việc phải làm sao viết khác đi, mới hơn những gì đã được khai thác rất nhiều trở thành một thách thức lớn, đặc biệt là với thế hệ nhà văn trẻ.

Có lẽ sẽ có nhiều tác giả như tôi, bắt đầu hình thành niềm yêu thích văn chương từ những bộ truyện dành cho tuổi mới lớn của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh, vào lúc còn ngồi trên ghế nhà trường. Rồi lớn hơn chút nữa, tôi lại muốn tìm đọc những tác phẩm mới hơn, quyết liệt hơn, mở rộng nhận thức của mình về đời sống. Trong những trải nghiệm văn chương của mình, tôi vẫn còn nhớ cảm xúc của lần đầu đọc Cánh đồng bất tận của nhà văn Nguyễn Ngọc Tư, tôi đọc trong một nhà sách ở thành phố, không đủ tiền mua cả cuốn sách nên tôi đã ngồi hết một buổi chiều ở đó để đọc đến kết truyện. Hay một buổi tối mùa đông ở kí túc xá, tôi học bài đến khuya, rồi tình cờ đọc được truyện ngắn Mùa hoa cải bên sông của nhà văn Nguyễn Quang Thiều, tôi đã rùng mình vì thân phận con người trong tác phẩm. Đó chính là những tác phẩm gây ấn tượng mạnh trong nhận thức một đứa trẻ mới lớn là tôi lúc ấy.

Càng trải nghiệm đời sống, mở rộng vốn sống và sự hiểu biết, tôi càng muốn tìm tòi để đọc và học hỏi. Có những cuốn sách tôi chưa hiểu hoặc hiểu chưa đủ sâu ở thời điểm này, nhưng qua nhiều năm sau đọc lại tôi thấy tác phẩm ấy lại tạo những dấu ấn khác. Từ một người cảm thấy chủ đề chiến tranh không phù hợp với mình, tôi chuyển qua tìm đọc những tác phẩm viết về chiến tranh. Từ giai đoạn không thích đọc văn học nước ngoài vì thấy xa lạ, sau này tôi lại muốn đọc nhiều hơn văn học Nhật, văn học phương Tây, những tên tuổi lớn. Và tôi thấy ở những tác phẩm lớn, dường như các nhà văn luôn sẵn sàng mở rộng chiều kích văn chương, tức là họ không dè chừng, hay e ngại, rằng tác phẩm của mình với phong cách và chủ đề này sẽ kén người đọc, hay gây ra những hiệu ứng ngược. Nói như Makenzy Orcel, một nhà thơ và tiểu thuyết gia người Haiti, rằng “Văn chương cũng phải sục cả vào những vùng tối” (Tuổi trẻ cuối tuần, 2023).

Văn học Việt Nam 50 năm qua, theo tôi có nhiều tác phẩm đã gây tiếng vang ngay lúc mới công bố, và sống mãi trong lòng người đọc. Chủ đề chiến tranh, hậu chiến tranh, thân phận con người, nông thôn Việt Nam được khai thác xuyên suốt. Nhưng dường như vẫn chưa có nhiều tác phẩm vượt thoát tư tưởng thời đại, mở ra một con đường mới ít người dấn thân, một bản sắc mới, tư tưởng mới, thay đổi những cách nhìn quen thuộc. Chúng ta dường như vẫn đã và đang đi theo những lối mòn, với cách tiếp nhận bằng một hệ quy chiếu ít chịu thay đổi. Có những cuộc thi mà tác phẩm được vinh danh khiến tôi bất ngờ, vì sự cũ mòn trong tư tưởng và bút pháp. Điều đó khiến một bộ phận lớn độc giả cảm thấy mất tin tưởng vào chất lượng văn chương nước nhà. Chúng ta đang sống ở thời kì hội nhập, và cùng với đó văn chương Việt Nam cũng đang dần hội nhập. Các cây bút trẻ hiện nay đã và đang quyết liệt tìm một lối đi mới, không còn là chủ đề chiến tranh, hậu chiến tranh, không còn là nông thôn Việt Nam, bi kịch gia đình, khắc hoạ bức tranh một đất nước đang phát triển bước ra từ chiến tranh, mà họ đã có sự giao thoa, ảnh hưởng từ văn chương thế giới. Khi biên độ được mở rộng, họ muốn vượt thoát những cái kén cũ mòn, chọn một cách viết khác, mạnh mẽ hơn, quyết liệt hơn, độc đáo hơn, sẵn sàng chọn những chủ đề, hình ảnh gai góc mang vào trang viết, cho nên theo tôi, chúng ta cũng cần phải thay đổi trong cách tiếp nhận. Thế hệ nhà văn đi trước, cần thay đổi trong cách tiếp nhận những tác phẩm thể hiện tính tìm tòi của thế hệ nhà văn kế thừa. Cần tôn trọng sự đa dạng, phong phú, nhiều chiều kích của văn chương, và không áp đặt tư tưởng, cách nhìn cá nhân để đánh giá chất lượng một tác phẩm mới.

Chúng ta còn đang đi những lối đi an toàn, né tránh những chủ đề được coi là nhạy cảm. Chúng ta có thực sự tự do trong chính tác phẩm của mình? Dường như chúng ta vẫn còn phải khéo léo uốn nắn, tránh né nhiều chỗ trong tác phẩm để vượt qua khâu kiểm duyệt, hay chấp nhận chọn một tác phẩm an toàn để vinh danh? Vẫn chưa có nhiều tạp chí, kênh văn học nghệ thuật chọn đăng bài theo xu hướng mở, tức là đăng những tác phẩm có tính tìm tòi, thể nghiệm. Tôi tự hỏi những nhà văn, nhà thơ của văn học Việt Nam ở thế hệ trước có những áp lực vô hình như những nhà văn, nhà thơ ở thế hệ hiện tại? Rồi tôi nghĩ thời nào cũng sẽ có áp lực riêng. Việc sống trọn vẹn với văn chương để cho ra đời những tác phẩm lớn trong thời buổi nào cũng đầy rẫy khó khăn. Với thời đại hiện nay, việc sống đủ chỉ bằng nghề viết văn thật sự bất khả. Và nhiều cây bút chấp nhận chọn con đường viết theo lối thị trường, tạo sự dễ dàng, thuận lợi trong việc công bố tác phẩm, cũng là một trong những nguyên nhân khiến nội tại văn chương chưa được khai phóng hết. Ta sẽ thấy những tác phẩm lặp lại, na ná nhau, nhưng lại dễ đọc, và cũng chưa đột phá. Càng nhiều tác phẩm như vậy sẽ khiến văn chương chững lại, không có sự phát triển.

Tôi nghĩ rằng muốn có sự phát triển, cần tôn trọng và chấp nhận những cái nhìn đa chiều. Nhưng theo tôi quan sát, chúng ta hiện nay dường như đang có một khoảng trống rất lớn của lí luận phê bình. Phải là lí luận và phê bình đúng nghĩa, tức là không cả nể, sợ mất lòng nhau. Dựa trên các cơ sở khoa học một cách khách quan, để thấy sự đủ và thiếu của một tác phẩm. Chúng ta cũng còn nhiều hạn chế ở mảng truyền thông các tác giả, tác phẩm trong nước để công chúng được biết đến rộng rãi. Đối với những tác giả mới chưa có sẵn tệp người đọc, thì việc in ấn, xuất bản cũng luôn gặp khó khăn. Các ngành nghề liên quan đến viết văn cũng chưa được tư vấn và phổ cập rộng rãi. Và trong xu thế kỉ nguyên mới như hiện nay, những người viết thực thụ còn gặp phải sự cạnh tranh đến từ AI (Artificial Intelligence – trí tuệ nhân tạo). Có một số người sẽ bắt đầu dùng AI để viết văn, làm thơ, và cũng không ít tác phẩm từ AI sẽ lọt qua khâu duyệt bài, cũng chính từ tiêu chí chọn những tác phẩm dễ đọc, dễ hiểu, dễ tiếp cận. Bên cạnh đó, cũng có một số phần mềm AI kiểm tra sai những tác phẩm vốn hoàn toàn được viết bởi con người. Kết quả là một số tác giả bị đánh đồng rằng sử dụng AI để viết văn, đặc biệt là những tác giả mới, chưa có nhiều tên tuổi. Cho nên trong bối cảnh thật giả lẫn lộn đó, việc viết một tác phẩm chất lượng, tránh những vòng lặp cũ kĩ lại càng quan trọng. Và đạo đức của người viết lại phải càng được giữ vững.

Tóm lại, theo tôi, văn học Việt Nam 50 năm qua đã có nhiều thành tựu góp phần định hình cho thế hệ nối tiếp. Nhưng chúng ta cũng cần phải tự cởi trói ra khỏi những sáo mòn. Chúng ta cần thay đổi trong cách tiếp nhận những tác phẩm mang tính tìm tòi, giao thoa với văn chương thế giới, nhưng vẫn giữ được bản sắc vốn có. Cần thay đổi tiêu chí đăng bài ở các tạp chí, kênh văn học nghệ thuật. Cần có chính sách tạo điều kiện trong việc in ấn, xuất bản, công bố tác phẩm những tác giả mới, chưa có nhiều tên tuổi và lượng người đọc. Tạo nhiều hơn những buổi gặp gỡ, trao đổi để người trẻ được thẳng thắn cất lên quan điểm, tiếng nói. Tư vấn các ngành nghề liên quan đến văn học để bổ trợ việc sáng tác, tạo các buổi tư vấn hướng nghiệp, trung tâm tư vấn. Thúc đẩy văn hoá dịch thuật, xây dựng và mở rộng không gian kết nối, giao lưu cùng các tác giả trẻ trong phạm vi khu vực (Đông Nam Á, Châu Á) và thế giới, mở rộng các cuộc thi viết song ngữ, đa ngữ. Mở rộng không gian trình diễn nghệ thuật với các trưng bày, triển lãm văn học, hay sân khấu hóa các tác phẩm văn học…

Bằng những trải nghiệm và quan sát thực tế, cũng như những ý kiến, quan điểm mà tôi góp nhặt được từ thế hệ người viết cùng trang lứa, tôi xin bày tỏ suy nghĩ của mình như trên. Tôi là một người viết trẻ, lần đầu xuất hiện tại những buổi toạ đàm như thế này, nên rất mong được học hỏi thêm từ thế hệ đi trước, các nhà văn, nhà thơ, cô chú, anh chị tham dự ở đây. Mong mọi người sẽ gỡ được những nút thắt trong chính văn chương của mình, và có được sự tự do thực sự trên trang viết. Xin chân thành cảm ơn!

Trần Văn Thiên/Báo Văn Nghệ

Bài viết liên quan

Xem thêm
Biểu tượng nước trong thơ Vũ Mai Phong
“Nước” trong văn hóa phương Đông là thủy – khởi nguyên của sự sống, mang phẩm chất mềm mại – bền bỉ – linh hoạt biến hóa của triết lý nhu thắng cương. Trong thi ca Việt Nam, “nước” gắn với dòng chảy thời gian tâm thức dân tộc, văn hóa lịch sử và tâm linh
Xem thêm
“Hư Thực” của Phùng Văn Khai: Tiếng nói Hậu Hiện Đại và Dấu Ấn Văn Chương Đương Đại Việt Nam
Văn học luôn là tấm gương phản chiếu xã hội, là nơi ghi lại những biến chuyển của thời đại và tâm hồn con người. Trong lịch sử văn học Việt Nam, mỗi thời kỳ đều có những tác phẩm tiêu biểu, vừa mang dấu ấn thời đại, vừa để lại những giá trị trường tồn cho đời sau. Tuy nhiên, khi thế giới bước vào kỷ nguyên toàn cầu hóa và đa dạng văn hóa, các giá trị truyền thống gặp nhiều thử thách. Đặc biệt, với sự bùng nổ thông tin và biến động xã hội, con người ngày nay không còn sống trong một thế giới đơn giản, rạch ròi mà là một thế giới đa chiều, hỗn loạn và khó đoán định.
Xem thêm
Thế giới kỳ vĩ của thơ
Thế giới của thơ, với thi sỹ là bến đậu của tâm hồn, là cánh đồng gieo trồng cảm xúc và chữ nghĩa, là bầu trời để cất cánh ước mơ và thả hồn phiêu lãng; với đọc giả là nhịp cầu kết nối con tim, là dòng sông soi rọi, tắm táp tâm hồn để được nâng đỡ và bay cao.
Xem thêm
Văn học dịch và những tác động đến đời sống văn học Việt Nam những năm đầu thế kỉ XXI
Nói đến văn học dịch những thập niên đầu thế kỉ 21, có lẽ, trước hết, phải nhắc tới việc rất nhiều tác phẩm thuộc hàng “tinh hoa”, “kinh điển”, hay các tác phẩm đạt được các giải thưởng văn chương danh giá (Nobel, Pulitzer, Man Booker...) đã được chú trọng chuyển ngữ trong giai đoạn này.
Xem thêm
Vài nhận thức về trường ca “Lò mổ” của Nguyễn Quang Thiều
Tôi hỏi nhiều nhà thơ và văn, rằng họ thấy trường ca “Lò mổ” của Nguyễn Quang Thiều như thế nào và đặng họ có thể khai sáng chút gì cho tôi nhưng không ai có câu trả lời khiến tôi thỏa mãn, đa phần đều nói “Ái chà, Lò mổ của Nguyễn Quang Thiều hả, bọn tớ cũng chỉ nghe dư luận ồn ào trên mạng thôi chứ có sách đọc đâu!”.
Xem thêm
Nguyễn Duy – Vịn thi ca vượt thác thời gian...
Bài đăng Văn nghệ Công an số ra ngày 13/11/2025
Xem thêm
Thơ có nghĩa là “thương” - Tiếng thơ Đặng Nguyệt Anh
Một bài viết thấm đẫm nhân tình của Tuấn Trần – người trẻ viết về Đặng Nguyệt Anh, “ngoại” của thơ và của lòng nhân hậu. Từ câu chữ đến cảm xúc, bài viết là một lời tri ân chân thành dành cho thế hệ cầm bút đã “đem trái tim yêu thương gánh ghì số phận chung”, để hôm nay, thơ của họ vẫn còn làm dịu đi những cơn bão đời người.
Xem thêm
Chất liệu dân gian trong ca khúc Việt Nam hiện đại
Bài viết này xin phép được tiếp tục trình bày một xu hướng vận động chủ đạo của âm nhạc dân gian truyền thống Việt Nam sau 1975: dân tộc hóa ca khúc Việt Nam.
Xem thêm
Đọc thơ Thiên Di
Dường như là một giấc mơ chậm rãi, dịu dàng, vẫn đọng lại dư âm của cô đơn, khao khát và hy vọng. Tác giả sử dụng nhịp điệu từ những chi tiết nhỏ – mưa rả rích, ánh mắt, cánh hoa – để cảm xúc lan tỏa, khiến độc giả không cần lạm dụng từ ngữ hoa mỹ vẫn cảm nhận được sự mềm mại, tinh tế và ám ảnh.
Xem thêm
Nguyễn Khuyến “thâm nho” giữa đời thường
Nguyễn Khuyến (Nguyễn Thắng, 1835-1909) hiệu Quế Sơn, tự Miễn Chi. Người đời gọi ông là Tam Nguyên Yên Đổ, do lấy địa danh là xã (làng) Yên Đổ (huyện Bình Lục, Hà Nam trước đây) ghép với việc ông thi đỗ đầu (giải nguyên) cả ba kỳ thi hương, hội và đình. Nhưng việc này thì chính Nguyễn Khuyến cũng chẳng tự hào cho lắm, ông viết: “Học chẳng có rằng hay chi cả/ Cưỡi đầu người kể đã ba phen”.
Xem thêm
Triệu Kim Loan - Khúc độc thoại xanh của hồng gai
Bài viết sâu sắc dưới đây của nhà văn Kao Sơn dành cho buổi ra mắt sách Chữ gọi mùa trăng - Tập thơ thứ 7 đánh dấu chặng đường chín muồi của nhà thơ Triệu Kim Loan
Xem thêm
Quan niệm của Xuân Diệu về thơ từ những câu chuyện đời thường
Sinh thời, theo thống kê của Mã Giáng Lân, thi sĩ Xuân Diệu đã có hơn 500 buổi bình thơ trước công chúng. Đây là hoạt động nghệ thuật mà hiếm có nhà thơ, nhà văn nào ở Việt Nam và cả trên thế giới có thể sánh được. Không chỉ trong nước, chính “ông Hoàng thơ tình” Xuân Diệu đã có công quảng bá thi ca Việt Nam ra thế giới, giúp độc giả nước ngoài biết đến Nguyễn Du, Nguyễn Trãi, Tú Xương, Hồ Xuân Hương…
Xem thêm
Hành trình nước - Bước chuyển mình của kẻ sĩ chu du
Với Hành trình nước, Vũ Mai Phong cho phép người đọc thám hiểm một cõi tâm hồn mình, để chiêm nghiệm, để cảm nhận sự chuyển hóa kỳ diệu của nước - từ giọt sương nhỏ bé hóa thành đại dương bao la, từ tâm hồn cá nhân hòa vào tính thiêng của Tổ quốc.
Xem thêm
Gió Phương Nam 4 - Những lời thơ chân thực
Trang thơ “Gió Phương Nam 4” dễ dàng gợi lại những bước chân đồng đội năm xưa – bước chân thời chiến, bước chân thời bình, mang theo niềm vui, nỗi nhớ và cả những nỗi buồn sâu lắng.
Xem thêm
“Bến nước kinh Cùng” - Bến đợi của ký ức và tình người…
“Giữa bao vội vã, còn mấy ai lắng lòng với những phận người quê mộc mạc?” - Chính từ trăn trở ấy, “Bến nước kinh Cùng” của nhà văn Nguyễn Lập Em được tìm đến như một lời nhắc nhở tha thiết, đưa ta trở về với đất và người Nam Bộ, nơi tình quê và tình người thấm đẫm trong từng trang viết.
Xem thêm
Người thơ xứ Quảng: “Ảo hương lãng đãng bên trời cũ”
Nhà thơ Xuân Trường - tên thật Nguyễn Trường - là một tâm hồn phiêu bạt. Ông sinh ngày 12/12/1949 (theo giấy khai sinh) nhưng thực tế là năm 1945 (tuổi Ất Dậu), tại xã Đại Phong, huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam.
Xem thêm
Nước sông Sa Lung chưng cất bầu rượu thơ
Nhà thơ Nguyễn Hữu Thắng lớn lên bên dòng sông Sa Lung xanh trong. Có phải dòng sông Sa Lung là dòng sông thơ ca của đất Rồng - Vĩnh Long?. Tuổi thơ anh vô tư ngụp lặn vẫy vùng bơi lội tắm mát trong dòng sông ấy, nên anh rất yêu thơ, tập tành sáng tác thơ và thành công thơ khá sớm.
Xem thêm
Cung ngà xưa – Tiếng vọng ký ức trong miền tiếp nhận hôm nay
Đặt trong bối cảnh văn hóa, “cung ngà” còn gợi đến truyền thống âm nhạc dân tộc, nơi tiếng đàn, tiếng sáo từng là phương tiện gắn kết cộng đồng. Người miền Trung – đặc biệt là Huế và xứ Quảng – vốn sống trong không gian khắc nghiệt, thường tìm đến âm nhạc như một nơi trú ngụ tinh thần. Vì vậy, bài thơ không chỉ là ký ức cá nhân, mà còn mang dấu vết của ký ức tập thể.
Xem thêm
“Công chúa Ngọc Anh – bể khổ kiếp nhân sinh”
Văn học lịch sử vốn được xem là mảng khó viết bởi vừa đảm bảo tính chính xác vừa phải tạo được tính hấp dẫn lôi cuốn. Người viết văn học lịch sử không thể xuyên tạc, tô vẽ hay làm méo mó đi nội dung câu chuyện. Chính vì khó viết nên văn học lịch sử luôn là đề tài thu hút nhiều người đọc, bởi đó là cơ hội để người đọc và người sáng tác chiêm nghiệm lại quá khứ, suy ngẫm về tương lai, trăn trở về những hưng thịnh của thời đại, là một dòng chảy làm tái sinh những giai thoại dựa trên sự kiện lịch sử. Người viết văn học lịch sử là người phục dựng lại những bí ẩn còn chìm sâu trong bức màn thời gian, làm sáng tỏ những giá trị nghệ thuật mang tính truyền thống hay tín ngưỡng.
Xem thêm